Hoàng Long Hải

Hong_Long_Hai

Ve Sầu

Những người xa quê thường mang theo trong hành trang tâm tưởng của mình những hình ảnh đậm màu sắc và âm thanh của quê hương. Tôi cũng vậy. Bất chợt mùa xuân qua đi, nắng hè đang tới, len lỏi đâu đó trong cây cỏ, trong không khí nồng ấm buổi sáng mai, trong hơi gió thoảng ban chiều. Nó làm tôi bỗng nhớ Việt Nam, nhớ quê hương thời thơ ấu, nhớ Huế là nơi tôi học hành và dạy học, trước khi nhập ngũ rồi đi xa.

Dĩ nhiên, Huế có nhiều cảnh sắc để nhớ như người ta thường nói: Hoàng thành, đền đài, lăng tẩm, miếu mạo, và sông Hương, núi Ngự.

Trong âm thanh của Huế, trong tiếng đàn nguyệt, đàn bầu, tiếng ca Nam ai, Nam bình, khúc hát Hậu Đình (1) vang dội cả một khúc sông Hương, – khiến có người than rằng “Thương nữ bất tri vong quốc hận” – nhưng lại nhiều khi, tôi không sao quên được tiếng ve sầu.

Hè về là tiếng ve sầu cùng về. Tiếng ve sầu bao giờ nghe cũng gần gũi, vui vẻ, thân quen, nhắc nhở người ta nhớ những cái gì đó trong dĩ vãng: mùa hè năm trước, vui chơi, cắm trại, lội sông, du ngoạn, nắng hồng, phượng đỏ, và… ve kêu.

Nói cho đúng với khoa học thì các chú ve đã trở về trên cây nhãn, cây mù u, cây mít, cây cau sau một cuộc hành trình lưu đày 17 năm, hơn cô Kiều những hai năm. Kiều chỉ có mười lăm năm lưu lạc. Con ve 17 năm giam hãm, trong cái trứng ve, dưới lớp vỏ cây.

Sau đít con ve cái có một vật nhỏ giống hình con dao. Vật đó cứng, đục vào vỏ cây để con ve gởi trứng vào đó. Từ khi sinh ra trong cái trứng, quá trình chuyển hóa trở lại hình dạng con ve, theo khoa học, là 17 năm. Nếu như hôm nay loài ve tuyệt diệt, thì phải 17 năm sau, khi những cái trứng được sinh ra trong mùa hè năm nay, 17 năm sau mới chuyển hóa thành hình ve, thì sau đó người ta mới không còn nghe tiếng ve kêu nữa. Ai có thể ngờ một cuộc “hành trình” dài lâu đến như vậy!

Ve là loài sinh vật của vùng nhiệt đới. Nhưng lạ, chỉ ở Huế mới có nhiều ve, đầy trong cả những vườn nhãn, vườn cau, vườn mít. Huế có những khu vườn cũ, có thể cả trăm năm. Những khu vườn nầy thường chỉ trồng nhãn, thêm một ít cây mít, cây cau, cây mớc để cho giây trầu leo lên. Buổi trưa, trời đang oi nồng, khó dỗ giấc ngủ. Bỗng ngoài vườn, một tiếng ve kêu lên, rồi cả ngàn tiếng ve đáp lại. Vậy là tiếng ve vang lên ran cả khu vườn. Nó như một “hội Diên Hồng” của loài ve: Một lời kêu, vạn lời đáp. Đó là môt bản đại hợp xướng, cũng đủ giọng trầm bỗng cao thấp, dài ngắn, tiếng gần, tiếng xa. Nó kêu um trên các cây nhãn đấy, nhưng ra đứng mà xem, trong tàng cây rậm rạp, hương nhãn thơm lừng, khó tìm thấy chú ve nào. Con ve đeo vào lá, núp trong lá, khó thấy được. Nhưng tiếng kêu của nó thì rõ lắm, gần lắm, tưởng như đưa tay với lên cành nhãn thấp là bắt được.

Tiếng ve không kêu đơn độc, một mình, lẻ loi, cô quạnh như tiếng dế, nhất là tiếng dế kêu lúc đêm khuya. Đó là một bản hợp xướng, nhưng tại sao lại nghe không vui. Không vui không phải bởi tiếng ve kêu rè rè, lách cách, nhưng bởi cái âm thanh kéo dài ra. Lắng tai nghe tiếng ve hòa điệu, người tinh tế thường thấy nửa vui nửa buồn. Vui là vì cái ấn tượng vui chơi ngày hè do nó đem lại, buồn là bởi cái âm thanh kéo dài, rền rền, không nặng, không nhẹ, không làm chói tai người nghe, không mơ hồ khiến người nghe không nhận rõ. Bản hợp xướng đang rộn rã, kéo dài cả nửa tiếng, một tiếng thì…

Bỗng tiếng ve ngưng bặt, im lặng. Hoàn toàn im lặng. Sự im lặng ấy làm cho người nghe bỗng thấy hụt hẫng. Nó là dấu lặng bất thần hiện ra trên năm giòng nhạc. Nó đột ngột như cái archet của của cây đàn vĩ cầm rứt ra khỏi mấy sợi giây đồng, như bàn tay của người chơi đàn piano ngưng chạy trên phiếm, như tiếng đàn của người kỹ nữ trên bến Tầm Dương: “Nước suối lạnh, dây manh ngừng đứt”(2). Sự im lặng đột ngột ấy bao giờ cũng để lại cho người nghe một dấu ấn, một ấn tượng, một sự ngạc nhiên. Tại sao đang hát, tại sao đang đàn, tại sao đang kêu gọi nhau vui thế, bỗng ngưng bặt. Có ai phá đám các nhạc sĩ, có ai quắc mắt biểu cô ca sĩ ngậm miệng lại. Không! Không có gì cả! Không ai ra lệnh. Không ai phá đám. Vậy mà bỗng nhiên cả ngàn con ve trong vườn nhãn bỗng đồng loạt im tiếng trong khi chúng đang ca vui, chào đón mùa hè?!

Sau trận đánh tết Mậu Thân, tôi chuẩn bị nhập ngũ. Nhà cũ không còn, tôi dọn về một căn nhà nằm bên bờ sông An Cựu, gần cung An Định. Nhà của ông chủ phía trước, sát đường bờ sông, – đường Phan Đình Phùng – Nhà tôi ở phía sau, nằm sâu trong vườn nhãn. Đây là những cây nhãn lưu niên không dưới tuổi của nửa thế kỷ. Lại mùa xuân sắp qua hết, mùa hè đang tới. Hoa lá trở về trên những cành nhãn già. Nắng long lanh trên những lá cây màu xanh đậm. Sắp nhập ngũ, dù “tự động trình diện không có lệnh gọi”, tôi cũng buồn như tất cả mọi người trước một cuộc chia ly. Trời đã xế trưa, đang nằm mơ màng nửa thức nửa ngủ, tôi bỗng nghe ngoài vườn tiếng ve kêu um lên, buồn vui lẫn lộn.

Tiếng ve sầu kêu trong một ngày sắp sửa đi xa, rời bỏ quê nhà làm tôi bỗng nhớ những tiếng ve sầu tôi đã từng nghe trước kia mà rất nhiều khi tôi không chú ý. Có thể một hôm nào đó, tôi không nhớ kỹ, đang đạp xe đạp đi học trên đường Hộ Thành – sau nầy gọi là đường Đinh Bộ Lĩnh, trước tiệm ăn Quốc Hương, – ngang phía ngoài cửa Hiển Nhơn của Đại Nội, bỗng tiếng ve vang dội từ trên những tàng cây nhãn rậm rạp trồng hai bên đường. Tôi nghĩ thầm. Té ra mình đã nghe nhiều lần mà không chú ý. Tệ thiệt. Tệ thiệt đó! Người ta đã hát cho mình nghe, cố hát cho mình nghe! Vậy mà mình chẳng chú tâm chút nào! Đâu có phải chừng đó. Thế còn những tiếng ve sầu trong vườn nhãn ở khu Canh Nông, cuối đường Kinh Thương, trong những vườn nhãn của ông Bá dạy sử địa, vườn bà tham, bà thị và cả nhà NTH, bạn tôi, ở đường Chùa Bà nữa chi?! Còn nữa đấy. Tiếng ca của hàng vạn chú ve trong “Vườn ai xanh quá, trong như ngọc” ở Vĩ Dạ, ở Phú Cam, ở làng Nham Biều phía trên chùa Linh Mụ hay ở Nguyệt Biều quá nhà máy vôi Long Thọ. Nhiều quá! nhiều quá! Làm sao nhớ hết. Nhớ không hết thì cũng cố mà nhớ. Mai đây và dài lâu nữa, trên con đường lưu vong viễn xứ, ở tận cuối miền Nam, hay Mã Lai, hay Mỹ miếc gì đó, làm sao còn nghe tiếng ve sầu, như một dư âm của một thời tôi chưa quá “tam thập nhi lập”.

Người ta cũng ví con ve sầu là chàng nhạc công, cô ca sĩ nghèo mạt rệp đấy! Nghèo như con dế mèn trong bản nhạc “Thằng Cuội” của Lê Thương: “Có con dế mèn, hát trong đêm khuya, hát xẩm không tiền, nên nghèo xác xơ”. Người nghệ sĩ đã nghèo lại còn bị đời chê bai đấy. “Xướng ca vô loài”. Tội nghiệp chưa!

Về mặt luân lý, người Tây phương cũng chê chú ve sầu vô tích sự, lại còn ham vui chơi ca hát, không biết “tích cốc phòng cơ”. Thật đấy, trong “Quốc Văn Giáo Khoa Thư” hay “Luân lý GKT”, tôi không biết, tôi từng nghe chị tôi học hồi xưa lắm:

Ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối
Một miếng cũng chẳng còn
Ruồi bọ không một con
Vác miệng chịu khúm núm
Sang chị kiến hàng xóm
Xin cùng chị cho vay
Dăm ba hạt qua ngày
Từ nay sang tháng hạ
Em lại xin đem trả
Trước thu, thề đất trời
Xin đủ cả vốn lời.
Tính kiến ghét vay cậy,
Thói ấy chẳng hề chi
– Nắng ráo chú làm gì?
Kiến hỏi ve như vậy.
Ve rằng:
– Luôn đêm ngày.
Tôi hát, thiệt gì bác
Kiến rằng:
– Xưa chú hát
Nay thử múa coi đây.

(Ngụ ngôn – La Fontaine –
Nguyễn Văn Vĩnh dịch) (3)

Kiến là con vật cần cù chăm chỉ, chỉ biết làm việc, không biết vui chơi, ca hát bao giờ, thậm chí cả việc sinh dục, để đái chúng nó cũng giao cho kiến chúa lo. Chúng chỉ lo kiếm mồi, đem về chất đầy kho lẫm. Với cá tính đó, làm sao kiến có thể thông cảm chú ve sầu vui ca suốt mùa hạ, bây giờ đói kém, vác bị gậy qua nhà kiến vay mượn, xin ăn.

Thế là đàn ve chết đói khi mùa hạ qua đi, khi gió bấc lạnh thổi về. Ấy là khi mùa thu đã tới. Cảm cái lạnh và cái buồn của thu, Xuân Diệu đi tìm những xác ve nhưng có thấy gì đâu:

Dưới gốc nào đâu thấy xác ve
Thế mà ve đã tắt theo hè

(Ý thu. Xuân Diệu ) (4)

Xuân Diệu đúng là con người lẩn thẩn. Làm sao ông ta có thể thấy xác ve chết dưới những gốc cây! Khi chàng nhạc sĩ già yếu, không còn cất nỗi tiếng đàn, tiếng địch, khi đói quá qua nhà chị kiến xin ăn không được, chàng nghệ sĩ nghèo xác xơ hồn lìa khỏi xác. Xác ve rơi xuống cạnh gốc cây. Các chị kiến, anh kiến không bỏ lỡ cơ hội, xúm nhau lại kéo xác ve về tổ để làm một buổi thịnh soạn hay để đó chờ khi mưa xuống, tuyết rơi, không đi ra ngoài được thì đã có xác ve làm ấm lòng. Thiệt là bất nhân. Bầy kiến thiệt là bất nhân. Khi người ta đói, xin ăn, kiến không cho. Nhưng khi ve chết, bầy kiến hè nhau ăn thịt ve.

Thế là tôi xa Huế 50 năm. Năm mươi năm không còn nghe tiếng ve kêu, với tâm trạng u uẩn than oán như trong câu ca dao tôi nghe mẹ hát từ khi còn thơ ấu: “Con ve kêu mùa hạ, biết mấy thu hỡi chàng!” Nghe con ve kêu mà sợ mùa thu lạnh lẽo, chờ chàng không về! Đó là tâm trạng ai nhỉ? Mẹ bồng con? Hòn vọng phu ở Đồng Đăng, ở Phú Yên hay ở Long Khánh. Trên dãi đất hình chữ S, ở đâu chẳng có những người đàn bà Việt Nam ôm con đợi chồng!

