Khai Nguyên

Khai_nguyn

Tìm Em

Biết tìm em ở nơi đâu
Chia tay buổi ấy bên cầu năm xưa
Bờ xa hàng liễu bơ phờ
dưới dòng soi bóng hững hờ mây trôi

Nhìn nhau muốn nói bao lời
Mà sao căm nín miệng cười lệ tuôn
Người đi gởi lại nửa hồn
Người về mang nặng nỗi buồn cách xa

Đành rằng mấy chục năm qua
Mịt mù chinh chiến mắt nhòa ngóng trông
Cơn say muốn vút cầu vồng
Tìm trong bão lửa dang hồng còn không

Hằng đêm nến nhỏ giọt trong
Quàng tay ôm trọn một vòng hư vô

Khai Nguyên

Huỳnh Hữu Võ

Hunh_Hu_V

Đà Lạt
Tháng Giêng Hồng

nếu như trời không gió
mưa sẽ về đồi thông
nếu như em không đến
sẽ vô cùng mênh mông

Đà Lạt chiều xuống thấp
bóng ai bên hàng cây
chắc nỗi buồn đứng nấp
cho trời chiều đầy mây

bỗng dưng lòng hoang vắng
gió lạnh đâu tìm về
từ cõi nào xa thẳm
để buồn lên tái tê

giọt sương như lay động
nõn xanh bên bờ hồ
bóng em cứ xao động
trong tim anh từng giờ

nếu như em không đến
Đà Lạt tháng giêng hồng
hoa quỳ không còn nở
giữa vô cùng mênh mông

Ngày Trở Lại Phan Rí

Tôi về Phan Rí qua vườn táo
Cắn trái vàng thơm ngọt đượm tình
Cắn trái xanh chua lòng thiếu nữ
Men đời còn xanh trên lá xanh

Lưu lạc bao năm lòng vẫn nhớ
Mái nhà khóm táo của ngày xưa
Ở đây gió cát như dòng chảy
Đời lún sâu khi biển mất mùa

Tôi về Phan Rí đi xe ngựa
Qua cầu, qua cầu đến làng Chăm
Chiêm nữ đội vò đi lấy nước
Dưới đồi đồng lúa trải mênh mông

Như có chút gì còn sót lại
Một thời hưng thịnh thuở vàng son
Tôi thấy hình như trong đáy mắt
Chiêm nữ còn in nét tủi buồn

Tôi về Phan Rí bơi thuyền nhỏ
Qua dòng sông luỹ lặng lờ trôi
Bèo mây có lúc tan rồi hợp
Tôi lại về đây lúc nửa đời

Bên kia một dãy đồi Xích Thố
Đồi đứng mà như ngựa ruổi dong
Phải chăng xưa đó là trận mạc
Nên cát đồi trăng cứ đỏ hồng

Tôi về Phan Rí trông ra biển
Một thành phố nổi một rừng sao
Ở đây lắm mực nhiều tôm cá
Nguồn sống cư dân tự thuở nào

Bao năm tôi lại về Phan Rí
Thăm mấy người thân mấy bạn thơ
Lớp trước thầy cô đâu cả nhỉ?
Trường xưa buồn vắng bóng người xưa.

Một Ngày Với Sóc Trăng

Chiều về Liêu Tú thênh thang gió
Bóng nhỏ đường thôn bước diệu kỳ
Lòng như mây trắng lưng trời biếc
Bên rặng dừa nghiêng Sơn Phos Ly

Em dấu nỗi buồn trong cúc áo
Để cho trăng mười sáu nhạt nhòa
Bếp đùn khói tỏa mờ Buôn, Sóc
Như níu chân người khách phương xa

Lịch Hội Thượng còn là nỗi nhớ
Chùa Khờ me chìm trong mưa giăng
Đưa tay em vẫy lời chia biệt
Để muôn đời thầm gọi: Sóc Trăng

Lung linh nước và mênh mông lúa
Đẹp tuyệt vời đôi mắt Khờ me
Mềm môi vị ngọt lời Nam Bộ
Cỏ rối vướng tay chậm bước về

Sẽ có một ngày em ước hẹn
Con thuyền gác mái nước sông trôi
Là trên bến vắng chiều Liêu Tú
Có kẻ si tình đứng gọi: Phos Ly ơi!

Đà Lạt
Tháng Giêng Hồng

nếu như trời không gió
mưa sẽ về đồi thông
nếu như em không đến
sẽ vô cùng mênh mông

Đà Lạt chiều xuống thấp
bóng ai bên hàng cây
chắc nỗi buồn đứng nấp
cho trời chiều đầy mây

bỗng dưng lòng hoang vắng
gió lạnh đâu tìm về
từ cõi nào xa thẳm
để buồn lên tái tê

giọt sương như lay động
nõn xanh bên bờ hồ
bóng em cứ xao động
trong tim anh từng giờ

nếu như em không đến
Đà Lạt tháng giêng hồng
hoa quỳ không còn nở
giữa vô cùng mênh mông

Ngày Xưa

Em đi giữa dòng đời
Một khung trời thơ mộng
Giọt buồn nào lắng động
Rơi xuống đáy hồn tôi

Làm sao em biết được
Những sáng mờ hơi sương
Làm sao em biết được
Giữa lòng tôi tơ vương

Cửa nhà em đóng chặt
Khép kín một tình yêu
Tôi về qua ngõ quạnh
Khuya khuya niềm cô liêu

Mai em về bến mới
Sóng nhỏ chao lòng thuyền
Em tung tăng dưới nắng
Nón không buồn che nghiêng

Ngày xưa em là mộng
Ngày xưa em là thơ
Giữa hồn tôi còn đọng
Những giọt buồn ngày xưa

Huỳnh Hữu Võ

Huỳnh Hữu Ủy

Huynh Huu Uy (1)

Huỳnh Hữu Ủy Viết Về:
Tranh Hồ Thành Đức

Trong khi không khí của Hồ Hữu Thủ khá nhẹ nhàng, thì tranh Hồ Thành Đức lại đầy vẻ bi thảm; cái thơ mộng luôn luôn hiện ra dưới một hình thái buồn thảm, cô quạnh và phần nào hơi tan vỡ, nứt rạn.

