Mùa Thu Mưa Bay
Từ ngày anh tôi đậu đại học, khoác danh hiệu sinh viên, tôi trổ mã thành thiếu nữ 16 tuổi, căn nhà vốn êm ả trầm lặng của gia đình bỗng tấp nập khách khứa. Tất cả “khách” đều là bạn chung lớp với anh hai. Những anh mới bước vào ngưỡng cửa đại học, mang bao ước mơ hoài bão to tát, đang tập tành làm… người lớn. Các anh thích đến nhà tôi chơi vì giống như đi “dã ngoại”. Nhà tôi cách thành phố Saìgon 20km, không có vườn tược ao hồ cây trái gì cả, nhưng ai cũng thích đến. Cả lớp kháo nhau “thằng Thái có nhỏ em đẹp lắm”.
Tôi chỉ là cô bé lọ lem con nhà nghèo, còn nguyên nét quê mùa ngơ ngáo. Gia đình tôi sống trong một xóm đạo toàn người Bắc di cư, nên tôi nói rặt giọng “Bắc kỳ dốn” kéo dài thượt.
Có lần, má đi buôn về, mua cho quả mít, dặn tôi xẻ ra mang biếu bà cụ nhà đối diện một miếng. Quả mít thì quá nhỏ, anh em tôi lâu lắm mới được má “hào phóng “mua cho chút trái cây. Tiếc rẻ, tôi đem biếu bà miếng nhỏ sát cuống. Lúc sau, bà cầm cái vỏ mít sang tìm tôi “mắng vốn”.
-Sao mày cho “chị” miếng mít… nguyên… thơ là… thơ ế. (miếng mít toàn xơ là xơ thế)
Từ đó chúng tôi hay dùng câu: nguyên thơ là… thơ để nói đến món gì quá hẻo. Giọng Bắc của tôi cũng vậy, lúc nào cũng có chữ “ế” kéo dài đằng sau, nghe đúng “giai điệu” Bắc kỳ.
Tuy mang tiếng là “đẹp lắm” nhưng quần áo tôi cũ mèm, xốc xếch, tóc cột đuôi gà bằng sợi thun, thay cho chiếc kẹp nhiều màu lóng lánh mà tôi hằng mơ ước. Trên người tôi không có món “trang sức” nào qúi giá, tai đeo đôi bông bằng hột… nhựa, chờ mãi một đôi bông vàng 18k bà nội hứa cho từ hồi còn nhỏ xíu chưa xỏ lỗ tai đến giờ chưa thấy. Tính tôi cũng còn con nít ham chơi, rảnh một chút là chạy biến ra sân nhà thờ tụ tập chơi đùa, chẳng quan tâm đến “thời sự” sôi động trong nhà.
Trong số bạn anh Thái đến chơi, có ba anh rất thân với anh tôi là anh Quế Anh, Trường Giang và Thiên Phú. Bốn anh được bạn trong lớp phong cho danh hiệu… tứ đại công tử. “Đaị công tử” là ba anh kia thôi, chứ anh Thái tôi con nhà nghèo làm sao là “công tử” được, nhưng anh tôi lại cao ráo, đẹp trai, trắng trẻo nên có vẻ cũng xứng với danh hiệu.
Các anh siêng năng tặng quà cho em gái… út, dù chẳng có dịp gì, còn nếu là sinh nhật em thì các món qùa càng đặc biệt “nặng ký” hơn. Anh tôi hay hỏi đùa em út:-Sao sinh nhật út mà toàn là bạn anh tặng quà vậy? (bạn út nhỏ xiú làm sao có quà)
Cuối cùng chỉ còn anh Quế Anh giữ lại truyền thống… tốt đẹp này. Sau mới biết, thì ra hai anh kia đứng lại “nhường đường” cho Quế Anh.
Một hôm, ngồi chơi chán, Quế Anh rủ anh Thái đi uống cafê, thằng em ở đâu chạy về, mặt mũi đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại, nó cuống quýt lắp bắp:-Anh Què… Ành chò èm đì vời.
Quế Anh ngạc nhiên sửng sốt hỏi anh Thái.-Nó nói cái gì vậy? Sao nó bảo tao…què???
Chúng tôi lăn ra cười sặc sụa, thằng em mắc cở chạy mất, anh Thái cố nín cười giải thích.
-Nó nói mày cho nó đi với, nó nói Quế Anh chứ không phải… què.
Quế Anh vẫn thắc mắc.
-Sao nhà mày kỳ vậy? Mày người Nam, em gái mày người Bắc, em trai mày người… Trung.
Má tôi người Bắc, ba người Nam. Sau ngày “giải phóng” ba đi “học tập”, má quá khó khăn chật vật nuôi anh em tôi, nên gởi anh hai và thằng em về bên nội ở nhờ một thời gian, vì thế anh nói tiếng Nam. Còn lại, tôi và em gái ở với má và bà ngoại trong xóm rặt người Bắc nên nói tiếng Bắc là đương nhiên, nhưng không hiểu sao thằng em kế tôi lại “đột phá” thanh âm, biến thành giọng …Trung. Nhà tôi qui tụ cả ba miền đất nước.
Ba được “nhà nuớc khoan hồng” cho về “đoàn tụ” với gia đình từ năm tôi 12 tuổi, nhưng vì ba má không hợp nhau, nên ba về sống với bên nội. Bà ngoại mất đã lâu. Má con tôi dọn ra Thủ Đức ở cho gần trường anh hai đi học, vì má rất lo lắng hồi hộp mỗi ngày anh đạp xe mười mấy cây số đi về, trên con đường tỉnh lộ xe ben chở đất đá chạy bạt mạng, cán người như ngóe.
Dù còn rất nghèo, không biết bằng cách nào má xoay sở mua được căn nhà xuống cấp trong cư xá Kiến Thiết và sang lại một quán cafê nhỏ trong sân nhà người ta cho tôi bán. Ngày ấy, có trào lưu cafê sân vuờn và nghe nhạc nước ngoài, người ta không còn thích ngồi uống cafê trong nhà với bốn bức tường bí bức, quạt quay vù vù, nghe nhạc “sến” rên rỉ.
Quán tôi gọi là “sân vuờn” cho… sang, chứ thật ra chỉ là mảnh sân nhỏ, để vài chậu dừa kiểng, vài chậu thiết mộc lan rải rác. “ Dàn âm thanh” là cái mini cat sét giấu trong quầy, phát ra loa nghe rồ rồ rẹt rẹt, vì thế tôi không cho ai đứng gần quầy, sợ họ phát giác ra “dàn máy hiện đại” của tôi thì xấu hổ chết người.
Người ta bỏ tiền ra đi uống cafê sân vuờn là để hưởng không khí trong lành, gió mát thiên nhiên, thưởng thức âm nhạc với dàn hifi tuyệt hảo, nhạc của những boyband, girlband nổi tiếng thế giới. Quán tôi chỉ có vài ba cuốn băng, (vì anh em tôi không ai rành nhạc nước ngoài), cộng với âm thanh máy phát ra… rẹt rẹt, khách đổi tên quán Thiên Lý của tôi thành quán… Bi Di, vì chỉ có băng BGs là hay nhất và tôi mở cả ngày đến nhão nhoẹt.