Thế là 50 tôi không còn nghe tiếng ve kêu, dù có khi tôi ở Saigon, vui chơi trong vườn cây trái ở Lái Thiêu, lặn lội trong những vườn dừa mênh mông ở Kiến Hòa, hay lang thang ở Cái Sắn, thậm chí cả ở Hà Tiên, ngồi chơi trong vườn cây sum suê của lăng Mạc Cửu, Mạc Thiên Tứ.

Không ở đâu tôi nghe được tiếng ve sầu kêu um cả một khu vườn nhãn như ở Huế. Tuy không được nghe bên tai, nhưng tiếng ve thì còn đấy. Nó ở sâu trong đáy hồn tôi, trong tâm tưởng của một người viễn xứ.

Mấy hôm trước đây, nói chuyện ve sầu với một người bạn. Người bạn bảo: “Ở Washington D.C.” có ve sầu đấy. Uở, kỳ thiệt, Washington D.C. thuộc xứ lạnh, tuyết giá, làm sao có ve sầu? Washington D.C. và các tiểu bang chung quanh có rất nhiều người Huế tị nạn. Không lý trong hành trang di dân, họ mang theo con ve sầu, hay trứng của những con ve sầu nên bây giờ ve sầu mới sinh sôi nẩy nở ở đấy. Biết đâu! Người Huế vốn sâu sắc thì họ có mang theo con ve sầu cũng không có gì lạ. Mang theo một chút gì của Huế để cho ấm lòng!

Người Việt định cư ở Mỹ lâu năm, nhập tịch Mỹ, người ta gọi họ là người Mỹ gốc Việt. Đó là mặt pháp lý. Hồi xưa ở quân trường, Nam-Bắc-Trung sắp chung một trung đội, một tiểu đội nên bọn sinh viên sĩ quan thường gọi đùa nhau bằng những tiếng “Người Việt gốc Rau” để ám chỉ anh Bắc Kỳ, “Người Việt gốc Ớt” để ám chỉ anh trọ trẹ, hay “Người Việt gốc Giá” để ám chỉ anh Nam kỳ. Trong cách đùa như thế, có thể gọi người Huế định cư ở Washington D.C. là “Người Việt gốc Ve Sầu” được không? Nói bậy bạ, không chừng bị mắng chớ chẳng không!

Nhưng dù gì thì cũng không biết chắc Washington D.C. có ve sầu hay không. Nghe có ve tôi cũng mừng. Có hay không có, thế nào mùa hè năm nay, tôi sẽ về Wasgington D.C. để hy vọng được nghe tiếng ve sầu nơi đất khách!

_______________________________________

(1) Nguyên văn (Dạ Bạc Tần Hoài)

Yên lung hàn thủy, nguyệt lung sa,
Dạ bạc Tần hoài cận tửu gia.
Thương nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng “Hậu Đình Hoa”.

Đỗ Mục

(2) Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bật tiếng tơ
Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ
Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay

(Tỳ bà Hành – Bạch Cư Dị – Phan huy Vịnh dịch)

(3) La cigale ayant chanté
Tout l’été,
Se trouva fort dépourvue
Quand la bise fut venue :
Pas un seul petit morceau
….
(4) Ý thu
…..
Dưới gốc nào đâu thấy xác ve
Thế mà ve đã tắt theo hè
Chắc rằng gió cũng đau thương chứ
Gió vở ngoài kia, ai có nghe….

(Xuân Diệu)

Hít Hà Con Chắt Chắt…

Vài lời
Tôi vốn dốt môn sinh vật, cứ tưởng con hến cũng như chắt chắt thuộc loài “giáp xác” như tôm chẳng hạn vì nó có vỏ. Tra tự điển mới biết chúng nó thuộc lài nhuyễn thể có hai miếng vỏ, thuộc bộ Veneroida, xuất hiện nhiều nơi trên mặt địa cầu, kể cả Nam Mỹ, châu Đại Dương và châu Phi đen.

Có điều lạ, dân các xứ ấy cũng “đói” không khác gì dân Việt Nam ta, họ cũng dùng loài nhuyễn thể nầy làm thực phẩm, nhưng không biết chế biến để làm thành những món ăn ngon như ở nước ta. Không ít người ngoại quốc biết món cơm hến, nhất là những “ông, bà” nào đã đến du lịch Huế. Tiếc một điều, con chắt chắt không thấy xuất hiện ở Huế nhiều, nên Huế chỉ có cơm hến mà không có cơm chắt chắt.

Là món ăn của người bình dân, tôi không thấy con hến hay con chắt chắt xuất hiện trong văn chương bình dân như tục ngữ, ca dao. Món nầy không “gợi hứng” cho các nhà thơ của miền ruộng rẫy hay sao?

Nếu có ai biết, xin chỉ giùm.
Đa tạ

Sông Thạch Hãn cũng như Hiếu Giang là những con sông già, bờ sông không sâu hẳm, lẫn lộn cát với bùn, là nơi sản sinh loại chắt chắt và hến, không nơi nào bằng. Vì vậy, nói tới con chắt chắt, các vùng khác thì mù tịt, nhưng dân Quảng Trị thì lại rất rành. Rành ăn canh chắt chắt và cũng rành “chế biến”, nhứt là kể từ khi “Nhậu để khói sầu lên chất ngất” (NBS). Chiến tranh, đời lính, chết chóc, nghèo khổ sau chiến tranh, nhậu trở thành một “vũ khí chiến lược tiêu cực” để chống lại đói nghèo, vô vọng…

Canh chắt chắt nấu với rau muống hay khế hoặc bầu, thường có nhiều gừng. Gừng là một dược liệu chống hàn, vì con chắt chắt thuộc “giống hàn”. Hàn dễ gây đau bụng – đau bụng chớ không tháo dạ, không thuộc loại “tào tháo đuổi”. Người ta con bảo con chắt chắt sinh ở bùn. Rửa không sạch bùn, canh chắt chắt dễ làm đau bụng. Cũng để bớt mùi bùn, canh chắt chắt phải nấu cay. Trẻ con không ăn cay được thì bên đọi (bát) canh phải có chén nước mắm ớt. Ớt chìa vôi giả dập với nước mắm, nếu nhà giàu, nhà nghèo giả ớt với muối hột.

Mùa hè, gió Lào (còn gọi là gió Nam, “may được nồm nam cơn gió thổi” Nguyễn Khuyến) – nóng nực, buổi chiều ăn cơm với canh chắt chắt là món ăn giải nhiệt “siêu đẳng” của “Quảng Trị tui nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Dọc theo bờ sông Thạch Hãn và sông Hiếu, nhiều làng có nghề cào chắt chắt, nhưng nhiều nhất là làng An Giạ, phía dưới ngã ba sông Hiếu và sông Thạch gặp nhau, gần cửa Việt. Gần tới biển nên nước sông không mặn mà cũng không còn ngọt, thường gọi là vùng nước lợ. Nước lợ là nơi “định cư” của loài chắt chắt, không muốn sống nơi “biển mặn”. Đó là nơi hội tụ của bùn và cát, cũng là nơi hội tụ của hàng triệu con chắt chắt cống hiến cho dân quê xứ tôi món canh đặc biệt không nơi nào có.

Đừng lầm chắt chắt với hến. Con hến lớn hơn và cũng nhiều hơn. Cách bán chắt chắt và hến cũng giống nhau. Hoặc bán tươi, từng mớ, để trong rổ, rá, hoặc bán chín. Một đầu gánh là rổ hến đã “trơi” vỏ, đong bằng loon hay chén, đầu kia là hủ đất nung, đựng nước hến. Cái (con chắt chắt hay con hến) mà không có nước thì không ngon vì nước ngọt và mát.

Ở Quảng Trị người ta không bán cơm hến, nhưng Huế thì khá nhiều. Cơm nguội đựng trong chén. Cơm thì ít, hến thì nhiều, thêm rau thơm, bắp chuối xắt lát… Nhiều nhứt là ớt. Ớt rất cay. Người miền Nam đến Huế còn không dám ăn bún bò, huống chi cơm hến cay hơn bún bò nhiều.

Làm ruộng là nghề chính của nông dân, cào chắt chắt hay hến là nghề phụ, chỉ làm mùa hè, là mùa sản vật sinh sôi nảy nở nhiều. Gọi là cào vì người ta dùng cào để bắt chắt chắt hay hến. Dĩ nhiên, cái cào có hình dạng như cái cào, khoảng cách của răng cào nhỏ hơn, nên khi cào, cát bùn thì lọt qua răng, còn con hến hay con chắt chắt thì bị giữ lại.

Chắt chắt, hến sinh sống dưới mặt nước, từ chỗ trên mắt cá đến bụng, ít khi ngang tới ngực. Người cầm cào thường đi lui, cào lui nên người ta thường nói đùa câu “ăn tới làm lui”. Buổi sáng, đàn ông con trai có khỏe thì ra cào chắt chắt, hến. Trong khi các mẹ các chị thì gánh hàng lên bán ở các chợ như Đông Hà, chợ Sòng, chợ Thuận, chợ Sãi và chợ Quảng Trị (thị xã), sau khi đã ngâm nước giếng, lọc gạn sạch cát, đá, bùn…

Những nhà khá giả thường dùng bánh tráng nướng, bẻ thành miếng xúc chắt chắt hay xúc hến mà ăn. Bánh tráng nướng thường là loại bánh tráng mè, dày. Chắt chắt hay hến thì xào với “tóp mỡ”, hành Tây và ớt xắt lắt mỏng, theo chiều dọc của trái ớt.

Chắt chắt là món ăn của người nghèo, bình dân. Vua quan và nhà giàu có không ăn món “quê mùa” nầy bao giờ. Tuy nhiên, có người nói vua Thiệu Trị rất thích canh chắt chắt “hiện diện” trong mâm “ngự thiện” của vua. Có gì đâu! Khi còn trẻ, chưa nối nghiệp vua cha, vua Thiệu Trị thường hay “ra chơi” Quảng Trị, nên cũng đã có lần “thời” món ăn dân giả nầy. Té ra, vua của ta cũng “quê” chớ không “sang trong phú quí cao lương mỹ vị” như các đại gia ngày nay

Xa Quảng Trị, người ta chỉ nhắc lại “món quê” để mà nhớ. Ai đó thèm lắm thì có thể mua vài dĩa “hến xuất khẩu” ở các chợ Việt Nam đem về nấu cơm hến ăn chơi, còn như chắt chắt thì người ta chỉ có thể ăn… hàm thụ mà thôi.

Hoàng Long Hải

Hoàng Ánh Nguyệt

Hoàng Ánh Nguyệt

Đời Màu Hồng

Niềm vui có bạn tâm giao
Xoá bao ẩn ức gió gào qua song
Cuộc đời như mớ bòng bong
Thoáng buồn giây phút chìm trong luân hồi

Ta về đổ nắng ra phơi
Đổ trăng ra đếm đổ lời ra đong
Đổ bao vướng vít trong lòng
Giúp ta lấp được khoảng không bên trời

Giá ta là áng mây trôi
Dần tan trong gió mà thôi muộn phiền
Chẳng mong lắm của nhiều tiền
Sắc không, không sắc, hồn nhiên vui cười

Cho đi phiền muộn xa trôi
Cho tình thơ sáng khắp trời tương lai
Vui lên ta cứ mơ say
Tri âm trao chuốt cùng ai đôi dòng

Xô niềm Vô, Hữu long đong
Đời xinh như mộng thỏa lòng ước mơ
Khách thi xin chớ hững hờ
Tiếng thơ hòa nhịp đón chờ Tao Nhân!.

Cảm Thông

Trăm năm ủ mộng bên trời
Công hầu rũ áo… chợ đời lỡ duyên
Tội tù… đành lỗi ước nguyền
Ngàn năm mãi nguyện giữ nguyên lời thề

Dù xa mấy dặm sơn khê
Tấm lòng ưu ái hằng về cố hương
Hồn mơ giây phút tương phùng
Bên em… trang trải tận cùng… đam mê

Nửa vòng trái đất… xa quê
Nhìn trăng viễn xứ…. bốn bề quanh hiu
Niềm riêng gửi mộng vào chiều
Vần thơ định mệnh cuốn theo biển đời

Những trang sầu hận của người
Khiến cho… một kẻ bùi ngùi cảm thông
Xin người thoải mái… phiêu bồng
Cho thơ nhẹ cánh chín tầng trời cao…

Tình Xuân

Mới đó mà nay xuân đã sang
Nhớ xuân quê cũ nhớ mai vàng
Xuân về vạn cánh hoa đua nở
Tiễn tiết đông tàn dạ ngỗn ngang

Xuân nữa lại về trong mắt em
Lung linh màu nắng toả bên thềm
Tình xuân đất khách càng tha thiết
Trao gởi lời thương những nỗi niềm!