Với hội họa miền Nam trước 1975, tranh Hồ Thành Đức khá đặc biệt với kỹ thuật giấy dán của anh. Trên thế giới, kỹ thuật này không có gì mới mẻ. Ở Nhật khoảng thế kỷ XIII, XIV, nghệ sĩ Nhật Bản đã biết sử dụng những chất liệu như giấy, gỗ, vải để dán thêm vào tranh vẽ. Ở phương Tây, Braque và Picasso, đặc biệt là Braque đã đưa kỹ thuật này vào thế giới tạo hình, dùng những mảnh bìa với những màu sắc khó thể tạo nên bằng cây cọ của họa sĩ. Một vài chất liệu khác nữa được ghép lại và dán cứng lên nhau, và sau cùng, đường nét được phóng vẽ lên bao trùm lấy toàn thể những chất liệu đã được dùng đến.

Kỹ thuật dán giấy đã một thời cùng với trào lưu siêu thực và lập thể mà phát triển mạnh, gây nên nhiều chú ý và những tiếng vang sâu đậm khắp nơi, đã thử thách lắm nghệ sĩ nhưng không phải ai cũng có thể dấn bước vào, bởi vì không những nó đòi hỏi một sự chuyên tâm nghiên cứu, trau luyện để tìm ra một đường lối thể hiện mà còn đòi hỏi, một cách tất yếu hơn, những điều kiện tâm cảm nào đó của người nghệ sĩ.

Nói như nghệ sĩ siêu thực bậc thầy Marx Ernst, với những chiếc lông chim ta có thể kết thành một đám lông chim, nhưng không phải với keo hồ là có thể làm thành nghệ thuật ghép dán (Si ce sont des plumes qui font le plumage. Ce n’est pas la colle qui fait le collage).

Sau nhiều năm làm việc, thử thách với hình thức hội họa này, Hồ Thành Đức đã đạt được nhiều thành công đáng kể, chinh phục được công chúng thưởng ngoạn cũng như anh em sáng tác cùng giới. Phòng tranh bày tháng 5-1970, ở phòng triển lãm quen thuộc Pháp Văn Đồng Minh Hội, đã để lại những ấn tượng tốt đẹp về một đời sống nghệ thuật sâu sắc và một kỹ thuật khá cao đã được nắm vững. Trừ một vài tác phẩm có đôi chút tươi vui như Đồ chơi của trẻ con, Tĩnh vật và hoa, Vũ khúc Đông phương, gần như một thứ trang trí với vẻ lấp lánh của ánh sáng chiếu rọi qua những tấm kính rực rỡ trên các khung cửa nhà thờ gô-tích, tất cà các tấm tranh còn lại đều tỏ lộ một thế giới khá buồn thảm, với sắc độ hầu khắp là lạnh lẽo.

Màu sắc xanh xám, đen nâu trộn vào nhau, pha cùng với màu nâu sậm, màu chì của bầu trời mây tối. Cảnh vật bị đè nặng dưới sức ép của bạo lực và kinh hoàng, trầm lắng dưới những khối màu ảm đạm. Trên một đường phố, trên khuôn mặt mẹ già hay ngay cả thiếu nữ đang độ thanh xuân, trên những chân dung hay tĩnh vật cũng thế. Luôn tỏa ra trong tranh anh một nỗi buồn bã, trống trải, tan rả, những đau đớn và gãy đổ của một thời đại chia cách, phân hóa. Thế giới gần như tuyệt vọng và tan vỡ mọi bề, thực hết sức hiu quạnh, vắng bóng con người. Nếu con người hiện ra thì cũng đang tê cứng và biến dạng đi để trở thành một thứ đá im lìm, u uất, bất động mà bao nhiêu tiếng gào, bao nhiêu nỗi căm phẫn đều dồn vào bên trong. Chúng ta hãy thử kể đến vài tấm tranh trong không khí ấy: Gia đình trong cổ tháp, Ánh sáng trong Viện Bảo Tàng, Tình đá, Đá mặt trăng và tuợng Ai Cập, Tĩnh vật, Chân dung của người già, Thành phố xám, Giáo đường màu xám, Sau chiến tranh, Thiếu nữ trên tường rêu, Vết đạn trên thành phố Huế …

Khó cắt nghĩa chính xác tại sao trên tranh Hồ Thành Đức lại nhuốm đầy vẻ bi thảm, hoang mang và ác mộng. Nhưng ít nhiều chúng ta cũng đã biết đến những ám ảnh khắc nghiệt vào thời tuổi thơ họa sĩ, cùng những dằn vặt của thời tuổi trẻ, và sau cùng là tuổi trưởng thành trên một đất nước mà chiến tranh đang đè nặng như một định mệnh tàn khốc. Hẳn rằng tất cả những yếu tố ấy đã hợp nhau lại để dựng thành một thế giới riêng tư bi thảm.

Những năm về sau này, có lẽ tâm cảnh cũng biến chuyển theo với thời thế bên ngoài, khi chuyển qua giai đoạn thực hiện tranh sơn mài, khi căn nhà của Bé Ký, Hồ Thành Đức ở 78 bis Điện Biên Phủ (tức Phan Thanh Giản cũ) thực sự trở thành một xưởng sơn mài đáng chú ý ở Sài Gòn, thì tranh của Hồ Thành Đức đã vui tươi hơn nhiều, những mảnh vỡ trong collage trước đây càng làm cho sơn mài của Hồ Thành Đức sâu hơn và gợi cảm hơn, hầu hết các tác phẩm đều được nghiên cứu, thử tay, thực hiện trước bằng collage rồi mới chuyển qua khâu sơn mài để hoàn tất.

Tranh sơn mài của Hồ Thành Đức được sản xuất hàng loạt, không kịp đủ để bán, rồi theo các chuyến tàu, các người chơi tranh, các nhà sưu tập mà đi khắp thế giới. Bức Chân dung Chúa treo ở phòng khách lớn Hội Truyền giáo Hải ngoại Ba Lê (Missions Étrangères de Paris) được nhiều người thưởng lãm và cảm xúc. Nhà Bảo tàng Nghệ Thuật Thái Bình Dương ở Vác-Xa-Va (Warsaw), Ba Lan, năm 1984, đã chọn mua bức sơn mài Mẹ Âu Cơ của Hồ Thành Đức để giữ trong bộ sưu tập thường xuyên.