Khi mùa mưa tới, những tấm bạt che ở trên mái tạm lủng lỗ, dột. Nước mưa rơi lõm bõm xuống ly. Mưa gió hắt tứ tung. Khách phải mặc… áo mưa ngồi uống Cafe. Tôi thủ mấy cái áo để trong quầy, khách nào quên mang, tôi phát cho một cái, mặc vào ngồi… “nước lụt” trên ghế, uống cafê, nghe nhạc rột rẹt cùng với tiếng giọt mưa rơi lộp bộp trên tấm bạt, lạnh run. Khách vẫn vui vẻ, dù đôi khi có phàn nàn ca cẩm đôi chút.
Có một người khách đặc biệt, anh ngồi lặng lẽ ở một góc khuất, uống ly cafê đen đặc quánh, mỗi ngày…
Anh đẹp trai như diễn viên điện ảnh, khuôn mặt hiền lành trầm lặng, nụ cười sẵn sàng nở trên môi khi nói chuyện. Nhưng anh rất it nói, không phàn nàn khi nghe nhạc dở, không mặc áo mưa khi trời mưa, khiến lòng tôi phải áy náy. Tôi động tâm thỉnh thoảng kín đáo nhìn trộm anh, thì bắt gặp đôi mắt ấy cũng đang nhìn lại, lần nào cũng vậy!…
Tôi thấy lòng mình rộn lên một cảm giác là lạ, không biết gọi tên, nhưng vô tư không nghĩ đến nhiều. Vả lại, tôi còn đang “ bận rộn” sàng lọc, phân tích, đối phó với bao nhiêu lờì bóng gió xa xôi của nhiều người, vừa là bạn anh hai, vừa là khách quen trong quán
Thì ra người “khách đặc biệt” kia cũng là ban chung lớp với anh hai, từ lâu anh có nghe lời đồn “em thằng Thái đẹp lắm”, nhưng vì tính hiền lành nhút nhát, anh không muốn bon chen. Cho đến một lần, anh Thái rủ anh ra quán uống cafê. Từ đó anh trở thành “khách đặc biệt”, mỗi ngày đến quán… ngồi đồng.
Anh tiến lại gần quầy, chỗ tôi ngồi, nói nhỏ:
-Anh muốn nói chuyện với Châu một chút.
Phản ứng tự nhiên như mọi khi, tôi “xua đuổi”.
-Anh đừng đứng đây, má Châu la.
Anh nài nỉ.
-Vậy thì chỗ khác, Châu cho anh một cái hẹn đi, lúc nào Châu rảnh?
-Châu chỉ rảnh buổi trưa, khi vắng khách, có thể nhờ anh Thái coi quán giùm.
Anh vui mừng hấp tấp nói:
-Vậy thì trưa mai, lúc 1 giờ, anh chờ Châu ở…
Tôi ừ đại cho anh khỏi đứng lại nói thêm, sợ má ra bất chợt trông thấy lại bị rầy.
Trưa hôm sau, tôi… quên béng mất cuộc hẹn “tình đầu”, vô tư ngồi nhiều chuyện với nhỏ bạn. Khoảng 3 giờ, bạn thân của anh là anh Tánh hớt hơ hớt hải chạy đến báo tin:
-Châu, sao em hẹn với thằng Chương mà không đến? Nó đứng chờ em say nắng… xiủ rồi, mới tỉnh lại. Em đi gặp nó chút.
Tôi áy náy quá, vội vàng theo anh Tánh đến gặp anh. Mặt mày anh xanh mét như vừa trải qua một cơn bịnh nặng. Anh hẹn tôi ở một quán cafê khác, nhưng đứng ngoài đường chờ vì sợ trong quán toàn thanh niên, tôi ngại. Nắng giữa trưa tháng hạ thiêu đốt cơ thể, nhưng anh kiên nhẫn đứng chờ cho đến khi đổ gục. Sau chuyện này, chúng tôi thân nhau hơn.
Sắp đến 2/9 là ngày lễ “độc lập” của nước “cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN”, anh muốn rủ tôi đi chơi nên đến nhà xin phép má. Nhà tôi không có sofa cho khách ngồi, chỉ có mấy chiếc ghế đẩu, anh không dám ngồi ngang hàng với má nên xếp bằng ngồi dưới đất. Má tôi cao giọng nói mát mẻ, kiểu chua chát cuả người Bắc.
-Nhà tôi nghèo, con tôi còn phải buôn bán phụ với gia đình, đâu có sung sướng nhàn rỗi như các anh các chị nhà giàu, đi chơi lễ chơi lạt, thôi anh để nó yên, đừng rủ rê nó chơi bời nữa (người bắc nói “chơi bời” là đi chơi).
Má nói nhiều lắm, toàn giọng mỉa mai chua chát. Anh ngồi im bất động, thỉnh thoảng “dạ” nhỏ. Má thôi nói đã lâu, anh mới dám đứng dậy, nhưng lại ngã khụy xuống, vì ngồi xếp bằng quá lâu nên đôi chân bị tê cứng.
Tôi bất nhẫn cho anh và thầm trách má quá khắt khe với tôi. Là con nhà nghèo, từ nhỏ đến giờ tôi chẳng được đi đâu chơi. Nơi xa nhất và vui thú nhất là nhà nội, không phải vì bên nội thương yêu qúi hóa chúng tôi mà vì nhà nội là nơi duy nhất để đến và có nhiều bánh trái mà ở nhà không có, nhưng bây giờ chúng tôi không thích về nội nữa, vì nhận biết được sự ghẻ lạnh nơi đó.
Tôi đã làm lụng miệt mài, phụ giúp má kiếm tiền từ khi còn rất nhỏ, chưa bao giờ được thụ hưởng niềm vui từ bên ngoài. Chưa bao giờ được rong ruổi nơi những khung trời lạ, ngắm nhìn cảnh vật thiên nhiên tươi đẹp, hồn nhiên vui đùa một ngày, không cần lo lắng chuyện bán buôn đắt ế…
Má thật bất công!!!… Cái đầu nông nổi khờ dại của tôi đã nghĩ như thế và đưa đến quyết định – Má khó quá, thôi về ở với ba – Nghĩ là làm, tôi giấu vài bộ quần áo, trốn má đón xe về thẳng nhà nội ở Bà Rịa. Tôi sẽ về ở với ba. Ba dễ hơn má!