Rộn rã xuân về nhớ cố hương
Lòng nghe canh cánh nỗi đau thương
Biên Hòa quê cũ còn mơ mãi
Khát vọng sum vầy khách viễn phương

Sự Chung Thủy
Trong Thơ Dương Quân

Trước hết nói đến thơ là phải nói đến những niềm vui, nỗi đam mê, là thành tựu cao của phong cách nghệ thuật, của người yêu thơ “ Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm” (Voltaire). Cảm nhận cái đẹp, cái đẹp trong văn chương thi phú bao đời nay luôn luôn là cái đẹp hấp dẫn, phải có nhân cách mới biểu hiện được một nhân cách con người. Tâm hồn con người là cả một thế giới phong phú. Mà thơ là sản phẩm của tâm hồn, nên mang nhiều những điều kỳ diệu.
Trong cuộc sống, không phải ai cũng làm được thơ, mặc dù trong mỗi con người mà tạo hóa sinh ra đều ít nhiều có chất thi sĩ. Làm thơ đã khó, làm thơ hay lại càng khó hơn. Ngay ở những nhà thơ lớn, không phải bài nào cũng hay. Bởi thơ ca là một sáng tác “ đặc biệt”, rất “cá thể” là địa hạt của ước mơ, nhưng nó phải gắn liền với thực tại, nhất là trong cuộc sống có nhiều những muộn phiền này.
Trên chặng đường ngót nửa thế kỷ làm thơ của anh Dương Quân với lòng mộc mạc, thiết tha đã xuất hiện những bài thơ về tình yêu, yêu nhiều và thất bại không ít, có lúc thất tình nhưng chỉ trong thơ thôi.
Tình trong thơ anh Dương Quân thì trăm hình vạn trạng: Tình say đắm, tình thoáng qua, tình gần gủi, tình xa xôi, tình thế gian, tình tiên giới lẫn tình đã khuất… Vì người trong mộng, trong thơ, đến cả người ngoài đời, đôi khi có những khoảng cách khó khăn. Do đó tình yêu của Dương Quân có nhiều bài đượm buồn đến chua chát lẫn đắng cay và nuối tiếc. Thơ anh luôn nói nhiều đến cái hữu hình và vô hình. Ở đó vừa là mộng vừa là thực.
Trong thơ anh Dương Quân cho thấy cái đáng nói ở đây là luôn thể hiện lòng chung thủy, chung thủy với gia đình, chung thủy với tình yêu đôi lứa, với hoàn cảnh, với bạn bè, quê hương, chờ người ra đi và hứa hẹn đợi người còn ở quê nhà, chung thủy vì thân phận, tất cả những nhân vật trong thơ anh đều có chung sự chung thủy rất trọn vẹn, thật tuyệt vời.
Tôi đã đọc hầu hết những bài thơ trong bốn tập thơ của anh Dương Quân đã để lại trong tôi cái cảm khái. Những bài thơ với hồn thơ đẹp, ý thơ đằm thắm, tình thơ chân thành, Trong mỗi bài thơ tôi đọc đều thấy một tấm lòng, một nỗi niềm, một ước vọng, một khao khát riêng. Tôi không phải là người bình thơ, nhưng cũng tìm thấy nét rất riêng cũng như tiếp nhận được có một sự gần gũi cho mình.Tôi chỉ xin nêu vài nhận xét tiêu biểu một số bài thơ trong bốn tập thơ về Sự Chung Thủy Trong Thơ Dương Quân:

Tình gia đình:

Anh có những nỗi niềm. Ấy là sự ray rứt, xót xa lẫn ân hận, bài thơ viết từ những rung cảm sâu xa về cuộc chia ly da diết, điều mà mỗi người không thể tránh khỏi trong cuộc đời, thường là chứa đựng tâm trạng đau buồn và mất mát. Bi kịch của cuộc đời thăng trầm, anh đã thể hiện thật đầy đủ trong bài thơ “Đêm Giao Thừa Trong Trại Cải Tạo Quảng Ninh”:
Từ buổi xa nhà đi cải tạo
Xuân nầy thắm thoát đã ba xuân
Vì chưng mất nước nên tù tội
Giam hãm đời trai giữa núi rừng
Vì mất nước nên đành chấp nhận thân tù tội, giam hãm đời trai khi công danh chưa toại, với nỗi đau luôn giằng xé cõi lòng. Từ suy tư ngậm ngùi tác giả kẻ tha phương, nghĩ tới số phận mình càng ngậm ngùi hơn, đáng thương hơn với nỗi trăn trở nhớ quê mang nặng tình nghĩa với người vợ hiền, một mối tình đẹp và sâu sắc, và anh luôn tự hỏi có phải:
Có phải đêm nay dưới mái nhà
Vợ hiền đang nhớ đến người xa
Lật từng kỷ niệm trang thơ cũ
Ôn lại tâm tình xưa thiết tha
Bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu thắc mắc, sống ở cõi đời đầy chông gai, con người không nguôi nuối tiếc, lật từng trang thơ cũ để nhớ lại tình xưa, đau buồn từ những mất mát:
Hay nhà đã bị tịch thu rồi?
Hay là thất thểu tự ngàn phương?
Hay là mẹ đã bước sang ngang?
….
Cuộc sống là sự liên tục, từ trạng thái này sang trạng thái khác, là bấy nhiêu nỗi dằn vặt tâm hồn, da diết đến dường nào! thật oái oăm. Còn bao nhiêu tưởng tượng “Hay là”, là nguồn gốc đau xót trong anh, giữa cuộc đời tù tội, tương lai mờ mịt này liệu tình em có còn đậm như xưa, thương xót biếtbao, thêm vào đó trái tim khao khát yêu gia đình mà không được trọn vẹn, càng nghĩ lại luôn trĩu nặng nỗi buồn :
Hay là đất ẩm phủ khăn sô?
Lạnh lẽo tàn đông mấy nấm mồ
Con trẻ cùng chôn vùi với mẹ
Cỏ gà héo úa mọc lơ thơ
Cảm giác thật đau buồn chất chứa gởi trong vần điệu hoài nghi “ Hay là đất ẩm phủ khăn sô?” trong các từ gợi hình ấy, biết rằng cảnh tù đày xa xứ không hẹn ngày trở về, nhưng vẫn hy vọng và mơ ước:
Rồi mai, xuân cũng đến mười phương
Ta chúc gì nhau lúc đoạn trường
Có phải điều ta mơ ước nhất:
“ Gia đình sum họp vẹn yêu thương”
(Đêm Giao Thừa Trong Trại Cải Tạo Quảng Ninh – Trang 30 Điểm Hẹn Sau Cùng)
Tâm trạng hầu hết đều có chung hoàn cảnh khởi đi từ cuộc chiến, trải qua biết bao bi thương nhọc nhằn, của những người cùng thân phận tù tội, hoang mang nhưng vẫn thiết tha gia đình sum họp.
Bài thơ “Đêm Giao Thừa Trong Trại Cải Tạo Quảng Ninh”, được anh Dương Quân viết bằng lối thơ bảy chữ, niêm luật chặt chẽ. Bài thơ đã làm rung động người đọc, nhưng cũng đã gieo vào tâm hồn những bạn tù đồng cảnh ngộ một niềm tin ”Có phải điều ta mơ ước nhất. Gia đình sum họp vẹn yêu thương”. Mỗi lời, mỗi ý thơ biểu hiện một cách thấm thía khiến cho người đọc xót xa, ý nghĩa bài thơ đằm thắm tình đời, tình người, người đọc thấy ở đó hiện ra những tâm tư khác nhau, nhưng cũng cùng gặp nhau ở chỗ trân trọng cuộc sống, với những nét tinh tế, với những yêu thương, mơ ước và với bằng tất cả nước mắt …Cho nên bài thơ bao giờ cũng có tính chất ngậm ngùi, bâng khuâng, vì thế cho thấy bài thơ càng hay…
Hình ảnh cuộc đời cũng như cho đến tình chị em trong thơ anh Dương Quân có một sự tha thiết đến dường nào:
Mai em sẽ trở về thăm chị
Đón chuyến xe chiều chắc khách thưa
Vẫn trắng tay em, không hành lý
Vườn nhà, giếng cũ…có như xưa?
(Về Thăm Chị – Ttrang 47 Chập Chờn Cơn Mê)
Đối với anh Dương Quân sự cách trở bao giờ cũng cho thấy tín hiệu của lòng yêu thương nhớ nhung về những kỷ niệm, với người chị ở quê nhà, Về thăm chị nhưng có một nỗi băn khoăn “Vẫn trắng tay em, không hành lý” Vì những suy nghĩ buồn vui, nhớ nhung của chính mình, của cuộc đời, luôn luôn làm anh trăn trở, nhiều câu tiêu biểu cho lối xúc cảm thời tác giả còn cắp sách đến trường, đó chính là cảnh ngộ thực :
Chị hiểu rằng em thiếu bạc tiền
Mấy lần mua sắm gởi cho em
Nhận quà, sách vở, em thương chị
Mỗi tối chong đèn học trắng đêm
(Chị Học Trò – Trang 51 Chập Chờn Cơn Mê)
Qua thơ anh Dương Quân . Đặc diểm đáng được đề cao đó là tinh thần trách nhiệm với gia đình luôn có sức rung động riêng:
Nay về thăm nữa chị Tâm ơi!
Nhà lạnh vườn hoang cũng lạnh rồi
Trông trước , nhìn sau, buồn bã quá
Ngậm ngùi thương chị, biết sao vơi.
(Thăm Chị – Trang 55 Chập Chờn Cơn Mê)
Cho thấy một nỗi đau mất mát người thân,với nỗi lòng thảng thốt, lâng lâng . Gây xúc động cho người đọc. Đọc thơ anh , ta gặp những cung bậc đa thanh về nỗi đau tâm hồn. Một đặc điểm đáng được nhắc đến trong bài thơ “Thư Cuối Cùng”:
Quê người em vẫn thương về Chị
Dành dụm gởi tiền cho chị tiêu
Chị lại góa chồng – buồn héo hắt
Bàn thờ, bóng Chị đổ xiêu xiêu
Nỗi hiu hắt thương cảm, khi hay tin chị đã qua đời, tác giả đã bôc lộ một tình cảm thiết tha với người chị mến thương, cùng với bao kỷ niêm thời thơ ấu, những lời thơ làm người đọc nghẹn ngào:
Thế nào em cũng về thăm Chị
Nấm mộ vườn sau – Chỗ Chị nằm
Thắp nén trầm hương – em khấn nguyện
Ngậm ngùi: Vĩnh biệt Chị! Ngàn năm!
(Thư Cuối Cùng – Trang 46 Điểm Hẹn Sau Cùng)
Ý nghĩa bài thơ không vơi cạn ở đó, người đọc thấy ở đó hiện ra những tâm tư khác nhau, nhưng cùng gặp nhau ở chỗ trân trọng.
Tâm hồn anh Dương Quân luôn khát khao, niềm thiết tha về cuộc sống . Yêu gia đình, yêu cuộc sống. Trong bài thơ “Cọp Lấy Chồng”, một bài thơ với nhiều nỗi nhớ, liên tưởng tất cả những gì đã xảy ra trong quá khứ, anh đã nhắc lại thời tuổi trẻ, bâng khuâng nuối tiếc tháng ngày qua với những nỗi buồn ngày cọp đi lấy chồng, cho ta cái cảm giác những hình ảnh đẹp của một gia đình hạnh phúc nay không còn:
Thế rồi ba phải bỏ quê hương
Cuộc sống lưu vong vạn dặm trường
Nơm nớp lo về con gái rượu
Lại nhằm tuổi Cọp khó ai thương.
Trải qua những nhọc nhằn trong nỗi buồn tha phương, đọc thơ anh Dương Quân một hồn thơ ý thức diễn tả tinh tế và thấm thía, khi nghe tin cô con gái rượu Vu Qui:
Mẹ hiền tổ chức Lễ Vu Qui
Ba ở phương trời nên vắng mặt
Rượu mừng Ba chẳng được nâng ly…
… Thương con Cọp nhỏ buổi Vu Qui
Ba viết bài thơ vội nhắn về
Thay của hồi môn, thay kỷ vật
Thay màu pháo đỏ tiễn con đi
Anh ở phương trời xa tít nên vắng mặt, tuy nhiên khi nghe con gái Vu Qui anh thấy trong lòng tràn hạnh phúc, trộn lẫn niềm đau. Nhưng anh không quên có mấy lời dặn dò con gái:
… Mấy lời Ba muốn dặn dò con
Vun quén tình yêu thật vẹn toàn
Chung Thủy là nền xây Hạnh Phúc
Thăng trầm vẫn giữ tấm lòng son.
(Cọp Lấy Chồng – Trang 83 Như Thật Như Mơ)
Tác giả minh thị tất cả đều Chung Thủy, và thơ anh luôn ca ngợi lòng “Chung Thủy là nền xây Hạnh Phúc”. Nền có vững thì Hạnh Phúc mới bền, mới chắc chắn được.
Quỳnh Hương không khỏi không cảm động, trong cả bài thơ anh Dương Quân dựng chân dung khá độc đáo, nhất là những câu làm Quỳnh Hương nghẹn ngào, lời thơ bình dị nhưng, rất điển hình và nhiều xúc cảm.