Tranh Hồ Thành Đức có trong nhiều bộ sưu tập riêng ở Pháp, Canada, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Đức, Thụy sĩ …

Một chút tiểu sử Hồ Thành Đức:

Sinh năm 1940 ở Đà Nẵng, theo học Trường Mỹ Thuật Huế, bỏ học dang dở và sau đó tiếp tục lấy bằng tốt nghiệp ở Trường Mỹ Thuật Gia Định. Giải thưởng Hội Họa Mùa Xuân 1963 với huy chương đồng. Tranh được Phủ Văn Hóa chọn để dự triển lãm quốc tế ở Luân Đôn (1965), Monaco (1965). Tham dự triển lãm lưu động giới thiệu văn hóa – nghệ thuật Việt Nam 1969, do Tổng hội sinh viên Nhật Bản tổ chức, với sự tham dự của Bé Ký, Nguyễn Gia Trí, những hình ảnh sinh hoạt âm nhạc của Trịnh Công Sơn v.v… Từ 1969-75, Hồ Thành Đức là giảng viên Mỹ Thuật Trường Đại Học Vạn Hạnh, và năm 1974 cho đến 30-4-75, đặc trách ban mỹ thuật áp dụng của Trường Đại Học Phương Nam vừa thành lập, với dự án sẽ tổ chức thành một phân khoa mỹ thuật. Hiện định cư tại California, Hoa Kỳ, vẫn thường xuyên tham dự các sinh hoạt nghệ thuật của cộng đồng người Việt nơi đây.

Vẻ Ẩn Mật
Trong Hội Họa Đinh Cường

Bước vào thập niên sáu mươi, hội họa Việt Nam bỗng dưng biến chuyển dữ dội, có tính đột phá với một lực lượng trẻ, mạnh khỏe, hừng hực lửa sáng tạo. Họ ào ạt vận dụng những tiếng nói mới, tất nhiên phải bắt liền mạch với nền nghệ thuật hiện đại của thế giới, rồi chính từ đó đã manh nha một nét gì đó riêng biệt của hội họa Việt Nam. Đinh Cường là một trong những khuôn mặt nồng nhiệt nổi bật ấy, phong nhã và đầy sự mê đắm. Suốt gần bốn thập niên qua, anh xuất hiện với những dấu hiệu riêng, dung chứa một vẻ bí mật rất riêng biệt. Một nhà phê bình văn học đã đề nghị chúng ta khi đến với một tác giả nào thì cần phải có một tấm bảng đồ chỉ dẫn và một quyển tự điển thuật ngữ riêng, cũng vậy, lần dò vào thế giới Đinh Cường, chúng ta cần có những dấu mốc, những cột đường và sự định hướng khi di động.

Đinh Cường thích đi đến những điều bí mật đằng sau cây cọ và những tảng màu. Cái ẩn mật hình như có một sức cuốn hút anh mãnh liệt. Quan sát cách làm việc của anh, chúng ta dễ nhận ra điều ấy. Những nét và màu cứ chồng chất lên nhau, bôi xóa, đào xới, lấp đầy, rồi lại mò mẫm đi tìm. Giữa những màu trầm tối, nâu xanh, tím thẫm, chợt lóe lên một vệt đỏ ấm cúng, vệt đỏ ấy sẽ là điểm quy chiếu để cân bằng và điều hòa. Đó chính là một con còng đỏ nhỏ tí xíu lấp ló giữa một bờ biển mênh mông, nhỏ tí xíu nhưng lại đủ độ nồng nàn để phá tan cái lạnh lẽo xanh thẫm trên toàn nền tranh. Hay cũng chính là cái chấm đỏ ấy, sẽ là một con chim mỏ đỏ rất lạ, hay một chùm bông hoa đỏ giữa một vùng hoang dại tràn đầy một màu xanh tối, với đá tảng, rêu phong và cây lá chen chúc.

Nhìn anh làm việc trước giá vẽ, nhiều lúc tôi có cảm giác anh cứ thả cho mình chìm mãi, chìm mãi vào trong biển màu sâu thẳm, nhưng bao giờ cũng vậy, rồi anh sẽ bắt được một điểm tựa để ngừng lại. Điểm tựa ấy không hẳn là một vệt màu mạnh và ấm, mà đôi lúc lại chỉ là một tảng xanh sậm lạnh lẽo, hay một mảng màu nâu ngã sang tím than. Lắm lúc, Đinh Cường dường như đã quên lãng hết cả cõi đời thực, anh như chỉ còn muốn sống một thế giới khác, đắm chìm trong những giấc mơ hư ảo, liên tục biến đổi, giữa những dấu vết dễ tan vỡ. Biến đổi trong cái không biến đổi, và không biến đổi trong cái biến đổi. Chẳng qua cũng chỉ là di động theo một qui luật vận hành tự nhiên. Tuy nhiên, chính trong cuộc vận hành ấy, giữa những tác động qua lại, anh đã tỏa chiếu lên thế giới sự vật một cách nhìn riêng của mình, hay đúng hơn, đó chính là cuộc đối thoại của một dấu ấn định mệnh, giữa vì sao hổ cáp hay thiên ngưu với dãy thiên hà mênh mông bất tận. Đinh Cường rượt đuổi những giấc mơ, và trên những nét và màu cứ mãi hoài di động, anh bất chợt tỉnh táo và dừng lại nơi một cảnh trí rất thơ mộng, thanh nhã, mà hình như luôn luôn u buồn và mù tối.

Về mặt kỹ thuật, có thể nói Đinh Cường là một trong những họa sĩ mới đã vận dụng đến cao độ những tình cờ bắt chợt được của các khối màu và hình thể. Giấc mơ và sự tình cờ của màu sắc và đường nét đã chập chồng lên trên hội họa của Đinh Cường. Ở đây chúng ta có thể nói là Cường rất tài hoa, phóng túng thả mình trôi nổi giữa nhịp điệu chuyển động của vô thức, nhưng rồi anh cũng dừng lại đúng lúc và mang tặng cho cuộc đời những bảng màu thực đẹp đẽ, phong phú, ảo hoặc đến độ kỳ diệu.