Đó là sự an bài của thượng đế, khi để xảy ra xung đột giữa hai má con tôi, nhờ vậy chúng tôi mới được gặp ba lần cuối, vì từ khi dọn ra chỗ ở mới, bên nội không biết địa chỉ nhà tôi. Khi về đến, mới hay ba đã nhập viện và vừa ở phòng mổ ra. Ba có vẻ tỉnh táo, thấy tôi, ba mừng rỡ rưng rưng nước mắt, nắm chặt lấy tay tôi dặn dò, nghe như lời trăn trối!
– Cả đời ba có lỗi với má con, các con hãy hiếu thảo với má, bù đắp thay cho ba!
Tôi cuống quýt nhắn tin về. Khi má đến nơi thì ba đang hấp hối, không nói được gì nữa, chỉ khẽ nhúc nhích mấy ngón tay. Ba biết có má hiện diện bên cạnh, nhưng thân xác đã đóng băng, khô lạnh, từ từ chìm sâu vào giấc hôn mê cuối cùng.
Hỡi ôi!!! Tay nghề cuả các bác sĩ “giải phóng” quá tệ, vết mổ bị nhiễm trùng dẫn đến tử vong. Ba tôi mất đúng vào ngày rằm tháng 8, tết Trung Thu.
Ngày đưa ba đến nơi an nghỉ cuối cùng, mưa sụt sùi buồn thảm. Tôi thuơng ba quặn lòng. Tuy ba không gần gũi, không hy sinh lao nhọc để nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng tôi, không thắm thiết tình phụ tử. Nhưng dòng máu đang chảy trong huyết quản chúng tôi là của ba, anh em tôi có mặt trên chốn nhân gian này cũng là nhờ ba. Xảy ra việc tôi giận má về đây mới kịp nghe được một lời trăn trối và má con tôi có thể làm tang lễ tiễn ba chặng cuối cùng, nếu không thì chắc ba cô đơn lạnh lẽo lắm. Dù ba đã có người vợ sau và đứa em cùng cha. Nhưng họ đâu có thể khỏa lấp được khoảng trống của chúng tôi.
Trong lúc tôi đớn đau suy sụp, bước thấp bước cao trên đường ruộng dẫn ra huyệt mộ, khóc ngất từng cơn, Chương vẫn ở sát một bên, nắm chặt tay tôi chia xẻ, diù đỡ mỗi khi tôi sắp ngã, lo âu cuống quýt khi tôi ngất xiủ, tha thiết vỗ về an ủi cho tôi nguôi. Tình anh trao cho tôi sâu vời vợi, mêng mang êm ả như mặt hồ lộng bóng trăng thu. Anh trầm lặng ít nói, không biết dùng từ ngữ để biểu đạt tâm tư, nếu không xảy ra biến cố trọng đại này, làm sao tôi hiểu được tình anh.
Khi biết chúng tôi yêu nhau, Quế Anh buồn thiu, tâm sự với anh Thái.
-Tao …thương Châu từ dạo mới chơi với mày mà không dám nói, bây giờ muộn màng rồi, hai thằng kia (Giang và Phú) chửi quá trời, tụi nó thấy tao… nhát nên nhường đường cho, nếu không đâu tới phiên thằng Chương, rốt cuộc tao… hỏng bét.
Anh Thái an ủi.
-Tại duyên số thôi, mà cũng tại …mày, không dám nói với nó sao không kêu tao nói giùm, thằng Chương lù đù mà vác cái lu chạy, tao cũng không dè.
Quế Anh ngập ngừng.
-Không phải tao… cầu cho họ… tan vỡ, nhưng ngày nào Châu chưa đám cưới, tao …vẫn chờ.
Bạn anh Thái ai cũng dễ mến. Người dí dỏm hài hước, người lanh lợi hoạt bát, riêng Quế Anh rất hiền, gần gũi thân thiết với chúng tôi nhất, tôi mến anh, coi anh như anh Thái, nên rất hồn nhiên vô tư. Nếu anh bày tỏ tình cảm, tôi không biết cảm giác của mình ra sao nữa!
Mấy mùa thu trôi qua. Nói cho lãng mạn, chứ ở miền nam chỉ có hai mùa mưa nắng. Mùa thu là mùa mưa. Không có lá vàng rơi. Không có con nai vàng nào ngơ ngác đạp trên lá khô xào xạc cả. Mùa chỉ có mưa sụt sùi, lê thê, chèm bẹp. Chương trở nên thân thiết trong gia đình tôi. Má thấy Chương hiền lành lễ phép nên cũng chấp nhận. Người thích thú nhất là thằng em miền… Trung, mỗì lần anh đến nó rất mừng, vì được mượn chiếc môtô phân khối lớn chạy rong trong xóm, nó mê xe như người ta mê… thuốc lào… Chương cũng muốn nó đi càng lâu càng tốt, cả hai đều có lợi.
Gần tết năm đó, Chương đưa tôi về giới thiệu với gia đình. Nhà Chương giàu vì ba Chương là dược sĩ, có nhiều tiệm thuốc tây. Má Chương dù ở trong nhà vẫn trang điểm cầu kỳ, đôi mắt xếch tô đậm, nhìn rất dữ. Ban đầu bà vồn vã tiếp đón tôi niềm nở. Sau khi hỏi về gia cảnh, tôi thật tình kể. Biết tôi là con nhà nghèo, chỉ mới học hết cấp ba, bà liền thay đổi hẳn thái độ, lạnh nhạt như muốn tiễn tôi về ngay.
Ra về với nỗi buồn tủi ngập lòng. Sao mẹ Chương lại coi trong sự giàu nghèo đến thế. Có bao nhiêu chàng trai giàu có đang theo đuổi tôi, nhưng tôi yêu Chương vì mối chân tình tha thiết của anh. Ở bên anh, tôi cảm nhận được sự êm ả bình yên. Tình yêu là cảm xúc bất chợt, nhưng dằng dặc nỗi chắt chiu mơ ước.
Tuy tôi chỉ học đến cấp ba, nhưng đó là sự cố gắng phi thường của má, sự nỗ lực không mệt mỏi của bản thân và có những điều tôi học được ở trường đời, không hề có trong giáo trình trường học, vậy không tốt sao!?
Tôi ngậm ngùi nói lời chia tay với Chương, anh buồn rũ như tàu lá héo, nắm chặt tay tôi rưng rưng.
-Em ráng chờ thêm một thời gian, để anh thuyết phục mẹ.
Không biết Chương thuyết phục mẹ bằng cách nào? Riêng tôi, tôi không đủ tự tin để làm dâu một bà “mẹ chồng” kỳ thị giai cấp như thế.
Anh vẫn ngồi lặng lẽ ở góc quán. Giọt mưa rơi lộp bộp xuống bàn, vào ly cafê, tan loãng, tung tóe như những hướng đời phân chia muôn ngả.
Anh tiến về phía tôi, đưa một tờ giấy gấp tư, nói nhỏ.
-Anh về!
Tôi ái ngại.
-Còn mưa mà, anh có đem áo mưa không?
-Anh quên rồi! Không sao đâu.