Tình Yêu .

Những hình ảnh xưa cũ, mỗi nỗi nhớ đều mang âm hưởng tình nghĩa, thủy chung, nhớ thương đến day dứt lòng. Trong tình yêu của anh có cái gì lung linh anh hồi tưởng:
Thuở ấy một lần xa phố cũ
Tôi rời đô thị đến An Xuyên
Chân trời cuối Việt xa thăm thẳm
Không có người thân, chẳng bạn hiền
Vì công vụ nên anh phải rời đô thị đến tận chân trời cuối Việt xa thăm thẳm. Bởi trong người trai trẻ tuổi này, lòng khát khao giao cảm với cuộc đời rất mãnh liệt:
“Tôi đến An Xuyên lòng khắc khoải
Những trưa gà gáy gọi hoàn hôn
Những chiều gió biển đùn mây xám
Gợi tiếng sầu dâng tận đáy hồn”
Anh suy nghĩ đến những tháng ngày đã qua, những ngày đã sống, đã gian lao và yêu thương, bức tranh quê hương được anh vẻ lại bằng thơ rất gợi cảm, trong sáng :
“Gặp em vào buổi ban sơ ấy
Chung chuyến đò qua ghé bến quê
Tôi chép câu hò đem đến tặng:
“Cà Mau đi dễ, khó quay về”
Không chỉ nhà thơ yêu thương cô gái quê với sức sống mơn mởn, chung chuyến đò lần đầu gặp gỡ, mà bất cứ một ai khác ở vào hoàn cảnh của anh cũng thấy lòng tha thiết mà nó thấm tình người “Cà Mau đi dễ, khó quay về”.
“Em hẹn chèo ghe ra họp chợ
Tôi chờ, trưa nắng, bóng sông trôi
Cắm sào, che nón, em cười nụ
Lòng ngỡ rằng em nói vạn lời”
Bức tranh “Em hẹn chèo ghe ra họp chợ, Tôi chờ, trưa nắng, bóng sông trôi” Thật thơ mộng, chính cái thơ mộng này đã làm đắm say lòng một Đốc Sự trẻ, anh rất tinh tế trong cách miêu tả:
“Nhà em có mảnh vườn rau nhỏ
Uống nước trời mưa, gạo giã tay
Tuổi mẹ như vừng xôi nếp mọt
Cha già như trái chín trên cây
Hái rau đem bán lo tiền chợ
Mót củi rừng thưa, nhúm bếp cơm
Cha mẹ tuổi già, con gái muộn
Tảo tần ngày tháng đáp công ơn.”
Những lời thơ thắm tình người trong cảnh vật, đã làm cho thiên nhiên và con người hài hoà trong tình gia đình, anh đã thổi vào đó một ngọn gió nồng nàn, một gia cảnh nghèo , cha mẹ già con gái muộn, nên cô gái quê phải “Tảo tần ngày tháng đáp công ơn.”Tấm lòng của anh luôn mang những mơ ước cao đẹp về cuộc sống, không chỉ thuần túy mà gắn bó sâu sắc, như một lẽ yêu đời, một niềm khao khát không ngừng:
“Từ đó tôi yêu miền cuối Việt
Yêu đôi mắt đẹp, cổ tay tròn
Áo bà ba trắng, môi cười nụ
Yêu gái Cà Mau vẹn sắt son.”
(Hương Tình Cà Mau – Trang 91 Chập Chờn Cơn Mê)
Tác giả miêu tả tình yêu bằng những biểu hiện cụ thể, rất tự nhiên mà gây nên ấn tượng sâu đậm, cảnh vật trong thơ hiền dịu, mộc mạc, đậm chất Nam Bộ, tình người được anh miêu tả ngọt ngào. Anh Dương Quân đã được Nhà thơ/ Văn/ Xuất Bản Thư Quán Bản Thảo, tác giả Qua Sông Mùa Mận Chín, Ô Cửa, (Thơ Trần Hoài Thư) và nhóm Sưu Tập đã chọn và đăng hai bài thơ Lối Xưa (1962) và Hương Tình Cà Mau (1967) vào Bộ Sưu Tập Thơ Miền Nam Thời Chiến (cùng với 262 tác giả khác) Đây là một vinh dự cho tác giả.
Đọc bài thơ “Em Bên Ấy” cho tôi cái cảm giác như nhìn ngắm lại chân dung của người tình mà anh đã lỗi hẹn, đành rằng không thể sống mãi với quá khứ nhưng ở đây tác giả không bao giờ quên, bởi đó là những nấc thang của cuộc đời:
…Ba mươi năm, anh bước đời lận đận
Em võ vàng, cõi nhớ chẳng mờ phai
“Ôi nhớ lắm! Những ngày hoa gấm cũ. ..Ôi nhớ lắm! Nõn nà tà áo lụa” Điệp khúc Ôi nhớ lắm anh lập lại như một lời ân hận vì “Ba mươi năm, anh bước đời lận đận” …Thề non hẹn biển đành vỡ tan, em ngây thơ tin lời anh ích kỷ:
“Để lỡ làng nhuộm tím cả xuân xanh”
Nhưng em vẫn trọn đời chung thủy như đã hứa, trong khi anh vẫn biền biệt dấu quan hoài:
Xin cho anh tạ lỗi buổi quay về.
Lời thơ chân thành mà thật cảm động, đường trần ai tuy bước chân đã rời rã, nhưng tâm hồn anh luôn khát khao mơ tìm lại phút tương phùng:
Đường trần ai, đây bước chân rời rã
Anh vẫn mơ tìm lại phúc tương phùng
Chỉ thấy bao la khung trời băng giá
Và hồn thơ mòn mỏi kiếp lưu vong.
(Em Bên Ấy – Trang 50 Điểm Hẹn Sau Cùng)
Lời thơ như phác họa một thực tế của dòng đời trôi cuồn cuộn những đau buồn, thâu canh trằn trọc không ngủ, luôn nhớ về em, trong thời loạn mà anh đã trải qua, với cuộc sống mòn mỏi kiếp lưu vong:
Nhiều đêm trằn trọc anh không ngủ
Sao nhớ về em – nhớ lạ lùng
Hai kẻ hai phương trời cách biệt
Sá gì hai kẻ cuối, đầu sông
Biệt ly là định luật, với bao nhiêu những đổi thay của cuộc đời, những kỷ niệm buồn vui trong cuộc sống, nhưng định mệnh, lương duyên âu cũng là xếp đặt của tạo hóa…nhưng xa rồi hai kẻ hai phương trời:
Em ở quê nhà – em có biết
Mỗi lần ngắm lại tấm hình em
Ngỡ em, gần gũi trong gan tấc
Chia sớt cùng anh những nỗi niềm
Theo bước thời gian cho dù xa cách mà năm tháng dài không trở thành phai nhạt, một tình yêu không thành tựu, trái ngang, nghiệt ngã nhưng lúc nào cũng nhớ về nhau “ Khấn nguyện được gần nhau mãi mãi. Cho đời thôi lạnh những đêm đông” Nhưng xúc động nhất vẫn là nỗi nhớ thương da diết của tác giả đối với người yêu, mỗi lần ngắm lại tấm hình em, cứ ngỡ gần gũi trong gan tấc. Nếu tình yêu không lắm chuyện bẽ bàng, thì làm gì người đời hay chính tác giả có được những câu thơ chan chứa ngàn lời, muôn đời vẫn giữ chữ thủy chung:
….Hôm nay anh ghép vần thơ nhớ
Gởi vội về em nhắn mấy giòng…
…”Dẫu có xa em, đời có khổ
“Lòng anh như một gốc cây tùng
“Vẫn xanh màu lá, dù sương tuyết
“Vẫn giữ muôn đời chữ thủy chung”.
(Lời Trần Tình Cho Em – Trang 21 Trên Đỉnh Nhớ)
Tác giả bày tỏ nỗi nhớ nhung sự trân trọng của mình. Cuộc đời dù có khổ đau, mất mát,
“ Lòng anh như một gốc cây tùng”.Gốc cây tùng thì bền chắc, dù cho sương giăng tuyết phủ vẫn xanh màu lá “Vẫn giữ muôn đời chữ Thuỷ Chung”.
Những cuộc tình trong mỗi người chúng ta ở tuổi thiếu thời có lẽ ai cũng trải qua một vài cuộc tình đáng ghi nhớ! Bây giờ nó đã trở thành những kỷ niệm không thể nào quên, những cuộc tình êm ả, lãng mạn, thơ mộng, đôi khi thoáng qua nhưng hầu hết đều dang dở. Bài thơ diễn tả cảnh chia tay của đôi trai gái miền quê, không thành, âm hưởng của nó lại bị vò xé tâm tư tình cảm một cách nghiệt ngã, khi chàng trót yêu thương bông hoa đã có chủ:
Bậu về khuất rặng trâm bầu
Qua còn đứng ngắm bên cầu ô rô
Rạch bần nước chảy nhấp nhô
Chiều hôm đã mỏi cánh cò. Bậu ơi!
Cầu ô rô đầy gai góc, không thể bước qua chướng ngại, ngăn cách. Cầu ô rô ý tác giả muốn nói không thể gặp lại được. Cánh cò đã mỏi thì đuối sức khiến tác giả cảm thấy u uất một sự chia ly:
Qua về khép lại mái hiên
Giăng màn nhựt nguyệt, đắp mền tương tư
Kiếp sau qua sẽ hẹn chờ
Để xin cùng bậu một giờ bên nhau
(Phút Chia Tay – Trang 50 Như Thật Như Mơ)
Tác giả đành trở về khép lại mái hiên màn sương chiếu đất “Giăng màn nhựt nguyệt, đắp mền tương tư” tác giả mơ tưởng, nhưng không có đắp gì, kiếp này tuyệt vọng, để xin kiếp sau rất khiêm nhường, chỉ xin một giờ bên nhau thôi. Qua bài thơ, tác giả có ý ca ngợi tình yêu dù đắm say nhưng thuần khiết, cũng phải hẹn chờ một tương lai không hiện thực vì yêu trong hoàn cảnh éo le ngang trái để rồi nó có thể là dấu ấn tuyệt vời cũng có thể là suy tư trăn trở trong suốt chiều dài cuộc sống.
Có những giây phút để đợi, để chờ, những kỷ niệm đã qua mang nỗi buồn bâng khuâng, tâm trạng “Chờ hết trăm năm, đợi hết đời” của người đang mong mỏi, chờ đợi cuộc đoàn tụ:
Sao em không về đây em ơi
Chờ hết trăm năm, đợi hết đời
Vẫn mịt mù tăm, không bóng dáng
Sức tàn lực kiệt mỏi mòn hơi.
Là tâm trạng cháy bỏng trường kỳ với ước vọng của kẻ yêu nhau chưa lần hội ngộ, khắc khoải, tha thiết, ngậm ngùi, chờ hết trăm năm sức tàn lực kiệt:
Em hãy về đây, ta có nhau
Thời gian như nước chảy qua cầu
Nội dung bài thơ tràn dâng khi tuổi thanh xuân lùi nhanh về dĩ vãng, có thể mầm tuyệt vọng đã đến gần:
Phút chốc thanh xuân đã bạc đầu.
Tiếng gọi em về vọng thiết tha…
Dòng đời như bóng câu qua cửa . Một hồn thơ chờ đợi, lắng xuống xót xa. Nhưng cái lưu luyến bùi ngùi là ở chỗ. Sao em không về?:
Có lẽ từ đây rồi mãi mãi
Chẳng còn có dịp gặp nhau thôi.
(Sao Em Không Về – Trang 136 Như Thật Như Mơ)