Tôi nhớ đến nhiều bức tranh rất đẹp của Đinh Cường, những bức tranh ấy hầu như đã mất tích hoặc bị hủy phá vì cuộc chiến tranh đẫm máu và tàn ác trước đây, nhưng chắc là những người yêu mến và quan tâm đến hội họa Việt Nam và sự đóng góp của Đinh Cường cũng còn nhớ đến, những Cầu Say, Đồng Nhập, Verdure, Con Chim Mỏ Đỏ, Nghĩa Địa Voi, Trăng Qua Vùng Đất Lạ.

Tranh của Đinh Cường, dù vô thể hay có hình tượng, thì cũng luôn là những phát biểu riêng biệt của anh: hình nét riêng, màu sắc riêng, rất đặc biệt là màu xanh lạnh vô cùng thơ mộng của anh. Tôi chưa hiểu vì sao Đinh Cường lại có vẻ bị ám ảnh bởi màu xanh ấy, nhưng nhìn chung có thể nói đó là một màu sắc đặc biệt của cả một thời kỳ hội họa Việt Nam, cái màu xanh pha trộn của ánh trăng, lá cây xanh, biển xanh, màu xanh nơi biên giới của sự sống và cái chết cùng tiếng ì ầm buồn thảm đến độ hung bạo của một cuộc nội chiến triền miên. Cái màu xanh ấy cũng có thể gặp ở một số họa sĩ tài năng đồng thời với Đinh Cường, như những Trịnh Cung, Nguyễn Trung, Nghiêu Đề, Hồ Hữu Thủ, không phải là toàn thể, nhưng nơi một phần sắc màu của Cao Bá Minh và Nguyễn Phước. Cái màu xanh thăm thẳm ấy đến với Đinh Cường 30 năm trước, và cho đến nay dường như vẫn còn là một ám ảnh đầy bí mật không dứt ra được.

Đinh Cường chọn lọc và yêu mến một số hình ảnh quen thuộc và gần gũi, những con chim nhỏ, những bông hoa nhỏ, thiếu nữ gầy nhưmột cành lau sậy phất phơ bên bờ núi, những chóp đỉnh nhà thờ giữa bầu trời xám, anh đã biến những hình ảnh ấy thành ký hiệu của mình.

Rồi nhiều lúc Đinh Cường đẩy những hình ảnh ấy biến thái trong những tiết điệu mới, thành rất là lạ và rất Đinh Cường, như hình ảnh một thiếu nữ đang nhảy múa để đánh thức những bông hoa trên một triền đồi, bên cạnh là một thiếu nữ khác ngồi trên mình ngựa với chiếc đàn mandoline nhỏ trong tay, cái chuông đỏ buộc nơi cổ ngựa cũng đang rung lên hòa vào cái rạo rực chung. Hay hình ảnh một người đàn ông lang bạt, giữa một buổi chiều xanh xám, đang lắng nghe tiếng còi tàu dội về từ một vách đá giữa vùng đồi núi Di Linh. Hình bóng người đàn ông ấy, đội mũ sụp, ngậm ống vố, ngồi lặng lẽ nơi một góc nào đó của cuộc đời, làm tôi nhớ đến những trang sách cực kỳ tài hoa của Nguyễn Tuân viết về những chuyến ra đi của anh chàng đãng tử. Ra đi, trở về, lại nhớ đến những chuyến ra đi, và rồi lại lên đường lang bạt kỳ hồ. Có lẽ hình ảnh ấy cũng có để lại dấu vết nơi Đinh Cường, tôi đoán chừng như vậy.

Đinh Cường đã sống thời tuổi trẻ của mình rất đẹp, thích đi qua những ga tàu, những trạm xe chuyển bến, những thành phố, những thành phố rất mới và những thành phố cổ kính, rồi thỉnh thoảng tá túc lại giữa những căn nhà bên đường chuyển dịch một thời gian, một đôi ngày, vài ba tháng, dăm bảy năm. Tôi đã đến thăm nhiều nơi anh lưu ngụ, nơi nào cũng vậy, dù ở một biệt thự sang trọng trên một dốc đồi, hay nơi một túp lều nghèo nàn giữa một xóm nhỏ, đều luôn tỏa ra các cung cách thanh nhã, quý phái của anh. Cái đẹp đối với một nghệ sĩ tạo hình là một vấn đề thuộc lãnh vực thị giác, là cái đẹp của con mắt, là sắp đặt sự vật cho hòa hợp, quân bình. Cho nên, ngay như cái thô kệch và xộc xệch thì cũng phải là một thứ xộc xệch trong hòa điệu vững chắc. Nói tắt lại, trước tiên, nó phải là cái đẹp hình thức, rồi từ đó mới dẫn vào chiều sâu của thế giới nội dung.

Những người gần gũi Đinh Cường hầu như đều dễ dàng yêu mến và quý trọng cái chải chuốt hình thức của anh. Từ thời còn rất trẻ, anh thích cung cách, dáng vẻ nghệ thuật của Modigliani, André Breton, Max Ernst, Hans Arp, Paul Klee, Paul Eluard; sinh hoạt của anh phải là đất Paris với khu Montmartre và nơi những căn nhà anh ở tôi đã thấy thấp thoáng cái vẻ đẹp kiểu cách ấy một cách rất tự nhiên, hòa hợp và rất thân mật.

Đinh Cường bước đi giữa cuộc đời một cách rất tài hoa, và trên hết mọi chuyện, có lẽ bản năng sáng tạo là sức đẩy nội tại dữ dội, đã thôi thúc và không ngừng đặt anh trước giá vẽ từng mỗi giây phút. Bức rức và bó tay thúc thủ nhiều năm sau l975, nhưng khi thời thế có mở cửa đôi chút, anh đã nắm ngay thời cơ để phát biểu tiếng nói của mình. Tôi còn nhớ khá rõ không khí một phòng tranh bỏ túi của anh ở phòng mạch một người bạn bác sĩ vào khoảng năm 1983. Tôi cũng có một chút kỷ niệm nhỏ với phòng tranh này, vì đến trễ vài phút, tôi đã mua hụt một bức tranh khổ nhỏ mà tôi rất thích, bức Tôi vẫn còn tiếp tục mơ mộng. Người mua tấm tranh này là một khuôn mặt trí thức đặc biệt của Sàigòn, là một nhà văn, nhà báo, giáo sư đại học, và trên hết mọi chuyện, là một con người chiến đấu cho lẽ phải và quyền làm người suốt mấy chục năm qua, vì vậy việc ông chọn mua bức tranh ấy cũng là một dấu hiệu đáng chú ý.