Nhìn bóng anh khuất sau làn mưa trắng, tôi nghe lòng dâng lên nỗi xót xa bùi ngùi. Có làn khói nào vương vào khóe mắt, cay. Mở tờ giấy anh đưa ra coi, chỉ ngắn ngủi mấy câu …thơ:
Đếm bước trở về theo lối chân quen / Giọt mưa ngâu điệu buồn rơi lặng lẽ / Ánh đèn vàng bên đường soi bóng lẻ / Đêm ngủ rồi anh vẫn thức vì em / Em hỡi em, xin đừng nói gì thêm / lời ly biệt cho tình đầu tan vỡ….
Tôi ngẩn ngơ mất vài giây: – Trời!… cái “ông” này, bình thường “nói không ra răng” mà trở thành thi sĩ từ bao giờ? “Ổng” đi môtô mà làm như đi bộ vậy.
Dù có… tưởng tượng trong thơ một chút, thì vẫn là lời phát ra từ trái tim. Đi xe, nhưng chiếc bóng anh lầm lũi cô đơn. Tôi buồn đến nao lòng.
***
Anh đến nhà, dựng vội chiếc xe rồi lao vào tôi như cơn lốc, vui mừng rối rít.
-Em, má chiụ rồi. Chủ nhật này anh đưa em qua nhà cho má nói chuyện.
Chủ nhật. Tôi hồi hộp đi theo anh, không hình dung được thái độ của mẹ anh ra sao. Bằng cách nào anh đã thuyết phục được mẹ??? Một người rất quan trong chuyện môn đăng hộ đối và không thích tôi ra mặt. Sau khi đợi tôi khép nép ngồi xuống ghế, bà vô đề ngay:
-Tôi nói thế này, cháu suy nghĩ rồi về bàn với mẹ xong trả lời tôi. Cháu nói nhà cháu đơn chiếc, không có bà con thân thuộc, vậy thì kiếm vài người hàng xóm nào đó cho đủ chục người, bên này hai mẹ con tôi qua. Tôi sẽ đưa cháu mấy trăm ngàn để làm mâm cơm cho xong lễ hỏi, vậy nhé.
Chương tái mặt nhìn mẹ. Tôi lặng người chết điếng, sao bà có thể thốt ra được những lời khinh man quá đáng như vậy. Đây là một cách sỉ nhục cho tôi nản, không phải bà thật lòng muốn tổ chức một đám hỏi theo nghi thức thông thường. Sau mấy giây trấn tĩnh, tôi ngồi thẳng người, nhìn bà, dõng dạc nói:
-Thưa bác, con trả lời ngay, không để bác chờ lâu. Nói về đám hỏi, nhà con là đàng gái, cho dù một bàn hay mười bàn, cho dù nghèo, má con cũng xoay xở lo được, không phải dùng tiền của bác. Phía đàng trai, con thấy gia đình bác rất đông, chưa kể họ hàng gần xa, sao lại chỉ có bác và anh Chương qua nhà con, không giống đám hỏi….
Tôi chưa nói hết câu, bà ngắt ngang:
-Nhà tôi đông, nhưng mọi người bận buôn bán làm ăn, không đi được.
-Nếu việc làm ăn nhà bác quan trọng hơn nghi thức cưới hỏi, thì con cũng không cần đám cưới đám hỏi với anh Chương nữa. Con không phải gái hư, con chỉ nghèo, nhưng nghèo không là cái tội, con hãnh diện khi sống trong mái gia đình nghèo của con, bác không cần sỉ nhục gia đình con bằng cách đó.
Để mặc bà há hốc miệng tức giận, tôi quay sang Chương.
-Anh đưa em về.
Ra đến sân, tôi còn nghe tiếng bà tru tréo trong nhà.
-Mày thấy chưa Chương? Chưa làm dâu mà nó đã trả treo như thế, mai mốt về đây làm sao tao chiụ được?
Trên đường về, anh khẽ trách:
-Sao em không nhịn má một chút, để từ từ anh tính.
Tôi chua chát:
-Anh tính được gì, má anh chiụ cưới hỏi em đàng hoàng sao? Hay cứ dùng cách kẻ cả khinh mạn đó đối xử với gia đình em. Em có thể vì anh nhịn nhục, nhưng má em không đáng phải chiụ nhục như vậy. Má em phải ngẩng cao đầu hãnh diện với mọi người, cho bõ công lao nhọc cực khổ nuôi dạy tụi em. Mình không có duyên vợ chồng, em không thể làm dâu má anh được đâu!.
Anh im lặng, tôi chỉ nghe tiếng thở dài đắng lòng.
Đã bao năm trôi qua. Giòng đời đưa tôi dạt đến phương này. Ở đây, mùa thu lá vàng rực rỡ rơi đầy trên thảm cỏ, xào xạc dưới chân. Tôi vẫn nhớ mùa thu chốn cũ, nơi có những cơn mưa dai dẳng sụt sùi. Giọt mưa rơi vào ly cafê đắng, tan loãng, phôi pha…
Về sau, vợ Chương cũng có tên Châu giống tôi. Nhưng không biết có thay thế được tôi trong lòng anh? Và hình bóng anh tôi còn cất giữ trong một góc trái tim. Tình đầu đâu dễ phai phôi.
Quế Anh mới lấy vợ sau ngày tôi rời VN. Bạn bè thân thiết cũ của anh Thái tản mác mỗi người một phương, xa xôi. Những ngày tháng cũ vui vẻ hồn nhiên lùi sâu vào dĩ vãng, làm sao tìm lại được…
Ngày Xưa Thân Ái
Chuyến này đi Ba mê Thuột tôi mang thằng con lớn cùng đi. Mùa hè, mỗi lần đi buôn tôi mang theo một đứa, để má bớt nhọc nhằn chăn dắt lũ trẻ đang tuổi nghịch phá, cũng để bớt một miệng ăn ở nhà. Vả lại đem theo con nít vừa dễ mua vé, vừa có thêm hai bắp chân và cái bụng mặc áo giáp cột Café.
Từ ngày gặp Lan, mỗi chuyến lên tôi được Lan đưa về nhà trong thôn Kim Châu. Chuyến nào không đi cùng bạn, tôi vẫn có chỗ để ung dung đến, không phải vạ vật bến xe. Sau hai ngày đường mệt mỏi, ngồi bó gối như con heo bị trói, về được đến nhà thật hạnh phúc. Bữa cơm nóng dọn ra, cả gia đình mười mấy người thêm hai mẹ con tôi, chỉ có một diã rau muống luộc. Con tôi còn nhỏ không ý tứ, nó không biết phải ăn dè, mỗi lần nên gắp một cọng mà thôi, cứ thế “pháo kích” vào diã rau tận tình. Tôi ngại chín người.