Bàng bạc, nuối tiếc, đủ làm đau lòng người viễn xứ, cuộc đời sao lắm bẽ bàng, từ dĩ vãng anh trở về hiện tại, biết rằng vẫn chưa quên cũng đành “Nhắn Lại Người Thương” vì:“Qua đành mãn kiếp lưu vong xứ người” Tâm tình của tác giả trong hoàn cảnh nhiểu nhương của đất nước:
… Có ai thương bậu, ngỏ lời
Bậu ưng đi! – kẻo cuộc đời tàn phai
Chừng nào mây trắng còn bay
Qua còn nhớ bậu những ngày…xa xưa.
(Nhắn Lại Người Thương – Trang 29 Trên Đỉnh Nhớ)
Lời thơ thật dễ thương làm sao, có bao giờ mây trắng thôi bay? Có ai lại không muốn tình yêu muôn đời vẫn mãi mãi gắn bó. Nhưng sự trái ngang tình đời thường hay làm lỡ dỡ. Tình rất nên thơ nhưng cũng là món nợ mà người đời phải đeo mang có khi trọn đời suốt kiếp vẫn chưa trả hết.
Có lẽ là thu đang đến đây lời thơ trong sáng, êm như ru, ý thơ nhẹ nhàng, man mác, tỏa ra như mây khói, mà dễ thương, huyền diệu biết bao. Cả bài thơ Quỳnh Hương có cảm tưởng như một bức tranh sống động:
Có lẽ là thu đang đến đây
Cho sương khói ủ mộng thêm đầy
Có con én muộn chao ngoài ngõ
Mang hết hạ tàn theo cánh bay
Hình ảnh chớm thu vốn vô tri nhưng đã trở thành đối tượng tâm tình để miêu tả, hiện lên trong những câu thơ hay đẹp xiết bao! Nhà thơ Dương Quân tâm sự:
Có chi nhung nhớ rất đìu hiu
Nhè nhẹ vương trong sắc nắng chiều
Hồn của muôn loài hoa cỏ mục
Đợi hoàng hôn tắt, bóng trăng treo
Câu thơ của anh đã nói lên cái mong ước, cái khát vọng tình cảm chân thành chất chứa ở bên trong rất khiêm nhường và ý nhị. Cho thấy thơ của anh thật gắn bó với cuộc đời. Thời gian là bước đi tàn nhẫn thêm vào đó nếu không là sự xoay chuyển của vũ trụ. Mà vũ trụ thì có bao giờ ngừng quay, nên không cản được dòng chảy của thời gian. Một ngọn bút tài hoa diễn đạt nên những câu thơ đẹp, có linh hồn và lung linh như thế:
Ai có vui gì nghênh đón Thu
Thời gian không hẹn bước giang hồ
Thu tàn, đợi tiết xuân xanh lại
Riêng mảnh tình phai vẫn xác xơ.
(Thu Cảm – Trang 77 Như Thật Như Mơ)
Bài thơ Thu Cảm QH đọc rất cảm xúc, cho thấy tác giả diễn đạt rất tinh tế, trong tình cảm và trong cảm nhận, vào lúc trời đất giao mùa thơ thường đượm buồn. Có lẽ do sức gợi cảm của gió đầu mùa se se lạnh của sương thu. Vượt lên trên những cảm nhận tinh tế, trước cảnh đất trời vào thu, bài thơ còn đau đáu khôn nguôi.
Có những cuộc tình lãng mạn, cuồng nhiệt lẫn tha thiết . Tình yêu muôn đời vẫn là tất cả, tình yêu và đam mê

Hình ảnh nhân vật của anh Dương Quân mang tính chất thủy chung tuyệt vời, bài thơ cho ta thấy dẫu ngang trái, nhưng không hề nửa lời than trách, hình ảnh người tình muôn đời vẫn nhớ , vẫn hứa khi tình yêu kia luôn ở nguyên trong hồn, môt trạng thái cam chịu:
Ta đã bao lần hứa với em
Từ khi nguyệt bạch rớt bên thềm
Chia nhau nhặt nửa vầng trăng vỡ
Để giữ làm tin mãi chẳng quên.
Ta đã vì em phát nguyện cầu
Một mình chấp nhận hết thương đau…
Chia nhau nhặt nửa vần trăng để làm tin vì yêu mà tác giả đã chấp nhận hết thương đau “Cho em phơi phới mùa xuân sắc. Ta sẽ chung thân chịu dãi dầu”… Tác giả thể hiện lòng chung thủy, qua bao thăng trầm của cuộc sống, mặc cho đời trải gió sương vẫn giữ lời hẹn ước :
Ta ghép vần thơ thế kỷ dài
Nối liền dĩ vãng đến tương lai
…Cho câu hò hẹn chừng vô tận
Ôm nửa vầng trăng nhớ miệt mài.
(Muôn Thuở Tình Chung trang 118 Như Thật Như Mơ)
Và “tình chung” sẽ được giải thích bằng cả bài “Muôn Thuở Tình Chung”, lời thơ dường như đắm hơn, rạo rực hơn, cái rạo rực của thiết tha da diết, âm thầm giữ lấy cuộc tình để rồi “Ôm nửa vầng trăng nhớ miệt mài”.
Biệt ly là định luật, với bao nhiêu đổi thay của cuộc đời. Cuộc sống là những bài toán khó mà ta không tìm ra đáp số. Trong cuộc đời có nhiều thứ để quên, nhưng tình yêu khó mà phai nhạt tác giả đã chân thành bày tỏ qua thi phẩm Gánh Trầu Mỹ Hội:
…Gặp nhau rồi lại xa nhau nữa
Căn dặn đừng quên sớm trở về
Em đứng bên bờ sông Cát Lái
Nhìn theo như níu bóng người đi.
Dòng sông, bến đò được sử dụng như là biểu tượng của sự chia ly,em đứng bên bờ sông Cát Lái nhìn theo như níu bóng người đi, người đi đã đi mà lòng ngổn ngang tâm sự:
…Như mảng lục bình trong nước xoáy
Không về trở lại bến sông xưa
Trong bài “Gánh Trầu Mỹ Hội” của anh Dương Quân , anh đã sớm vương nỗi buồn, hình ảnh lục bình trôi trong nước xoáy. Anh liên tưởng đến thân phận, của kiếp người chìm nổi long đong? Phiêu bạc giữa cuộc đời như mảng luc bình trôi vô định:
…Dòng đời xô dạt anh xa mãi
Mà bóng người thương chẳng nhạt mờ
Thật cảm động lời thơ nào cũng khiến cho QH đọc phải xao xuyến, tình yêu thật dễ thương và cũng ngang trái như thế, nên trần gian đầy rẫy những ưu phiền.
Chờ đợi, hò hẹn không gặp vì hoàn cảnh vì thân phận, từ thời thiếu niên cho đến kiếp sau dù qua bao thăng trầm của cuộc đời mà bóng người thương chẳng nhạt mờ trong tâm khảm của anh.
Đời như dòng nước, hình ảnh cuộc đời buồn lắm. Như dòng sông cứ chảy, như thác ngàn quanh co. Vẫn chờ vẫn đợi, vẫn nhớ lời hẹn ước mà vì hoàn cảnh không về. Thật vô vàn thương cảm, mỗi từ ngữ của tác giả như là một giọt đắng:
Anh đốt trầm hương xin khấn Mẹ
Sau này được kết nghĩa trăm năm
Em làm nội trợ nuôi con nhỏ
Thôi gánh trầu, thôi những nhọc nhằn
Rất đời thường, “Em làm nội trợ nuôi con nhỏ” nhưng cũng không thành với người con gái ngây thơ trong trắng. Hình ảnh người ra đi xa dần xa dần nhưng vẫn hy vọng một ngày có ai về quê nhắn dùm “Xin hiểu lòng nhau – tạ lỗi lầm”:
…Biết có ai về quê Mỹ Hội
Nhắn dùm người cũ mấy lời thăm
Giờ thân viễn xứ còn trôi nổi
Xin hiểu lòng nhau – tạ lỗi lầm.
(Gánh Trầu Mỹ Hội – Trang 111 Điểm Hẹn Sau Cùng)
Những vần điệu mộc mạc đơn giản nhưng đã để lại trong tôi nỗi xúc cảm.
Theo thuyết nhà Phật luân hồi, hẹn gặp nhau dù chờ “Một Ngàn Năm” vẫn không thay đổi, giữ nguyên lời thề:
…Ngàn năm đã đủ hay chưa
Trầm luân mấy cõi cho vừa giấc say?
Ngàn năm bể nhớ vơi đầy
Đường trần đã lỡ kiếp nầy mất nhau.