Cảm hứng từ tác phẩm điêu khắc “Je continue à rêver” của một nhà điêu khắc trẻ Tiệp Khắc. Đinh Cường đã dựng nên không khí của bức tranh, trên những mảng màu bôi bác tình cờ, anh phát hiện và nhìn thấy chân dung của mình. Anh chấm phá thêm một số đường nét để vẽ nên bóng dáng của người họa sĩ đang tiến công vào cái đẹp. Dùng chữ “tiến công” là hơi cường điệu, cho có vẻ mạnh mẽ và năng nổ, thực sự ra đấy là một hình ảnh khá nhẹ nhàng và rất thơ mộng: người họa sĩ mang trên lưng mình một bảng màu và những cây cọ mà từng mỗi cây cọ giống như là một mũi tên và palette vẽ giống như cái túi xắc của người thợ săn. Rất rõ ràng đó chính là một tuyên ngôn của Đinh Cường, mặc dù lặng lẽ nhưng cũng đã gây nên những làn sóng ngầm, giữa một thời kỳ đất nước đang phải đặt trong tay một chế độ toàn tri gay gắt. Ở phòng triển lãm này, mua hụt bức “Tôi vẫn còn tiếp tục mơ mộng” nhung cũng còn một chút may là mua được một bức khác cũng khá đẹp, là bức “Đánh thức đồi hoa”. Tôi nói là may, bởi vì một người nào đó đã chọn mua bức này, nhưng sau lại đổi ý, mua tấm khác, và tôi đã tức thời chớp ngay bức đó.

Trở lại với hình ảnh người đàn ông ngồi bên ga tàu vắng lặng cạnh một vách núi năm nào, gần đây, tôi hết sức cảm xúc gặp lại bóng dáng ấy nơi một cảnh ngộ khác. Nơi bức tranh Đinh Cường gọi là Vong thân, cũng là dáng vẻ ấy nhưng trầm buồn hơn, gã đàn ông ngồi lặng lẽ như tượng, nổi bật trên nền tranh xanh màu ngọc lục bảo; một đường chân trời cắt nghiêng, và màu trời xanh sậm hơn. Trên nền tranh, một con chim nhỏ đậu mong manh, như nhấn thêm một nét mô tả vào cảnh đời của một lãng tử mãi hoài lưu lạc. Dưới nhãn giới xã hội học, bức tranh này hẳn cũng có thể nói nhiều điều về một lớp người lưu lạc trên đất khách mà cuộc đổi dời lịch sử đã xô đẩy vào những bến bờ mới thực hết sức lạ lùng.

Đinh Cường đã sống một thời tuổi trẻ thực đầy thi vị và phong phú, và đã làm việc thực hết sức dữ dội. Số lượng tranh anh để lại rải rác khắp nơi rất là lớn, lên đến cả hàng ngàn tấm. Họa sĩ Việt Nam, dường như chỉ có Bùi Xuân Phái và Đinh Cường là có sức làm việc như thế mà thôi. Hiện nay, trước ngưỡng cửa của tuổi sáu mươi, trong cuộc sống lưu vong đầy áp lực và nứt rạn trên một đất nước xa lạ, anh vẫn gìn giữ phong cách của bao nhiêu năm tháng trước. Vẫn vui đùa với cọ vẽ, nồng nàn với đời sống, vẫn tiếp tục sử dụng những ký hiệu của mình, vẫn đặc biệt nhất với cách nhìn xanh thẫm vào những nỗi bí mật huyển hoặc. Và trên những bước chân chuyển dịch mới, vẫn giữ được ngọn lửa âm ỉ cháy trong lòng mình cho một cuộc sống lang bạt với đất trời và cái đẹp.

Huỳnh Hữu Ủy

Huyền Lam

Hòn Đá Bên Cây Tùng

Sinh ra lớn lên tại khu ghetto nghèo đầy tội phạm thường thấy tại các thành phố lớn, John không có cha, mẹ nghiện ngập suốt ngày. Bao nhiêu tiền chính phủ trợ cấp hàng tháng cho gia đình nghèo, mẹ anh dùng mua rượu, thuốc.

John nhiễm theo tính xấu môi trường chung quanh, tuy chưa dính vào ma túy, nhưng thỉnh thoảng trốn học, cạy cửa xe, đột nhập nhà ăn trộm để có tiền mua những món đồ mình thích. John cũng từng bị cảnh sát bắt một lần nhưng dưới tuổi trưởng thành nên chưa phải ngồi tù.

Do mẹ anh không còn tiền mua thực phẩm, John ăn sáng ăn trưa tại trường học được Bộ Xã hội tài trợ cho học sinh nghèo. Chiều tối John cuốc bộ đến nhà ăn từ thiện dưới phố dành cho người khốn khó. Đến đây ăn đã nhiều năm nhưng John không quen ai trong nhóm thiện nguyện, bởi mỗi ngày có những nhóm khác nhau tham gia phục vụ.

Người duy nhất John nhớ đến là ông già tuổi ngoài 70 thường làm vào chiều thứ Bảy. Mỗi lần gặp, ông cười tươi, chào mọi người đến ăn rất chân tình. Ông khéo léo múc các món thức ăn vào khay, tươm tất gọn gàng. Khi đưa khay thức ăn, ông bao giờ cũng niềm nở, chúc người ăn ngon miệng như thể đang phục vụ cho vị khách cao quý tại nhà hàng sang trọng nào. Mỗi lần gặp ông, John cảm thấy an lạc, nhẹ nhàng. Thỉnh thoảng khi vắng người, thấy John ngồi ăn lẻ loi một mình, ông pha ly nước cam đem đến.