Hôm qua vừa đến chân đèo Phượng Hoàng thì xe “ban”. Những chiếc xe già nua cũ kỹ từ mấy chục năm trước, đến “trào” sau này không được tu bổ, thay thế, nên việc nằm đường chẳng có gì lạ. Mấy nắm cơm tôi gói từ nhà đem theo ăn đường đã hết, không có hàng quán dưới chân đèo hẻo lánh. Hành khách túa vào những nhà trong xóm ngồi nhờ nghỉ chân. Người có tiền mua gà vườn, nhờ chủ nhà luộc lên chấm muối tiêu ăn không cũng đủ no. Tôi không dám ăn kiểu “quí tộc” vậy! Hai mẹ con ngồi nhờ ngoài đầu hè, thỉnh thoảng liếc nhìn vào trong, gia đình người ta đang ăn, bữa cơm chỉ với điã rau muống luộc chấm nước mắm giã ớt tỏi đặc sệt. Trong cơn đói thắt ruột, bụng kêu rồn rột, tôi không kìm được ánh mắt nhìn theo tay họ nhịp nhàng gắp cọng rau xanh mướt, chấm vào chén nước mắm đỏ thắm màu ớt. Nước miếng ứa trong miệng…Thèm chén cơm với cọng rau kia như Tôn Ngộ Không thèm trái đào tiên! Đối với tôi bây giờ, miếng ngon không phải là nem là chả, là thịt kho tàu mềm rục bóng mượt. Cũng không phải là phở gà Hiền Vương hay bún bò giò heo Huế chợ Đông Ba, dù những thứ này tôi chưa được “gặp” chúng từ sau ngày “giải phóng”. Cao lương mỹ vị giờ đây chỉ là chén cơm với rau muống luộc! Thằng con tôi cũng nuốt nước miếng ừng ực. Giờ về đây có diã rau đến từ giấc mơ hôm qua, nó hưởng ứng nhiệt tình.
Ngày còn nhỏ tôi thường bị bạn bè trêu chọc, gọi là Bắc kỳ rau muống. Cái “danh hiệu” này nghe thật khó chịu, nhiều lúc tôi nổi giận sung thiên đánh nhau cả với con trai. Con nít sĩ diện hão, cho rằng “Bắc kỳ” của mình bị chê là nghèo đói, suốt đời chỉ ăn rau muống! Sau này rau muống có mặt thường xuyên trong mỗi bữa cơm gia đình Nam kỳ, thậm chí cứu đói vào những tháng năm Việt Nam “tiến nhanh tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghiã xã hội”. Và thực tế nhất là lúc này đây.
Cơm nước no nê xong, còn nồi bắp mới luộc nóng hổi. Tới mùa bắp non, mỗi khi muốn ăn, người trong nhà “gợi ý” thì Cúc lặn lội ra rẫy xa gần chục cây số, chặt một bao đem về. Trái bắp nếp to tròn hột đều bóng loáng, ngọt lừ dẻo quẹo, dù no đến đâu hoặc mắt đã dính híp, cũng không thể từ chối. No dồn đói ép. Rồi vừa ăn vừa…ngủ.
Trong nhà Cúc là người xốc vác, chịu khó làm rẫy nhất. Nàng lại cao ráo thanh mảnh, khác với Lan, Phượng, Thuỷ, Trang, hết thảy ngắn như tai nấm, tròn vo tròn ủng. Lan có nghề may, nhưng thời buổi cơm không đủ no lấy đâu ra mặc mà may? Lan thất nghiệp đi buôn.
Nghề “buôn lậu” phải nhanh nhẹn xốc vác tinh khôn thì mới “được ăn cả”, chậm thì “ngã về không”. Lan cầm tinh Tề Thiên nhưng chẳng giống cốt khỉ nhanh nhẹn. Nàng chậm chạp rị mọ như con ốc sên, bởi vậy thường “ngã” dúi dụi, kéo cả tôi cùng chỏng gọng. Buôn bán kiểu gì!? Hai đứa chỉ còn mỗi bộ đồ mặc ra đường. Tiếng là đồ “ăn nói”, nhưng áo vá nhìn hệt bà Cả đọi, quần đen bạc màu như model của dân Hip-Hop. Có lần hai đứa bàn may một cái áo, thay phiên nhau mặc chung, thay đổi với chiếc áo cũ mòn tơi từng sớ vải. Tôi cao, Lan thấp. Khổ thay! Lan quên mất nhiệm vụ cái áo có bổn phận phục vụ hai người thước tấc khác nhau. Lan may theo số đo của nàng. Khi tôi hân hoan xỏ thử áo mới thì… Hỡi ôi! áo ngắn hở rốn, khoe ra cái bụng tròn vo rất là …gợi cảm. Áo này mặc với chiếc quần đen đổi màu như lá bàng mùa thu cũ, thì mấy anh thuế vụ chết đứ, bởi…choáng!
Đã vậy, mợ còn giao Lan nhiệm vụ tha lôi con út Trang đi buôn cùng, để mợ ở nhà rảnh tay làm công việc. Con nhỏ này phải gọi là út nhè mới đúng! Nó như đứa con thơ của Lan, sểnh tí là mặt nhão ra, mỏ dài thượt, lè nhè sốt ruột, chị Lan ơi…ờ…i, chị Lan đâu rồi…ồ…i? mỗi lần Lan đi giải quyết chuyện riêng bí mật.
Phượng tháo vát lanh lợi nhưng phải tội lười làm rẫy, sợ đen da cháy tóc. Nàng chỉ thích đội thúng đi bán thịt heo chui. Lâu lâu ba Lan mổ “chui” một con heo đem “phân phối”. Từ ngày xhcn tràn vào miền Nam, dân chúng buộc phải ăn chay trường, tránh tội sát sinh. Khổ chung cả nước chứ khổ riêng ai? Nhất là mang thân kinh tế mới ở miền rừng núi cao nguyên này! Nên có “sát” thì để nhà nước sát. Thỉnh thoảng hợp tác xã mổ một con heo bán tiêu chuẩn, chả bõ dính kẽ răng dân chúng. Bởi vậy nghề bán thịt heo “chui” nhà Lan cũng khấm khá, chỉ là hơi hồi hộp con tim. Khi ba dọn sạch chỗ mổ heo, mợ và Phượng cắp thúng không trở về thì “con tim đã vui trở lại” như bài hát của nhạc sĩ Đức Huy. Ba mợ lo vì tính hay lo vậy thôi! Trong thôn toàn người Bắc “ri cư” phe ta, không ai có hứng thú hở chút “báo cáo” hay bị ép phải đi tố “địa chủ” …mổ heo lậu với xã, như thời cải cách ruộng đất ngoài Bắc ngày xưa. Hơn nữa có người dám mổ heo bán thì bà con mới có chút thịt thà dinh dưỡng, bù đắp cho sức lực tiêu hao bởi những ngày “lao động vinh quang” vất vả. Hôm nào tôi lên trúng ngày nhà Lan mổ heo, được ăn bát cháo lòng có miếng dồi, miếng gan, miếng phèo phổi…Ôi sao mà ngon thế! Tô cháo có tí mùi thịt động vật sau nhiều ngày bóp bụng ăn chay toàn là rau cỏ, gây phấn chấn tinh thần thanh bạch của tôi, khiến đôi mắt lờ đờ mỏi mệt đường xa phút giây sáng rỡ, như yêu tinh được ăn thịt Tam Tạng! Dù đây mới chỉ là nếm chút thịt họ Trư.