Ơi! Người say đắm ta yêu
Ngàn năm miễn được một chiều có em.
(Một Ngàn Năm – Trang 99 Trên Đỉnh Nhớ)
Thật đáng khâm phục sự thủy chung , dù đợi ngàn năm, dù thời gian trôi qua, cái hữu hạn của cuộc đời con người. Cuộc đời sẽ mất đi, tuổi xuân sẽ qua đi, nhưng thời gian sẽ mãi là thời gian. Chờ đợi vẫn mãi chờ đợi chỉ mơ cùng người say đắm ta yêu “Ngàn năm miễn được một chiều có em” đã gây cho tôi một ấn tượng tuyệt vời.
Mỗi nỗi buồn của anh Dương Quân đều mang âm hưởng tình nghĩa, những vần thơ êm đềm, sâu lắng, anh tả cảnh thiên nhiên của biển vì nó đẹp, với những nét độc đáo, đầy màu sắc, gợi hình , đó là thái độ của nhà thơ lãng mạn:
Mời em một chuyến rong chơi
Thăm miền biển vắng thăm người cô đơn
Quanh hiu những lá hoa cồn
Bình minh sương phủ, hoàn hôn sóng gào
Em về đây ta có nhau
Trà chuyên đối ẩm dạt dào ý thơ…
Lời mời của biển, hy vọng, chờ đợi “Em về đây ta có nhau”…Không bao giờ tác giả nguôi nỗi chờ mong, như biển kia không bao giờ ngưng vỗ sóng vào bờ:
…Vườn xuân đã héo lại ươm”
Gối chăn đã nguội hãy còn hồi sinh…
Vẫn nhớ vẫn mời gọi “Em về đây chắp lỡ làng” “Kề vai sao rụng, mây quàng tóc thơm” Hãy về đây gối đầu kề vai cùng anh, trên bải biển thiên nhiên, kho báu trời cho ta có sẵn, em về đây bên nhau đời vô tư không phiền muộn. Đọc bài thơ anh Duơng Quân hơn một chút hay nhiều lần, hẳn cũng nhận thấy tình ý trong thơ rất nồng nàn, một cội rễ nguyên nhân xa hay gần mới có thể có những câu:
…Sá gì sơm nắng chiều mưa
Trà chuyên đối ẩm cũng thừa giấc say
Tình yêu lặng thầm như thế, tha thiết như thế, mời gọi như thế đối với tình yêu dù là vô vọng nhưng vẫn ngọt ngào:
,,,Mời em thu xếp về đây
Hành trang xin nhớ chất đầy túi thơ.
(Lời Mời Của Biển – Trang 135 Như Thật Như Mơ)
Để rồi kết luận cũng thắm thiết, thủy chung dù chỉ là hư ảo, không suồng sã, không màng vật chất, chỉ mong lời mời được chấp nhận , thu xếp về với biển “Hành trang xin nhớ chất đầy túi thơ” .Những lời rất ý nhị, nhẹ nhàng.
Tình yêu mang đến cho ta hạnh phúc, nhưng vẫn thường đi kèm với đau khổ. Chúng ta ai nấy đều tìm kiếm tình yêu trong suốt hành trình cuộc sống, đây là một trong những bài thơ thể hiện phong cách, bằng hình tượng chứ không dùng khái niệm. Nhờ thế thơ anh giàu ý nghĩa cũng như tình yêu trong thơ anh hàm súc của ẩn dụ, tình yêu luôn có nhiều điều kỳ diệu, lãng mạn:
Tối nay có thể em về
Chiều rơi đã lạnh bốn bề rưng rung
Nai tơ chắc đã quên rừng
Núi cao cũng khuất mấy từng mây che
Chàng hy vọng, chờ đợi, gợi ý, gợi tình mong mỏi, trong thơ bao giờ tác giả cũng thể hiện một chất sống mãnh liệt, dạt dào từ cảm xúc đến suy tưởng :
Em về tâm sự lâm ly
Tóc bay bát ngát hương thề trăm năm
Trong cuộc đời của anh Dương Quân, thơ văn gắn liền với tình yêu, như bóng với hình. Gần như hễ có thơ là có tình. Thế nhưng tình của anh không biểu lộ giao tiếp song phương để cụ thể hóa mối tình đó mà anh chỉ cảm ứng và khi khái quát hóa, thơ anh trở nên thú vị, có sức hấp dẩn:
…Trải thơ làm chiếu em nằm
Giũ mây em đắp khơi trầm em xông
Tưởng tượng của anh phong phú kỳ lạ, ước mơ của anh thiết tha chân thành, có thể xem anh là một nhà thơ đào hoa, lãng mạn, tác giả đả nâng cảm xúc lên thành suy nghĩ, trải thơ làm chiếu và giũ mây em đắp. Hãy đọc những lời thơ thành thật:
…Ru em giấc ngủ bềnh bồng
Nai tơ quên cả núi rừng hoang vu
(Hy Vọng – Trang 125 Như Thật Như Mơ)
Anh vẫn cứ hy vọng, cứ ước mơ “Từng đêm hy vọng mong chờ. Tối nay có thể nghe thơ em về”. Ước mơ trong bao nhiêu ngày tháng, bao nhiêu giấy mực, lời thơ, bao nhiêu hy vọng cứ chơi vơi, không đi đến đâu cả.
Nghĩ chờ đợi lâu, chàng mơ viễn vong thả hổn tưởng tượng, mơ Công Chúa Tiên Triều, mơ người thật, người tiên, hẹn với tiên, mơ một ngày kia làm rễ trên trời…Đó không chỉ là cách cảm thụ bình thường mà tìm ở một thế giới cao và xa, nửa mộng nửa thực, nửa là cuộc sống trần gian, nửa là cuộc sống tiên cảnh:
Ta trải dài ước mơ trên bãi cát
Dấu chân ta vô tận, bước khôn cùng
Duyên tiền định, nên xui ta đã gặp
Người đẹp khuynh thành: Công Chúa Tiên Dung.
Những lời ước mơ tội nghiệp ấy, thất vọng tự lừa dối mình thật trớ trêu và hết sức nhún nhường:
Nhưng Công Chúa ơi!
Ta chẳng ham Phò Mã
Những buộc ràng, áo mão với cân đai
Ta chẳng muốn lễ nghi thêm phiền toái
Nơi cung son, điện ngọc chốn vương đài.
Cuộc đời quá phũ phàng, âu đó cũng là quy luật của tình cảm, nỗi dằng xé ấy cùng với tiếng lòng thổn thức nhà thơ cảm thấy tình cảm phát ra lời thơ và trong trí tưởng tượng những cái vô hình cũng có thể hóa ra hữu hình:
Em yêu dấu! hãy cùng ta ở lại
Với trời xanh, mây trắng, biển hoang vu…
Ngai vàng đó: Trong tim ta mãi mãi
Và tình yêu là biển cả vô bờ.
(Bức Thư Tình Vương Giả – Trang 63 Như Thật Như Mơ)
Những lời thơ nồng nàn, chan chứa làm cho người đọc mường tượng đến một tình yêu vô bờ.
Trên dòng chảy của thời gian, tác giả muốn nhắc lại vẻ đẹp, một sự việc đã tạo nên những kỷ niệm, những tình cảm ngày xưa còn bé ham chơi:
Ngày xưa còn bé hay đùa giỡn
Ham chạy rong chơi biếng học hành
Những kỷ niệm thuở ấu thơ đẹp như mơ, tình yêu ơi, đẹp quá tuổi thơ ngây, là kho tàng của tuổi mộng mơ “Anh thích làm Vua, em Hoàng Hậu. Xưng mình là Trẫm, gọi em: Khanh” tác giả diễn đạt tình ý tự nhiên:
Em bảo, sau này khi lớn khôn
Em làm heo nái (!) đẻ mười con
Năm chàng Hoàng Tử, năm Công Chúa
Hết tiền, ăn cám để thay cơm…
Nhà thơ sống bằng cảm giác rất tế nhị nhưng cũng rất lãng mạn, rồi do cảm xúc và tưởng tượng khi lớn khôn nàng làm heo nái đẻ cho chàng mười con, không tiền ăn cám thay cơm. Anh đã phát họa nhiều nét thật đáng yêu và từ đó hình ảnh: “ Thời gian thấm thoát trôi mau. Mấy chục năm qua bạc mái đầu. Sống gởi thân tàn nương đất khách. Vẫn hằng canh cánh ngóng tin nhau”. Những câu thơ thật tha thiết, tình yêu trong thơ Dương Quân không phải là chuyện huyền bí, nhưng lại rất thiêng liêng, lúc nào anh cũng nhớ và luôn ngóng tin nhau:
Nhắc chuyện ngày thơ luống ngậm ngùi
Nhớ em, hình bóng chẳng hề nguôi
Nếu sang kiếp khác còn tao ngộ
‘Em đẻ mười con”. Hãy nhớ lời.
(Trẫm và Khanh – Trang 126 Như Thật Như Mơ)
Những suy nghĩ nhắc chuyện ngày thơ nhiều khi quá tự nhiên, anh luôn tỏ ra nồng nhiệt dầu sang kiếp khác anh vẫn nhớ lời “Em đẻ mười con” cho anh như đã hứa. Trong bản chất tốt đẹp của tình yêu rất trong sáng.
Những người yêu nhau thường diễn tả tình yêu là cái cao khiết của tâm hồn là một phần của sự sống, để rồi từ đó làm cho người đọc thấy rằng nếu không có những lời thơ mang hình thái lãng mạn mà cũng thật huyền diệu. Chính anh đã tạo dựng hình thái thơ ca đó xuất phát từ hồn thơ đầy xúc cảm.

TÌNH BẠN:

Với anh Dương Quân ngoài tình cảm gia đình, tình cảm với quê hương đất nước, anh rất quý mến bạn bè anh trân trọng với bằng cả tấm lòng:
“Xin hãy đến với nhau
Khi con người còn sống
Khi chết nằm một đống
Chớ thắp hương nguyện cầu”
(Hồi Âm Thư Bạn-Trang 138 Chập chờn cơn Mê)
Thơ anh bâng khuâng, day dứt, nhất là sau cuộc đổi đời năm 1975 bạn bè kẻ còn người mất, nhục nhằn cùng chung cảnh tù đày, buồn vui của cuộc đời luôn tiếp diễn, từ dĩ vãng anh trở về hiện tại, từ mộng ảo anh trở về hiện thực. Vốn rất nhiều tâm tình, những hình ảnh ngày xưa và nhọc nhằn hôm nay, những cảm giác đó đã bộc lộ trong những lời thơ:
Ai có ngờ đâu, ra vận nước
Bỗng nhiên-trời đất nổi cuồng phong
Bỗng nhiên-chính nghĩa thành tro bụi
Tang tóc bao trùm khắp núi sông.
(Gặp Bạn Tâm Tình-Trang 17 Điểm Hẹn Sau Cùng)
Rồi cuộc đời lại có thêm những khổ đau, có thêm những mất mát, nhất là những bạn bè đã khuất , đau yếu bởi gian khổ không ngờ của cuộc sống, của tù đày những câu thơ thương tiếc KHÓC BẠN:

Khương lên Đồi Sả Khương nằm
Bạn bè còn lại âm thầm khóc anh
Đời trai thôi hết tung hoành
Nấm xương giữa núi rừng xanh mịt mờ
(Khóc Bạn -Trang 107 Chập Chờn Cơn Mê)
Và thêm một nén hương tiễn biệt anh khóc và thương tiếc bạn thân Trần Quang Trí nghe áo nảo quá:
Anh về thiên cổ rồi sao?

Nào hay, anh chán cõi trần
Thong dong, lặng lẽ âm thầm ra đi
Tiếc thương thắp nén hương nầy
Tiễn anh về chốn Bồng Lai Vĩnh Hằng
(Nén Hương Tiễn Biệt-Trang 55 Điểm Hẹn Sau Cùng)
Trong nhiều bài thơ, những lời thơ của tác giả thường nhớ lại những quãng đời, những câu thơ không đẫm lệ mà thật xót xa, thấm vị chua cay của đời, của thế thái nhân tình, anh viết trong bài thơ Thư Thăm Bạn:
Ngày tháng qua nhanh, giờ hóa lão
Tang bồng trót gởi áng mây bay
Nhiều khi anh nhớ lại thời niên thiếu để rồi thầm tiếc cho đời trong hoàn cảnh tha hương khi vận nước đổi thay, luôn canh cánh trong lòng mà nhớ rằng mình có một quê hương đang bị gót độc tài dẫm nát, thật não nùng:
Nhiều khi nhớ lại thời niên thiếu
Thầm tiếc cho đời, lỡ chí trai.

Ai ngờ đất nước trùm tang tóc
Dẫm nát quê hương gót độc tài
Với tám năm tù đày khổ ải anh Dương Quân tâm sự:
Giờ ta đi đứng không còn vững
Bệnh hoạn theo nhau tiếp đọa đày
Mặc dù vậy, anh vẫn không quên tình bằng hữu, nghĩa bạn bè với thái độ thành thực:
Muốn đến thăm người, nhưng thật khó
Nhớ nhau viết vội lá thư nầy.
Đó là chuyện tất nhiên, là qui luật của tình cảm và trong suy nghĩ của anh, tuổi đời chồng chất, nhưng cuộc đời là vậy, thật đáng yêu, đáng quý, dù đi đâu, ở đâu vẫn nhớ về quê hương về bạn bè, anh ngậm ngùi:
Thư bất tận ngôn!
Xin chúc bạn:
Ráng mà gầy dựng chút tương lai.
Nghĩ đến thân phận mình chấm dứt những ngày tháng vui tươi.Nó giằng níu anh trong một vùng suy tư để rồi ray rứt, bâng khuâng, nuối tiếc những tháng ngày đã qua, anh cảm nhận được điều đó, thấu hiểu được điều đó, cả một trời tâm sự thật buồn :
Phần ta, còn quãng đời hiu hắt
Như khói hoàng hôn muộn cuối ngày.
(Thư Thăm Bạn-Trang 106 Điểm Hẹn Sau Cùng)
Ngày tháng qua nhanh, trong thế hệ của anh Dương Quân đi làm công chức, đi lính, đi tù, đi Mỹ, hầu hết đều có chung bởi hoàn cảnh khởi đi từ cuộc chiến tranh tương tàn thảm khốc, cho nên những lời thơ của anh là những lời tâm tình của người hiện đang sống xa quê hương, với cái mong manh, cái tuổi đang dần tàn héo, là những tiếng thở dài cảm thương, nuối tiếc khôn nguôi.
Tiếng thơ của anh đã đến với ta như những lời nhắn gởi gẩn gũi và ngậm ngùi, gợi lên trong người đọc những rung động sâu kín, cảm xúc từ lời thơ lắng đọng lại sâu trong lòng người, nhiều tâm sự riêng của mình cái hoàn cảnh luôn phải trăn trở mọi khó khăn. Có cái gì đó như chất chứa nghẹn ngào, lời thơ xúc tích, giản dị. Đôi khi tác giả cố vui mà vẫn như cuốn theo nổi đau khổ, nó như dấy lên từ tiềm thức tâm hồn, một sự độc đáo với phong cách lãng mạn của nhà thơ. Anh luôn tạo ra trong thơ anh một thế giới đầy hình thái những nghịch lý tột cùng của khát vọng về vẻ đẹp, về tình yêu, về cuộc sống con người. Với anh con người thường là vậy, vẫn chỉ yêu, chỉ quý, và cảm thấy hối tiếc hơn khi những cái quý giá ấy đã không còn.
Trong tất cả bốn tập thơ của anh Dương Quân như những bản nhạc giao hưởng lôi cuốn người đọc về những kỷ niệm, về quá khứ, và về với tình người, anh Dương Quân luôn nghĩ về quá khứ, yêu quá khứ và nhất là chung thủy với những kỷ niệm mà tác giả đã từng yêu người, yêu đời.
Thời gian vẫn trôi đi và bốn mùa luôn luân chuyển. Con người chỉ xuất hiện một lần trong đời và cũng chỉ một lần ra đi vào cõi vĩnh hằng. Nhưng những gì là thơ, là văn là nghệ thuật đích thực thì vẫn còn mãi mãi với thời gian.Thơ của anh Dương Quân sẽ mỗi ngày mỗi thêm rạng ngời như ánh trăng.