John thường không giấu ông điều gì, ngay cả chuyện đánh nhau ở trường hay cạy xe ăn cắp vặt bị cảnh sát bắt. Ông ngồi nghe chăm chú gật gù, cám ơn người thiếu niên to lớn tuổi teen đã chia sẻ. Sau mỗi lần trò chuyện, ông luôn cười rất tươi khuyên John:
– Làm cậu bé tốt tính đi! Đừng làm chuyện dính vào phiền phức nữa, khi đến tuổi trưởng thành sẽ không tốt cho cháu.

John bản tính ương ngạnh, máu giang hồ ảnh hưởng từ khu ghetto, cười lanh lảnh, chỉ vào bắp tay cuồn cuộn, tự hào:
– Cháu mạnh, chắc như đá tảng. Không ai làm gì được cháu đâu!

Không giống như những người khác đến dùng cơm một thời gian rồi ra đi, John đến đây hàng ngày, năm này qua năm kia nên tất cả các nhóm thiện nguyện đều biết đến cậu tuổi teen này. John trở nên thân thiết gắn bó với ông già, gọi ông thân mật hí hỏm bằng cái tên tự đặt: Ông già Cool (cool: vui vẻ, điềm tĩnh).

Bẵng đi một thời gian dài John đột nhiên biến mất không đến dùng cơm. Mọi người thắc mắc muốn tìm hiểu nhưng không biết địa chỉ. Mấy tháng sau, viên cảnh sát đến tìm ông Cool tại nhà ăn, trao bức thư:

“Ông Cool ơi, cháu đã 20 tuổi rồi, đang ngồi tù vì tội trộm cướp. Mẹ cháu mất hơn nửa năm nay. Tháng tới cháu sẽ được thả nhưng không biết phải đi đâu, làm gì để sống. Với hồ sơ tội phạm nếu không người bảo lãnh sẽ không ai mướn cháu, dù có tiền thuê nhà không ai sẽ cho cháu thuê. Cháu không muốn sống trở lại với giới giang hồ để tiếp tục con đường cũ. Cháu muốn làm người tốt, ông ơi!”.
***
Buổi chiều bước chân ra khỏi nhà tù, nét mặt John mệt mỏi, hoang mang cực độ sau một đêm trằn trọc. Cảm giác được tự do không đủ làm anh vui khi đối diện tương lai vô vọng phũ phàng. John thất thểu bước đến trạm đăng ký xe miễn phí dành cho tù nhân mãn hạn, dù không biết phải đi đâu. Hình như có ai đang vẫy tay nơi xa xa. Nụ cười tươi mát ấy, khuôn vóc điềm tĩnh ấy, không thể nào ai khác, John mừng rỡ kêu to, anh chạy ào đến ôm choàng, siết chặt:
– Ông Cool!
Ông xoa nhẹ, vỗ về tấm lưng chắc thịt của người thanh niên mới lớn, ông cho biết các nhóm thiện nguyện tại nhà ăn đã quyên góp mướn căn phòng gần đó giúp anh có nơi cư trú trong 6 tháng. Ông sẽ chở John về nhà ở tạm đêm nay rồi ngày mai đi nhận phòng. John bàng hoàng như không tin vào chính tai mình. Mới vài phút đây thôi anh thấy cô đơn lạc lõng tận cùng. Thế giới như không có anh, loài người như không biết đến sự hiện hữu của anh. Cảm giác được yêu thương, được chấp nhận làm John xúc động mạnh. Mắt anh hoen ướt đầu tiên trong đời.

Ông Cool sống một mình trong căn nhà nhỏ chỉ có một phòng ngủ nhưng có phòng khách lót sàn gỗ khá rộng thoáng. Nơi đây ngoài mấy kệ sách, vài tấm gối ngồi trên sàn của Nhật (tọa cụ), có chiếc bàn thô sơ chưng bức tượng đồng ngồi mỉm cười thật đẹp mà John không biết là ai và có ý nghĩa gì.

Ông Cool làm sẵn món mì Ý đãi John trong buổi cơm chiều. John kể cho ông nghe nhiều khía cạnh khốc liệt đời sống trong tù. Ông chăm chú lắng nghe, gật gù. Dùng bữa xong, ông khuyên John đi tắm để ông lót nệm ngoài phòng khách cho John ngủ tối nay. Khi tắm xong, John bước ra, không gian thanh tịnh lạ lùng. Anh chợt giật mình khi thấy ông Cool phong thái rất an nhiên, ngồi thẳng lưng lặng im giữa căn phòng, miệng mỉm cười cùng bức tượng trên bàn.

Đột nhiên ông nói khẽ:
– Cháu ngồi xuống đây bên cạnh ta, trên tấm gối này, chúng ta cùng trò chuyện.

John nghe lời, ngồi xuống như dáng ông ngồi, nhìn vào bức tượng đang mỉm cười. Không gian lắng đọng, anh nghe được cả hơi thở chính mình.

Ông Cool hỏi John:
– Cháu kể về đời sống trong tù, thế cháu có dự tính gì sau khi ra tù không?
– Cháu không biết bắt đầu ra sao ông ạ, mọi chuyện đối với cháu như ngõ cụt. Cháu may mắn được ban thiện nguyện giúp 6 tháng tiền trọ, nhưng sau 6 tháng cháu cũng không biết phải làm gì.

Vẫn nhìn bức tượng mỉm cười, dáng an nhiên bất động, ông lên tiếng:
– Thật ra cháu đã biết bắt đầu rồi đấy chứ. Cách đây 1 tháng, cháu biết bắt đầu bằng nhận thức rằng mình phải làm người tốt. Chính điều ấy đã gieo mầm cho những điều tốt đẹp hôm nay. Nếu cháu tiếp tục con đường làm người tốt thì điều tốt đẹp sẽ tiếp tục đến với cháu.
– Nhưng cháu tiếp tục như thế nào hở ông? Cháu sẽ cố gắng xin việc làm, nhưng cháu không có kinh nghiệm gì. Ai sẽ mướn một người từng ở tù như cháu?