Đi làm rẫy Cúc khoác thêm áo lính lụng thụng, đầu choàng cái khăn rằn vắt chéo ngang cổ trước khi đội nón, nhìn như …bà đẻ, dù nàng hơ hớ xuân thì. Phượng cũng vậy, mỗi khi ra đường đội thúng bán thịt heo, nàng “phục sức” theo mô đen thời thượng miền …Kim Châu, bởi nắng cao nguyên đốt cháy da con gái. Chị em nhà hoa…Lan, Phượng, Cúc vì thời thế buộc ở rừng ở rẫy, nhưng các nàng rất ư là nghệ sĩ, đàn giỏi hát hay. Vừa đi rẫy về, các nàng “tranh thủ” tắm trước để giành nhau cây đàn. Đêm sáng trăng. Chị Hằng to tròn lộng lẫy mỉm cười với núi rừng u tịch, bỗng nghe thanh âm réo rắt trước hiên nhà. Tiếng đàn Guitar thánh thót của Cúc, Phượng, đệm theo tiếng hát trong trẻo của Lan, có vài khán gỉa ngồi hóng cũng đủ khiến đêm “văn nghệ hội diễn” thêm phần rôm rả.
***
Thoắt qua hai mươi năm. Tôi từ giã BMT đã lâu. Xứ đó đúng là buồn … muôn thuở! Buồn vì ngủ màn trời chiếu đất ngoài bến xe, đêm mùa đông lạnh buốt không có manh áo ấm. Buồn vì trường kỳ buôn lậu, mỗi lần qua trạm lo lắng teo tóp trái tim mà túi ngày càng rỗng, nghèo xơ ruột muớp!…
Tôi vẫn giữ liên lạc với Lan, nên biết Phượng theo chồng về Saigon. Cúc cũng đi Saigon, nhưng không phải theo chồng mà…tránh chồng. Nhà Lan nhiều con gái như một vườn hoa đẹp nhiều màu sắc, nhưng mợ không cho đó là điều hãnh diện. Mợ lo con gái…ế! Có người dạm hỏi mợ gả ngay. Lần đó đám cưới một ngày hai đứa. Phượng may mắn có chồng hiền lành, chịu khó làm lụng cho vợ hưởng nhàn. Ngược lại chồng Cúc giành phần nhàn hạ, đùn đẩy công việc trụ cột gia đình cho vợ, bởi chàng là con trai một được cưng chiều, ỷ lại vào cha mẹ và mấy chị đã quen, nay có thêm vợ giỏi chàng ung dung hưởng thụ.
Nếu chỉ lười làm việc cũng không đáng nói. Chồng Cúc còn bái sư xin làm đệ tử “bác thằng bần”. Cúc đầu tắt mặt tối sớm hôm, nuôi bốn con với một chồng. Hàng ngày Cúc thồ hàng bằng xe đạp chất cao ngang tầm mắt, đạp mấy chục cây số về đến nhà khuya khoắt. Gần đến nhà phải qua một con dốc cao, Cúc xuống xe chổng mông đẩy. Xe hàng vừa nặng vừa cồng kềnh, sức phụ nữ dù khỏe đến đâu cũng không giữ được xe khỏi chao đảo, nhìn từ sau không thấy người chỉ thấy chiếc xe với khối hàng cao nghệu, uốn lượn như Dương Qúi Phi múa khúc nghê thường! Bỗng một hôm xe nhẹ hẳn, cũng không “múa” nữa. Thì ra có chàng hàng xóm giàu lòng nghĩa hiệp, tối đứng dưới chân dốc chờ Cúc về qua, đẩy giúp và đỡ phụ hàng xuống xe. Chồng nằm khểnh trong nhà xem Tivi đợi kết qủa dò số đề, thậm chí không chạy ra sân giúp vợ. Chàng hàng xóm một hôm ngân nga.
Đưa người ta không đưa qua sông, sao nghe tiếng sóng ở trong lòng…(*)
Cúc không chịu được cảnh chồng thì vô tình, hàng xóm thì đa tình. Và để lánh nạn …tình, Cúc bèn dắt bốn đứa con vào Saigòn sinh sống, sau khi nhắn nhủ với chồng một mai thiếp có xa chàng, đôi bông thiếp trả, đôi vàng…í quên, con chàng thiếp xin.
Thằng con trai lớn tôi có bằng kỹ sư. Nhưng “nhờ” lý lịch là con “nguỵ” nên chẳng thể tiến thân mà chỉ …hiến thân cho ma men! Bởi sau mỗi công trình cha con lão làng gốc “cách mạng” chia chác với nhau hết tiền, chỉ đưa nó đi nhậu an ủi. Ăn nhậu riết, huyết áp cao hơn mấy em chân dài. Vả lại có học vị nhưng không có chức tước, phải dưới quyền mấy kẻ dốt nó không chiụ được, bỏ làm về lấy vợ. Hai vợ chồng hai bằng đại học cất kỹ trong rương như cất cuốn gia phả nhiều đời. Mở quán Cafê sống qua ngày. Ở VN bây giờ, có bằng đại học mà không có tiền …tệ hay quan hệ (gốc cách mạng) thì lấy bằng cử nhân xong an nhiên về nhà làm nghề cha truyền con nối. Chẳng hạn ở xóm nhang thì chẻ tăm nhang. Ở ngoại ô thì chặt lồ ô “thiết kế” thang tre. Ở biển thì đi ghe làm ngư phủ. Ở chợ Cũ thì chạy xe ôm, vá xe đạp!…Con tôi may mắn hơn, làm chủ quán Café … tạp nhạp.
Từ Ba mê Thuột vào Cúc ở nhờ nhà em trai, mỗi sáng nấu xôi bán rong. Lời lãi không bao nhiêu nên mỗi ngày Cúc chỉ dùng riêng cho nhu cầu “ẩm thực” của mình hai ngàn, chia đều cho hai bữa là gói bún chan nước tương ăn với dưa leo. Xem ra tình hình kinh doanh…xôi có vẻ không khấm khá. Tôi bàn Cúc nấu một nồi hủ tiú ngồi trước quán Cafê của con, bán buổi sáng. Lỡ ế, ăn hủ tíu trừ cơm cũng đỡ hơn ăn xôi nóng ruột.