Hoàng Ánh Nguyệt

Hồ Trường An

Hồ Trường An HTA

Đập Đá Gặp Ngọc
Đải Cát Tìm Vàng

Hồi 7 tuổi, tôi được nghe người thím dâu tôi kể chuyện Giai Nhân và Ác Quỷ (tên nguyên gốc bằng tiếng Pháp là La Belle et La Bête) của Nữ Bá tước Jeanne de Leprince de Beaumont. Chuyện kể một hoàng tử bị một mụ phù thủy trù ếm trở thành con ác quỷ (quái vật đúng hơn với mình người mặt thú). Bà ta dặn chàng rằng sau này nếu có cô gái nào yêu chàng với tấm lòng chân thành thì chàng sẽ xinh đẹp trở lại. Quả vậy về sau, có một cô gái đẹp người lẫn đẹp nết, sau một thời gian sống chung với chàng, tìm ở chàng một tâm hồn cao thượng nên yêu chàng tha thiết và bằng lòng kết hôn với chàng. Tức thì chàng hiện nguyên hình trở lại một hoàng tử xinh đẹp như các vị nam thần trên Thiên đình tận ngọn cao sơn Olympia.
Cốt truyện được thi sĩ kiêm điện ảnh gia Jean Cocteau thực hiện thành phim La Belle et la Bête đưa hai diễn viên điện ảnh Pháp là Jean Marais và Josette Day lên tuyệt đỉnh vinh quang.
Sau này, khi chung sống với người bạn lòng, tôi được đương sự giải thích cái ẩn dụ trong cốt truyện: Rằng khi ta yêu người nào thì đương sự dù xấu cũng hóa ra đẹp. Đó là một khía cạnh tâm lý của con người.
Rồi tới tuổi 13 tuổi, tôi tình cờ đọc truyện ngắn La Légende de l’Homme à la Cervelle d’Or (Truyền Kỳ Về Người Có Chiếc Sọ Vàng). Đây là một truyện ngắn trong quyển tập truyện Lettres de Mon Moulin (Những Lá Thư Viết Từ Nhà Cối Máy Xay Lúa) của văn hào Alphonse Daudet. Đây là sự tích một người có chiếc sọ vàng. Vàng trong sọ tạo một kho tàng phong phú cho y ta. Y ta bới vàng ra để ăn tiêu phung phí cho tới ngày vàng gần cạn. Anh ta gặp một cô gái mũm mĩm dễ thương, nhưng lòng dạ cạn cợt, thích tiêu xài theo hứng bốc đồng. Rồi cô ta chết đi. Anh ta lấy một số vàng còn lại trong sọ để làm lễ ma chay cho vợ thật linh đình. Sau đó, vào một buổi tối, khi phố xá lên đèn, anh ta đứng trước tủ kính một hiệu tiệm, chợt thấy đôi giày bằng xa-tanh xanh viền lông thiên nga rất đẹp. Vì quên rằng vợ mình đã chết, anh vào tiệm mua giày về tặng vợ. Người nữ thương gia đứng phía sau tiệm chợt nghe tiếng la, chạy ra thì thấy y ta tay cầm đôi giày, tay cầm nhúm vàng vấy máu, đứng nhìn bà ta với vẻ mặt đau đớn.
Trong một cuộc phỏng vấn các nhà văn nhà báo do tạp san Bách Khoa tổ chức (tôi quên mất vào năm nào, hình như năm 1979 thì phải), nhạc học giả Trần văn Khê cho biết mình thích truyện ngắn La Légende de l’Homme à la Cervelle d’Or nhất. Theo ông, người có sọ vàng là nhà nghệ sĩ. Chất vàng trong xương tủy óc não của đương sự là cảm hứng của nghệ thuật để y ta dâng hiến cho cuộc đời và tạo cái đẹp cho nghệ thuật.
Đây cũng là truyện quái dị mà các học sinh ban Thành Chung trong đó có tôi mê nhất. Nhưng có lẽ bọn nhóc chúng tôi chẳng có đứa nào biết cái ẩn dụ trong truyện mà chỉ thích thú những tình tiết quái dị và éo le của tác phẩm mà thôi.
Vào năm 1951, tôi chưa học hết ban Thành Chung, thì trên các nhật báo ở Sài Gòn loang tin cuốn phim của Nhật Bản tựa là Rhashomon (Lã Sinh Môn) của diện ảnh gia Akira Kurosawa đoạt giải thưởng Lion d’Or trong Đại Hội Điện Ảnh tại Venise. Đây là cốt truyện dựa theo truyện ngắn cùng tựa của văn hào Nhật Bản Ryunosuke Akutagawa (1892 – 1927) . Đây là vinh dự chung cho nghệ sĩ các nước Á Châu, sau cái vinh dự của thi hào Ấn Độ Rabinranath Tagore đoạt giải Nobel văn chương qua cả nghìn bài thơ trong đó có thi tập Les Offrandes Lyriques (Hiến Lễ Thi Cảm).
Chính nhờ phim Lã Sinh Môn, điện ảnh Nhật Bản được giới khán giả Tây Phuơng chú ý và đôi tài tử hàng đầu là Toshiro Mifune và Kyo Machiko trở thành diễn viên tên tuổi quốc tế. Cốt truyện như sau: Chàng võ sĩ dắt vợ xuyên qua cánh rừng và bị ám sát. Nhà chức trách điều tra thì biết được người vợ bị tướng cướp cưỡng hiếp. Nhưng cái chết của chàng võ sĩ thì mờ ám. Người vợ khai răng vì thấy vợ bị cưỡng hiếp mà mình bất lực không bảo vệ đuợc nàng nên chàng võ sĩ tự tử. Còn tướng cướp thì khai rằng sau khi nàng bị cưỡng hiếp trở nên khinh chồng nên nàng bảo hắn giết chồng nàng. Những nhân chứng khác trong ngôi cổ miếu, mỗi người khai khác nhau, dù mỗi lời khai của từng người (luôn cả lời khai của người vợ, của tướng cướp, của linh hồn người chồng về nhập xác con đồng), tất cả đều có nhiều điểm chung, ngoài những điểm dị biệt then chốt.
Vậy đâu là sự thật? Vậy cốt truyện phim muốn nói điều gì? Muốn thắp sáng cái ẩn dụ gì? Có phải người trần mắt thịt chúng ta với nhục nhãn bị giới hạn nên khi đứng tại một vị trí nhỏ hẹp trong không gian, chỉ thấy một phần nhỏ, một khía cạnh của sự thực. Chỉ có Phật là đấng Chánh Đẳng Chánh giác với Phật nhãn mầu nhiệm mới thấy được toàn vẹn sự thực trong vũ trụ, từ cái vĩ đại vô biên, đến cái cực vi, thấy thông suốt luôn từ trong ra ngoài, thấy đủ mọi góc cạnh phơi bày một lượt. Trong vũ trụ này, con người giống như những người mù xem con voi. Người sờ được vòi voi cho rằng voi giống như con đĩa khổng lồ. Nguời sờ được tai voi đổ hô là voi giống như cái quạt. Người sờ được một chân voi nói rằng voi giống như cây cột. Người sờ được đuôi voi quả quyết voi giống cái phất trần. Nhưng thật ra, con voi gồm cà đầu, thân thể, chân, vòi, tai đuôi. Thấy được tất cả những cái đó cùng một lúc thì mới là thấy con voi đích thực.
Cuốn phim Rashomon gợi ý cho điện ảnh gia George Cukor thực hiện phim The Girls với Gene Kelly , Mitzi Gaynor, Kay Kendall, Taina Egg (1957), giúp cho điện ảnh gia Martin Ritt thực hiện phim L’Outrage với Paul Newman, Laurence Harvey và Claire Bloom (1965).
Vào năm 1982, tôi rời bỏ Paris, đinh cư luôn ở Troyes, sống chung dưới một mái nhà với người bạn lòng. Trên giá sách của đương sự có bày quyển A Picture of Dorian Gray (Le Portrait de Dorian Gray/ Bức Chân Dung Của Chàng Dorian Gray) mà tác giả là Oscar Wilde, do Edmond Jaloux và Félix Frapereau dịch từ nguyên bản tiếng Anh (năm 1954). Oscar Wilde! Một tên tuổi lớn trong văn học sử nước Anh vào thập niên 90 của Thế Kỷ 20, tức là vào thời Đệ nhị Đế Quốc bên Pháp. Chính quyển A Picture Of Dorian Gray cùng vở kịch Lady Windermere’s Fan (L’Évetail de Lady Windermere/ Chiếc Quạt của Phu Nhân Widermere) và vở kịch Salomé (dành cho nữ hoàng kịch nghệ Pháp là Sarah Bernarhdt chủ diễn) đã đưa ông lên tuyệt đỉnh vinh quang của văn giới khắp hoàn vũ.
Cốt truyện như sau: Tại xưởng vẽ của họa sĩ Basil Hallward, Huân tước Henry ngắm bức chân dung do họa sĩ vừa hoàn thành. Đây là một bức tranh toàn bích. Huân tước gặp luôn ngưòi mẫu của bức chân dung kia. Đó là chàng quý tộc đẹp trai tên Dorian Gray, một kẻ nhạy cảm, có nghệ sĩ tính, thích sự hoàn hảo, rất ngưỡng mộ nhân sinh quan của Huân tước Henry. Tình nương của Dorian Gray là Sybil Vane là một nữ kịch sĩ lừng danh. Nhưng hôm nọ, vì chỉ nghĩ tói người tình lang tuấn mỹ của mình trong lúc đóng tuồng nên nàng diễn xuất dụng về. Dorian Gray trách móc nàng và đoạn tuyệt với nàng. Sybyl Vane đau khổ và tuyệt vọng nên tự tử. Lạ lùng thay, những lát sơn trên bức chân dung của chàng co rúm lại, biến khuôn mặt trong tranh của chàng xấu xí gớm ghiếc! Dorian Gray đau đớn hạ sát họa sĩ Basil Hallward. Những lát sơn trên bức tranh càng co rúm thêm. Gương mặt trong tranh đã xấu xí lại càng dữ tợn hơn, như khuôn mặt yêu tinh.
Thời gian trôi qua. Dù tuổi tác đã cao, nhưng Dorian Gray vẫn giữ vẻ tươi trẻ. Hình ảnh chàng trong tranh mang hết những dấu vết già nua thay thế cho chàng.
Nhưng rồi khi cảnh sát tìm ra thủ phạm hạ sát họa sĩ Basil Hallward là Dorian Gray. Họ bao vây nhà chàng. Chàng tự tử. Khuôn mặt chàng bỗng đổi ra xấu xí già nua trong khi đó, khuôn mặt chàng trong tranh lấy lại cái mỹ mao trẻ trung như khi bức tranh vừa mới hoàn thành xong.
Vậy thì bức chân dung của chàng Dorian Gray tượng trưng cho cái gì? Tác phẩm A Picture of Dorian Gray có cái ẩn dụ gì? Xin thưa: Chân dung trong bức tranh là hình ảnh, là cái bóng phản chiếu của nhân vật Dorian Gray. Còn cái nhân diện và vóc dáng xinh đẹp trẻ trung ở trong cuọc sống của chàng dưới cặp mắt thế nhân là một con người khả ái. Nhưng cái nhân diện và vóc dáng ấy có phải là con người đích thực của chàng đâu. Nó chủ động, gây ra ác nhân ác nghiệp; tâm hồn phong ba và ngạo mạn của chàng đưa đẩy cháng nhúng tay vào những tội ác mà không ai biết. Cho nên chính cái hình ảnh trong tranh mới phản ảnh nguyên vẹn con người thật của chàng. Chàng nhìn nó như con yêu tinh nhìn hình ảnh của mình trên cái kính chiếu yêu. Cho nên chàng đau khổ, kinh hãi, ghê tỡm. Khi chàng tự sát, chàng đi vào cõi hư vô vĩnh cữu, bức chân dung kia không còn ai hung ác để phản ảnh nữa nên nó trở về trạng thái ban đầu: những lát sơn lấy lại vị trí cũ, lấy lại luon màu sắc nguyên sơ. Cho nên con ngưòi trong tranh trở lại vẻ tươi trẻ và tuấn mỹ thuở trước. Lúc ấy cái tử thi của chàng phải nhận lãnh tất cả dấu vết của tâm hồn tàn ác kiêu mạn, dấu vết của ác nghiệp ác quả.
Tóm lại, ở nhận vật Dorian Gray, cái nhân diện và vóc dáng là cái bề ngoài che đậy môt tâm hồn tội lỗi. Chính bức chân dung kia mới hiển lộ và phản ảnh trọn vẹn con người đích thật của chàng. Chúng ta tìm cái ẩn dụ trong tác phẩm không khó bằng tác giả đã sáng tạo cái ẩn dụ thâm thúy phi thưòng. Ẩn dụ ấy như tiếng còi báo động, như hồi chuông báo tử bắt chúng ta nhìn sâu vào cái đáy thẳm của hiện hữu, nhìn các tụy đạo và cái vực sâu của nội giới con người.
Văn chương của chúng ta, nhất là truyện ngắn, truyện dài hầu như không có ẩn dụ. Những gì hiện trên mặt chữ thì vẫn là chữ đâu nghĩa đó, không khơi dậy cho độc giả một ý tình nào khác tiềm ẩn dưới mặt chữ. Tuy nhiên, về thi ca, những nhà thơ ái quốc chống Thực Dân thường dùng đồ vật như trong bài Cây Bắp (của cụ Thủ Khoa Nguyễn Hữu Huân) Hột Lúa (của Phan Văn Trị) để nói lên cái tấm lòng yêu nước yêu dân của mình.
Cây Bắp
Luống chịu ba trăng trấn cõi bờ
Hiềm vì thương chút chúng dân thơ
Nương oai thích lịch ôm con đỏ
Vưng lịnh nam phong phất ngọn cờ
Miễn đặng an nhà thêm lợi nước
Chi nài dãi gió lại dầm mưa
Biển hồ dầu lặng, tăm kình bặt
Giải giáp một phen chúng thảy nhờ.