Nhẹ nhàng, ông Cool khuyên:
– Cháu hãy cố gắng kiếm việc làm hàng ngày. Ai cũng muốn thuê người tốt. Vậy cháu nên làm gì để mọi người có cơ hội biết cháu là người tốt?

Suy nghĩ một lúc lâu, John lên tiếng, giọng vẫn còn rổn rảng, khô cứng của giới giang hồ:
– Mỗi ngày ăn ở nhà ăn thiện nguyện, cháu sẽ giúp dọn dẹp, rửa chén hoặc bất cứ việc gì cần làm.

Ông Cool đôi mắt sáng biểu lộ niềm vui:
– Thật tuyệt vời! Cháu thấy không? Cháu biết mình phải bắt đầu như thế nào mà.

Chỉ vào bức tượng trên bàn, ông nói tiếp:
– Làm người tốt bao gồm làm người chung quanh cảm thấy an vui. Mỗi ngày cháu ráng bỏ ra 10 phút, ngồi một mình, thở nhẹ nhàng, tập cười như bức tượng kia cười. Gặp ai cháu cũng cười nhẹ nhàng như bức tượng nhé. Làm được như thế, nhiều điều mầu nhiệm sẽ đến. Cháu sẽ thấy đời sống đáng yêu, âu lo cũng bớt đi rất nhiều. Mấy mươi năm nay mỗi ngày ông đều ngồi tập cười như thế.

John trầm trồ:
– Ồ, thì ra vì thế mà ông lúc nào cũng cười rất tươi mát với mọi người. Ai cũng thân thiện quý mến ông. Làm thế nào cháu cũng có một tượng như thế? Tượng là Buddha (Phật) phải không ông? Phật là vị thánh như thế nào?
– Ông sẽ cho cháu một tượng như thế. Phật là người có thể tự tại mỉm cười trước mọi hoàn cảnh. Cháu có thể nghĩ đơn giản rằng: Phật là người lúc nào cũng cool. Sau này cháu muốn tìm hiểu thêm, ông sẽ nói thêm.
***
Ngày đầu tiên John trở lại dùng cơm tại nhà ăn, mọi người vui vẻ đón chào. Khi anh ngỏ lời muốn giúp những việc lặt vặt tại đây, các nhân viên từ thiện đều đồng ý nhưng có chút ưu tư trong lòng: không biết tính khí giang hồ trước đây của anh có làm công việc khó khăn nặng nề thêm? Thế nhưng chỉ sau vài ngày, mọi người thì thầm bàn tán “thằng John rổn rảng ngang ngược ngày trước sao giờ dễ thương quá đỗi!”.

John không hề câu nệ bất cứ việc gì, từ lau chùi dọn dẹp cho đến nấu nướng. Anh tâm niệm lời ông Cool dạy, lúc nào cũng niềm nở cười tươi. Gặp những người già, anh tận tình đem đồ ăn thức uống đến tận bàn và thỉnh thoảng hỏi han cần thêm chi. Chỉ một tháng, hơn trăm nhân viên tình nguyện của các tổ chức phục vụ tại đây đều quý mến John. Sau hai tháng, biết John hằng ngày nỗ lực xin việc làm, ông chủ chuỗi nhà hàng sang trọng thỉnh thoảng đến đây làm thiện nguyện đã ngỏ lời mướn anh.

Ông ta nói với John:
– Anh làm việc không lương mà vẫn vui tươi tận tình như thế thì tôi biết khi có lương anh sẽ làm tốt hơn thế nữa.

John như không tin vào tai mình, vui mừng cực độ khi lần đầu tiên trong đời được mướn đi làm.
Anh đến vội nhà ông Cool báo tin. Gặp ông, anh dang hai tay lên trời sung sướng hét to:
– Ông ơi! Thật nhiệm mầu, cháu có được việc làm rồi! Cháu thật không ngờ những điều ông dạy đơn giản như thế lại thành sự thật. Lãnh lương đầu tiên, cháu sẽ đãi tiệc ông.

Ông Cool hân hoan, giọng điềm đạm từ tốn:
– Ông thật vui cho cháu, nhưng phải nhớ nhé, mỗi ngày cháu tiếp tục cố gắng bỏ ra ít phút tập thở và cười. Nếu mình bỏ lơ đi một ngày thì sẽ từ từ thành hai ngày và rồi đánh mất chính mình tự lúc nào. Điều mầu nhiệm cũng sẽ biến mất. Thực hành trong mỗi ngày nhắc nhở ta sống trong ý thức, nhắc nhở ta sống trong chánh niệm.

Khung cảnh giờ ăn tại nhà thiện nguyện. (ảnh minh họa) – Ảnh: H.L

John hỏi:
– Chiều Chủ nhật hàng tuần, ông cho cháu đến nhà ngồi chung với ông nhé, để dạy cháu thêm?

Ông Cool nhìn John trìu mến, vỗ nhẹ vào vai anh:
– Được chứ, ông rất vui khi cháu đến!

Cuộc sống John kể từ đó thuận buồm xuôi gió, anh được tài trợ đi học thêm, thăng tiến chức vụ theo năm tháng, từ người hầu bàn, thành ca trưởng, trợ lý. Mười năm sau anh được thuyên chuyển qua tiểu bang khác làm quản lý nhà hàng. Tuy xa ông Cool nhưng anh vẫn liên lạc mỗi tuần và hàng ngày thực hành lời ông dạy.

Một hôm, khi gọi thăm như thường lệ, anh rất ngạc nhiên khi nghe giọng nói đầu dây khác lạ. Qua vài câu xã giao thăm hỏi, giọng người lạ báo tin:

– Tôi là cháu Thiền sư Sota từ tiểu bang khác về, cách đây vài hôm bệnh viện báo tin ông đã qua đời anh ạ. Ông ra đi khuôn mặt vẫn cười rất an lạc. Ông có để lại di chúc, trong đó có nhờ anh tí việc.
***
Một ngày mùa xuân, người đàn ông tên John tuổi ngoài 30, theo lời dặn trong di chúc để lại của ông lão dạy thiền nơi miền Tây­ bắc Hoa Kỳ, lái xe hơn 2 ngàn cây số xuôi Nam tìm đến Vườn quốc gia Zion, bang Utah, Hoa Kỳ. Đoạn đường dài như bất tận ấy, một mình lái xe, John thả hồn trong cảm xúc nhớ thương ông lão vô biên…

Sau một đêm nghỉ ngơi tại nhà trọ trong Vườn quốc gia, sáng sớm anh hỏi người quản lý giúp nhận định địa điểm tên một đỉnh núi trong hơn mấy chục đỉnh tại đây, John lần theo đường mòn đi bộ lên đỉnh núi cao. Con đường trắc trở, khi đi, khi trèo qua những khối đá, phải mất 4 giờ John mới tới nơi. Anh loay hoay ngang dọc trên đỉnh một lúc lâu rồi thốt lên mừng rỡ:
– Ô, đây rồi! Ôi, đẹp quá!