Cúc bằng lòng ngay, không phải vì tương lai sáng lạn “ăn hủ tiú ế đỡ nóng ruột hơn xôi ế” mà bởi ở kế nhà em trai có gã hàng xóm, gã “mết” Cúc, thường sang quấy rối tình…yêu. Nói cho ngay gã không phải người xấu, chỉ là có tí máu “sư phụ” bẩm sinh. Năm giờ sáng thấy bên nhà Cúc nổi lửa nấu xôi, gã lo trời đang còn tối Cúc sợ ma bèn gõ cửa xin sang ngồi chung bếp, hát bài “tâm sự đời tôi” cho đỡ buồn. Thấy Cúc nói chuyện vui vẻ gã tưởng bở giở trò giỡn mặt, liền bị hai cái tát xiếc nổ đom đóm mắt, nhưng xem chừng chưa tởn thần ôn! Nên Cúc nghe lời tôi bàn, đổi mặt hàng “kinh doanh”. Vả lại thằng con trai lớn, ngày xưa tôi từng đem theo đi Ba mê thuột, “chia xẻ” dĩa rau muống nhà Cúc, hai cô cháu có “nhịp cầu tri âm” từ xưa, cũng thân gần với nhau.
Mỗi sáng Cúc nấu nồi hủ tíu bán điểm tâm. Nồi nước lèo của Cúc rất đa năng, cho ra “thực đơn” nhiều món, nào là hủ tiú mì, bún mọc, bánh canh… Chỉ khác chất liệu tên món, nước lèo dùng chung. Mấy ngày đầu có hai mẹ con Lan ra giúp. Mẹ con nhà ốc sên không quen dậy sớm, mắt mũi kèm nhèm tay chân lóng ngóng, chẳng đỡ đần được bao nhiêu mà vướng lối! Lan càng ngày càng chậm. Mười mấy năm trước sống chung với chồng dưới quê Châu Pha. Ngoài công việc thợ may, sáng Lan “tranh thủ” dậy sớm bán phở. “Cửa hàng ăn uống” của Lan ngoài nồi nước lèo nhỏ hơn nồi canh của gia đình ngoài Ban Mê Thuột, còn có dĩa thịt bò tái khoảng…hai lạng, bởi người quê chỉ quen ăn cơm nguội chắc bụng đi rẫy, dùng điểm tâm phở sợ …đau ruột. Gã chồng Lan thuộc loại tham ăn lười làm, ngủ đến sáng bảnh mắt, ra hàng tự phục vụ một tô đặc biệt với lạng rưỡi thịt. Gã “nhân đạo” chừa lại vài lát mỏng để Lan ngồi bán cho… vui, bõ công thức khuya dậy sớm!…
Cúc được bốn đứa con ngoan. Con gái lớn đi tu. Ba đứa em ngoài giờ đi học thay phiên nhau giúp mẹ bưng bê, rửa tô lau chén. Tôi cũng có việc. Trong “thực đơn” có món bún mọc. Tôi dành phần bào rau muống, không cho Cúc mua rau bào sẵn ở chợ, bởi tận mắt thấy họ để bệt rau dưới sàn đất dơ bẩn, bào soèn soẹt rồi nhúng vào thau nước vớt ra bán, đem về có rửa lại cũng không thể sạch được. Tôi cầu kỳ nhặt rau non, bào nhiễn, rửa thật kỹ kẻo khách ăn đau bụng, tội. Thế là tôi ôm việc vào người. Nhưng vui!
Mỗi sáng tôi lật đật dậy sớm, hoàn thành “trách nhiệm”…rau, đem ra hàng. Về đi chợ, nấu nướng thật nhanh để đó cho con, rồi chạy ra ngồi tán gẫu. Giờ đó Cúc bán đã vãn khách. Chị em nói chuyện thơ văn âm nhạc, tương đắc, cười đùa vui vẻ…
Do công việc phải tiếp xúc nhiều với nước, mười đầu ngón tay Cúc bị lở loét, đau nhức tới từng đốt xương. Bác sĩ phán, nếu không kiêng cữ nước có ngày phải …tháo khớp. Ôi!…Dù chưa bị dao kéo động vào, Cúc đau khổ hệt như mấy ngón tay đã rụng.
Rồi lại tới ngày tôi lên đường xuất cảnh. Thế là chia ly. Trước khi tôi đi, Cúc “chỉ thị” con trai tự tay kẻ nốt mấy bản nhạc xưa cũ để tôi ôm qua xứ xa tập đờn từng tưng đỡ buồn…
***
Những lúc rảnh rỗi tôi gọi về Việt Nam. Mỗi khi nghe tiếng tôi Cúc reo mừng rỡ. Tiếng reo giòn như tiếng pháo ngày tết, rồi líu riú huyên thuyên. Chúng tôi nhắc lại những kỷ niệm xưa. Chuyện qua đã lâu rồi mà vẫn như mới trong tâm tư hoài niệm. Người ta nói -Tuổi trẻ nghĩ về tương lai. Người gìa nhớ về quá khứ – Tuy Cúc và tôi chưa…già, nhưng quá khứ đầy ắp kỷ niệm không thể quên. Cúc hồi tưởng:
– Em nhớ, cứ đến khoảng hơn 9 giờ là em bắt đầu ngóng. Em căng mắt nhìn về phía cuối đường mong thấy bóng chị đi đến. Rồi những ngày chị bận rộn qua đất mới lo làm nhà trồng cây, bán xong ngồi một mình, lủi thủi dọn hàng em buồn quá…Mấy đứa nhỏ cũng buồn! Chị đi rồi em về Ban Mê Thuột ở với ba mợ, ngày ấy tưởng phải giống …Hàn Mặc Tử, sợ quá!
Tôi trêu:
-Giống đã sao? Thường thì có tật có tài, nếu ngày đó Cúc bị vậy biết đâu ngày nay tai tiếng….í quên nổi tiếng, con chị này chẳng có cơ hội tiếp chuyện đâu…
Cúc phụ họa:
-Ơ, đúng rồi, biết đâu em nổi tiếng trở thành …Hàn Mặc Nữ…hì hì.
Nhớ đến đám trẻ, tôi hỏi thăm:
-Con bé đi tu của Cúc khấn trọn đời chưa?
Nghe nhắc đến con, cô em phấn khích:
-Rồi chị…Cháu khấn được mấy năm rồi.
Tôi lại trêu:
-Á à…vậy thì chị phải gọi Cúc là gì cho đúng nhỉ? Mẹ của linh mục thì giáo dân gọi bà Cố. Mẹ dì phước thì ta gọi bà…Cụ vậy nhé…haha.
“Cụ” cười sằng sặc, rên:
-Giời ạ!…Em lậy chị, chị gọi vậy thì em … già sắp chết rồi hở…hic!
-Còn bé Bi, nó có chí hướng đi tu với chị nó không?
-Chúa tôi!…Nó mà đi tu thì vãi tội trong nhà dòng à? Chị ta mô đen lắm, điệu mát trời ông địa, làm sao tu được…
-Vậy còn ba mợ khỏe không? Các ngài vẫn ở BMT hở? Sao không vào đây ở với mấy chị em cho vui? Xa xôi cách trở, đi lại thăm nhau cũng khó khăn…
-Vào đây thì làm gì có cây cho cụ ông…trèo? Hằng ngày cụ vẫn lùng sục ngoài vườn làm hết việc nọ đến việc kia. Hôm trước ngã cái oạch từ trên cây xuống, bò vào nhà đau mấy tháng. Hết đau cụ lại ra cây trèo! Vả lại bây giờ từ BMT vào Sài gon đi xe máy lạnh có tám tiếng, nhanh và tiện lợi lắm. Không phải như ngày trước chị đi hai ngày đâu…
-Còn cụ bà thì sao?
Cúc cười giòn, nói như sắp nhai vào lưỡi:
-Há…há…mợ em bây giờ là fan …cuồng của chị đấy! Rảnh rỗi chút là, Cúc ơi đọc truyện chị Nga … Truyện đọc em còn diễn cảm, bởi vậy đọc đi đọc lại mợ vẫn thích mê…ha ha…
Tiếng cười lây nhanh.
-Vậy thì đâu phải truyện của chị hay! Hấp dẫn là nhờ em gái có tài diễn xuất, thuyết minh đó chớ.
Nhớ đến Lan, tôi băn khoăn:
-Còn Lan bây giờ ra sao? Làm ăn khá không?
Tiếng cười chợt ngưng, như cái “đài” đang mở bị nhấn nút tắt:
-Chị Lan…Chị Lan vẫn vậy. “Sự nghiệp” vẫn bò theo vận tốc của con rùa, chẳng khá gì hơn!
Tôi nhắn lời an ủi:
-Thôi…Nói Lan đừng buồn, rồi cũng phải có lúc sau cơn mưa, trời lại sáng chớ. Có điều mưa hơi…dai!
Mỗi người một số mệnh. Lan là chị lớn trong gia đình. Từ nhỏ đã vất vả chăm sóc các em giúp mợ, ẵm em trẹo ba sườn. Lan ẵm Cúc ra sân nhà thờ chơi, chị chơi đàng chị em chơi đàng em, em chơi chán thì bốc cứt gà …ăn!
Lan tuổi thân, cái tuổi “thầu” hết mọi gian truân trắc trở cuộc đời…
Cúc lại nói:
-Mấy chiếc áo chị để lại, giờ em vẫn còn đang mặc. Cái gì của chị em cũng quí. Em thích cả kiểu tóc của chị nữa. Hồi em còn đau tay mỗi lần gội đầu phải nhờ chị Lan giúp. Chị Lan bàn em cắt tóc ngắn giống chị, vừa dễ gội đầu vừa đẹp, vì “sọ khỉ” của em cũng tròn đầy sau ót như chị. Em đắn đo suy nghĩ mãi, xưa giờ để tóc dài cột lên nhìn đã quen mắt, nhưng chị Lan “thuốc”, cắt tóc nhìn sẽ giống chị Nga. Nghe thế em hăm hở đi cắt… Giời ôi! Cắt xong nhìn mặt như con ngố, em phải trùm khăn suốt mấy tháng. Lại sui là vào ngày tết…
Tôi đùa:
-Thì kiểu tóc của chị là vậy. Cúc nhìn mặt chị cũng …ngố nghệt ra đó thôi.
Lại rúc rích tiếng cười. Cúc khoe hôm trước mới nghĩ được mấy câu thơ ứng khẩu, nhưng tôi phải gặng hỏi khuyến khích mãi nàng mới ngượng ngùng tằng hắng mấy cái, lấy “khí thế” đọc:
Ngồi buồn lại nhớ chị Nga
Tuy rằng cách mặt không xa cách lòng
Bên kia trái đất nửa vòng
Bên này em nhớ em mong từng ngày
Em mong chị sớm về đây
Về thăm người cũ cảnh này năm xưa…
Tới đó Cúc ngập ngừng. Tôi cố nén cười giục:
-Rồi sao nữa, đọc tiếp đi.
-Ơ…ơ em…quên rồi. Nhưng mà, chị thấy em làm thơ có…được không?
Tôi sốt sắng “động viên”:
-Được… được lắm, có họ hàng với ….con cóc …hihi.
-Vậy mai mốt chị về chỉ thêm cho em với.
-Ha…ha…chị làm thơ có hơn Cúc một chút, nhưng sao giám chỉ? Vì ta cũng có họ hàng với con ễnh ương.
Ha…ha…a!
Chợt nhớ dì Ngọ… Cúc thông tin:
-Chú Ngọ đã mất! Dì vẫn khỏe, nhìn bà chẳng thấy già…còn đẹp lắm.
Tôi nhớ, có lần đi xe đạp đang thả dốc, cái nón lá bị gió thổi úp vào mặt. Xe đạp thồ miền núi không bóp thắng bằng tay, muốn ngừng phải thò chân vào bánh xe chận lại. Tôi luống cuống không kịp “phanh”, xe lao xuống dốc “rơi tự do” vào hàng rào nhà dì Ngọ! Kẽm gai cào rách bàn tay, vào bụng xoạc mấy đường. Hai thằng em con dì vội chạy ra đỡ tôi đem vào bôi thuốc, rịt vết sước đang tứa máu. Tình người thân thương…
Có dịp về Việt Nam, nhất định tôi sẽ đi BMT một chuyến, thăm lại người xưa cảnh cũ. Người còn người mất! Cảnh có đổi thay? Cảnh với người gắn bó cùng tôi thời cơ hàn khốn khó. Và cưu mang tôi lây lất một quãng đời.
(*) Hai câu trong bài
Tống Biệt Hành của tác giả Thâm Tâm.
Giã Từ
Giã từ,
thành phố có anh,
một sớm mai chan hòa bóng nắng.
Trời lấp lánh mây bay.
Trên muôn trùng diụ vợi,
biển dưới kia xanh thẳm mêng mang.
Ôi!…biển sao biết khóc?
Sóng xô bờ từng vạt trắng rưng rưng.
Em đi rồi,
ai có nhớ nhung?
Gởi lại anh con đường,
mới diù nhau qua mà như thân quen lắm.
Thu vừa sang,
lá vội đổi màu.
Gởi lại anh biển lộng gió chiều sâu,
nắm nhẹ tay nhau run run như thuở đầu đời khờ khạo.
Gió bay tà áo,
gió cuốn trôi những hờn giận vu vơ.
Đi bên anh, em tìm lại tuổi mộng mơ,
thời con gái ngại ngần e ấp.
Gởi cho anh,
chút tình rất thật, như hải âu lưu luyến biển xanh.
Nhớ không anh?
Buổi tạ từ tưởng chừng êm ả,
không âu sầu buồn bã giọt mi phai.
Nụ hôn gió lốc,
run rẩy bờ vai,
đợt sóng ngầm dạt xô đáy biển.
Gởi lại anh khung trời âm vang kỷ niệm,
gởi lại con đường tình tự hôm qua.
Em đi rồi đôi ngã chia xa.
Hai nẻo đời mỗi người một hướng….
Hoàng Thị Thanh Nga