Một cây tùng xanh tươi mọc ngay trên bờ đông của đỉnh mà một phần thân trườn ra bên ngoài vực sâu thăm thẳm cả ngàn mét. Gió ở đây khá mạnh, rít từng cơn làm John cảm tưởng có thể hất văng anh xuống vực bất cứ lúc nào.

John mở ba-lô lấy hộp đựng tro, anh quỳ xuống, cẩn thận tỉ mỉ, rót từng giọt tro qua những khe đá nơi rễ cây tùng mọc. Xong việc anh ngồi đối diện cây tùng, hồi hộp mở lá thơ ông Cool để lại, không biết ông viết gì trong ấy mà phải đến đây mới được đọc.

John giọng mỗi lúc mỗi nghẹn ngào:
“Thời trai trẻ biết bao lầm lỗi, ta lang thang đến đây. Trong tuyệt vọng chán chường ta có ý định nhảy xuống vách núi kết liễu cuộc đời. Nhưng mi ­- cây tùng bỗng nhiên hiện diện vững vàng ngay trên vách. Ở đây chỉ có đá và gió, thân mi thì có thể rơi xuống vực sâu bất cứ lúc nào, nhưng mi vẫn sống khỏe trên vùng núi khắc nghiệt này, vẫn xanh, vẫn tươi mát chở che soi bóng cho hòn đá thô cứng bên cạnh. Cám ơn mi cứu mạng, giúp ta bài học nhiệm mầu. Xin gởi đám tro tàn góp phần cho mi”.

Nước mắt John tuôn chảy, xúc cảm từng cơn chấn động châu thân. John thấy mình hết sức phước đức được ông Cool bằng xương bằng thịt chỉ dẫn từng bước trong cuộc sống. Còn ông Cool khởi đầu chỉ có cây tùng. Anh thấy mình có nhiệm vụ làm cây tùng tiếp nối cho những hòn đá khác.

Nghẹn ngào, hùng tráng, anh ngâm to bài thơ ông Cool làm cho cây tùng trên đỉnh núi cao, giữa không gian lộng gió:

Núi sừng sững cao
Vực thăm thẳm sâu
Gió cuồng điên bạt!
Sấm gầm động vang!
Hề ta đứng! Mỉm cười cùng năm tháng
Soi bóng đời che chở đá cô liêu.

Huyền Lam

Huy Tưởng

Bốn Bài Lục Bát

1.
“Giã từ cõi mộng điêu linh
“tôi về buôn bán với mình phôi pha”
Tưởng như cơn cớ đã là
Thõng tay giữa chợ người ra kẻ vào…
Tiếp nhau vồn vã câu chào
Trả nhau âm hiểm lắng vào thịt xương
Đêm nằm nghĩ quá đoạn trường
Chi li so đọ vô thường… nữa sao ?!

…giã từ hàng quán xôn xao
Vội đi quên gửi câu chào cuối đông.
Tôi giờ
tĩnh tịch
quán không !
2.
Mấy mươi năm. sống. ai ngờ
tựa câu thơ chép lên tờ chiêm bao
thả bay biền biệt trăng sao
chữ đi tầm tã. rạt rào dưới hoa…
Mấy mươi năm. sống. hóa ra
là cái chớp mắt nối ta với trời !
Mấy mươi năm
giữa
ngôi Lời.
3.
Con chim bay vút lên trời
Đánh rơi tiếng hót bao lời nỉ non
Tôi về nhặt ý cỏn con
Viết bài thơ gói nỗi buồn mang theo…
Hành trang ấy
ít hay nhiều?

4.
Thật. không muốn chép lại. bài
thơ hôm qua rớt sõng soài ngoài hiên
những lần chín đỏ cơn điên
chép tờ phỉ lạc xô nghiêng đất trời.
Không muốn viết. dẫu một lời
mặc cho nọc độc con người thấm qua…
Thinh lặng
từ đó
bước ra…

Con Đường

Này em ta dắt nhau về
Vang vang dưới núi
Chiều tê lạnh rồi
Con ong cái kiến
Qua đồi
Và trăng xanh nữa im lời nước mây
Bước chầm chậm dưới hàng cây
Đừng rung em nhé
Sợ ngày rụng theo
Bóng ta rớt dưới chân đèo
Em ơi có thấy ít nhiều hoang vu
Thôi nằm ngủ dưới rừng thu
Mai ta thức dậy thân mù mịt sương…

Mai ta bỏ phố quên phường
Dìu nhau đi suốt con đường hư không

Đêm Nằm Mộng
Thấy Bùi Giáng

Đêm qua. Bùi Giáng hiện về
Mang bao giỏ xách bộn bề thị phi
Lùa chân theo gió mà đi
Áo xanh tóc trắng. phương phi khác thường!…

Nhớ thời dãi nắng dầm sương
Nửa khuya hú gọi loáng đường Lê Chân
-Bái xin hoàng hậu mẫu thân
Hồng nhan xô Trẫm xuống phần mộ xanh…

Ô hay! Bàng Giúi sao đành
Tan trong tráng lệ vô thanh ra về ?!
Tôi nằm thiếp giữa cơn mê
Câu thơ thánh nhập mãi đè nặng tôi
“Xác thân Bồ Tát tan rồi
“Tụng kinh dưới đất. trên trời mây bay…”

Trên trời. mây mãi còn bay
Dưới đất tôi cố níu ngày xuống đêm
sao cho giấc mộng dài thêm…

Huy Tưởng

1 10 11 12 13 14 18