Hột Lúa
Giã từ thành thị dạo xa chơi
Thiên hạ ai mà chẳng biết tôi
Cổi giáp vàng kia phơi chốn chốn
Bày da ngọc nọ rạng nơi nơi
Ông cha giúp nước từ bao thuở
Dòng giống nuôi dân biết mấy đời
Vì vậy liều mình cơn nước lửa
Người đà có thấu hỡi người ôi!

Đây là 2 bài thơ có ẩn dụ. Vậy ẩn dụ (parabole/ métaphore) là gì? Là những vận sự không được tác giả nói ngay nhu theo một đường thẳng, mà chỉ nói cong queo lòng vòng bằng cách mượn vận sự khác. Parabole theo nghĩa toán hình học là đường cong. Phép ẩn dụ chẳng những ngoài sự hiện diện tình ý xoàng xĩnh trên mặt chữ (nghĩa đen) của một tác phẩm văn chương mà còn có những ý nghĩa cao siêu hơn (méta theo nghĩa tiếng Hy lạp là ở trên, là siêu, là vượt bậc) ở nghĩa bóng. Nếu cụ Thủ Khoa Huân và cụ Cử nhân Phan văn Trị chỉ tả cây bắp và hột lúa suông trơn qua dáng dấp biểu kiến (aspect apparent) của chúng thì họ chỉ làm hai bài ngâm vịnh lục tục thường tài. Cụ Thủ Khoa Huân đưa vào thơ tấm lòng ưu thời mẫn thế đối với giang san tổ quốc thì bài thơ mới ngậm ngùi, mới có chiều sâu. Còn cụ Phan nếu không tạo nên thân thế và hình ảnh người chiến sĩ can trường cứu nước giúp dân thì bài thơ này làm sao lộng lẫy nét hào hùng và sôi bừng bừng khí phách?
Nhưng mà này, tại sao chúng ta không nghĩ rằng cụ Thủ Khoa Huân vịnh cây bắp để nói lên hoài cái bão của mình. Tại sao chúng ta không nghĩ rằng cụ Cử Nhân Phan văn Trị mượn hột lúa để nói lên cái chí khí của mình? Điều này trước đó có vua Lê Thái Tôn đã từng mượn người bù nhìn, thằng mõ, người ăn mày, cây chổi đề nói lên công trị nước chăn dân cùng cái khí tượng đế vương của mình.
Người Bồ Nhìn
Quyền trọng ra uy trấn cõi bờ
Vốn lòng vì nước há vì dưa
Xét soi trưóc mặt đôi vừng ngọc
Vùng vẫy trên tay một lá cờ
Dẹp giống chim muông xa phải lánh
Dể quân cày cuốc gọi không thưa
Mặc ai nhảy nhót đường danh lợi
Ơn nước đầm đìa hạt móc mưa.

Lại có một ẩn dụ trong bài phú Ngọc Tỉnh Liên (Hoa Sen Trong Giếng Ngọc) của Thừa Tướng Mạc Đỉnh Chi. Số là khi ông đậu trạng nguyên được vào triều đình yết kiến vua. Vua chê ông nhỏ choắt và xấu xí, muốn sa thảy ông. Cho nên ông làm bài này để tự biện bạch. Bài này nói lên cái khí phách của ông, ông tự ví mình là hoa sen trong giếng ngọc, hoa đã thanh cao (hoa sen tượng trưng cho bậc quân tử), chốn sinh trưởng lại càng tôn quý (giếng ngọc). Vua nhận thấy bài phú này tuyệt tác nên lưu dụng ông. Xin trích một đoạn bài phúNgọc Tình Liên trong Tập 3 của quyển Văn Đàn Bảo Giám do Trần Trung Viện biên soạn (trang 195):
Dĩ nhi ca viết:
Giá thủy tinh hề vi cung
Tạc lưu ly vi hộ
Toái pha lê vi nê
Hương phức ức hề trùng tiêu
Đế văn phong hề nữ mộ
Quế tử lãnh hề vô hương
Tố nga phẫn hề nữ đố
Thái dao thảo hề Phương châu
Vọng mỹ nhân hề Tương phố
Kiển hà vi hề trung lưu
Hạp tương phản hề cố vũ
Khởi hộ lạc hề vô dung
Thân thuyền quyên hề đa ngộ
Cẩu dư bính chi bất a
Quả hà thương hồ phong vũ
Khủng phương hồng hề dao lạc
Hoài mỹ nhân hề tuế mộ.

Dịch:

Ca rằng:
Thủy tinh làm mái cung đình
Lưu li tạc để nên hình cung môn
Pha lê nát nhỏ làm bùn
Minh châu làm móc trên cành tưới cây
Hương thơm bay thấu từng mây
Bích thiên âu cũng mê say tấc lòng
Quế thanh khóc vụng tủi thầm
Tố nga luống những mười phần giận thân
Cỏ Dao hái chốn Phương tân
Bến Tương trông ngóng mỹ nhân dãi dầu
Giữa dòng lơ lửng vì đâu
Non sông đất cũ cớ sao chẳng về?
Đành nơi lưu lạc quản gì
Thuyền quyên lỡ bước lắm bề gian truân
Một lòng trung chính nghĩa nhân
Lạ chi mưa gió phong trần tuyết sương!
Chỉn e lạt phấn phai hương
Tháng ngày thấm thoát mỹ nhân ai hoài.
(Khuyết Danh)
***
Sau đó, vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa có Tô Thùy Yên trong nhóm Sáng Tạo đã sáng tác một bài thơ ẩn dụ nhan đề là Cánh Đồng Con Ngựa Chuyến Tàu. Yên không phải là nhà thơ tư tưởng. Còn Phạm Thiên Thư, dù là tu sĩ Phật giáo, nhưng ông vẫn loạng choạng và quờ quạng đối với cái tinh thần Bát-nhã tức là cái nền mống căn bản của tinh thần Phật giáo. Đối với Phạm Duy, triết học và tư tưởng tâm linh vẫn còn là một vấn đề mù mịt đối với ông, khi ông nhạc sĩ nầy đặt lời cho các bản nhạc của ông. Bên văn xuôi, Võ Phiến, qua các bài tùy bút của ông, ông chỉ nghĩ đến những cái bí ẩn trong cuộc sống ở phương diện hiện tượng mà thôi. Do đó,Võ Phiến đào sâu tác phẩm của mình bằng nhân sinh quan. Ông chưa nghĩ tới cái tối hậu, cái chân lý của hiện hữu, cái bản thể của cuộc sống. Còn Phạm Duy và Tô Thùy Yên chỉ có thể tô điểm lời hát hoặc các câu thơ của mình bằng nhân sinh quan thấp thoáng bóng dáng triết học qua các ngôn ngữ thần bí (langage mystique). Thật ra, cả hai trang sức cho lối thơ câu hát của mình bằng những ý tình khoác áo minh triết và thánh triết, chứ không đưa thơ đưa lời hát của họ vào tinh thần minh triết và thánh triết được. Chúng ta vẫn thừa biết nhân sinh quan, ý tình chỉ nhắm vào hiện tượng của sự vật. Trong khi đó, tư tưởng triết học và tư tưởng tâm linh (tức là minh triết) thì nhắm vào bản thể sự vật. Riêng Phạm Thiên Thư thì trang điểm cho các câu thơ của mình bằng ngôn từ trong kinh kệ rất kệch cỡm. Cả bốn Võ Phiến, Phạm Duy, Tô Thùy Yên, Phạm Thiên Thư, chưa chịu vào trong sân chứ nói gì vào tận trong ngôi nhà của bản thể. Nhưng dù sao đi nữa, họ vẫn làm cho thần trí sáng tạo của mình bùng vỡ biết bao ánh sáng đẹp huy hoàng. Dù sao họ cũng vẫn đều là nghệ sĩ lớn. Thơ Tô Thùy Yên, thơ Phạm Thiên Thư, lời hát của Phạm Duy không thể đi vào cốt tủy đạo Phật hay đạo Lão như Võ Chân Cửu, Nguyễn Tôn Nhan thuở trước, như Thân thị Ngọc Quế, Như Chi, Đặng thị Quế Phương, Nhất Hạnh và Vĩnh Hảo sau này. Cững thế, văn của Võ Phiến chưa xông xáo vào tư tưởng triết học, tâm linh như Nghiêm Xuân Hồng thuở truớc và Vĩnh Hảo sau này. Chúng ta chớ đòi hỏi nhiều hơn nữa ở họ. Họ làm văn chương bằng kiến thức chứ không làm văn chương bằng sự minh triết như Dostoievski, Georges Bernanos, Herman Hesse (bên văn), như các thiền sư Đông Nam Á qua những bài kệ, như thơ của các đạo sư giáo phái Soufisme trong đó có nhà thơ Rumi… Soufisme là một giáo phái của Hồi giáo đặt trên tinh thần bất nhị (le non-deux/ le non-dualisme) như tinh thần của Phật giáo và Lão giáo.
Chúng ta thử đọc bài Cánh Đồng Con Ngựa Chuyến Tàu của Tô ThùyYên để tìm thử cái ẩn dụ trong bài thơ này:
Trên cánh đồng hoang thuần một màu
Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu
Tàu chay mau tàu chạy rất mau
Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu
Cỏ cây cỏ cây lùi dài chóng mặt
Gò nổng cao rồi thung lũng sâu
Ngựa thở hào hển thở hào hển
Tàu chạy mau vẫn mau vẫn mau
Mặt trời mọc xong mặt trời lặn
Ngựa gục đầu gục đầu gục đầu
Cánh đồng a! cánh đồng sắp hết
Tàu chạy mau càng mau càng mau
Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ
Chấm giữa nền nhung một vết nâu

Ngoài cách dùng các điệp ngữ để gây âm điệu xôn xao, dồn dập, hối hả, bài thơ gây cho chúng ta cái cảm tưởng sự đuổi rượt (hay là sự so tài đo sức) khốc liệt giữa một động vật (con ngựa) và một động cơ (con tàu). Sức của một động vật làm sao lao nhanh bằng một vận tốc kinh khiếp của một động cơ? Cho nên con ngựa phải ngã quỵ, ngất xỉu hay có thể tắt thở khi chưa đến cuối cánh đồng, còn con tàu vẫn tiếp tục cuộc hành trình cho đến đích tức là cuối mức cánh đồng. Con ngựa mệt mỏi và ngã quỵ ẩn dụ cho thời đại làm công việc bằng tay chân, bằng sinh lực của con người hay của gia súc đã chấm dứt. Kỷ nguyên máy móc đã có mặt và sẽ giúp nhân loại đi xa hơn trên tiến trinh sinh hoạt ( được ẩn dụ bằng cuối mức cánh đồng).
Tôi tình cờ gặp bài Ngụ Ngôn Trong quyển Tuyển Tập Thơ cũng củaTô Thùy Yên. Tôi hơi bỡ ngỡ cái tựa của nó:
Một lão mù hành khất
Bị đánh cắp cây đàn
Mửa máu chết uất ức

Một con dế anh chị
Khoác đôi cánh sét rỉ
Tiếng gáy mài không ra

Một con đóm khoe mình
Xài phá hết lân tinh
Ban đêm không dám lượn

Một đứa bé mồ côi
Đi tìm hoài cha mẹ
Đâu biết là những ai?

Theo tôi, ngụ ngôn là bài thơ ẩn dụ, mượn chuyện tầm thường, chuyện khôi hài để móc xỏ, ngạo báng, đả kích thói hư tật xấu của ngưòi đời. Nhà thơ Jean de La Fontaine viết ra những bài ngụ ngôn, mượn những con vật dữ dằn và thâm độc, những con vât hợm hỉnh kiêu căng để công kích những bọn nịnh thần (les courtisans) gây nhiều tệ đoan dưới triều đại vua Louis XIV. Bài ngụ ngôn có tính cách răn đời, dạy cho thế nhân những bài học luân lý. Bài Ngụ Ngôn của Tô Thùy Yên theo tôi là một bài thơ ẩn dụ ở 2 đoạn giữa. Con dế uy dũng kia mất tiếng làm chúng ta liên tưởng viên chỉ huy mất giọng thì khó điều khiển ba quân thuộc hạ của y. Chúng ta cũng có thể nghĩ tới một ca sĩ có giọng hát đầy sinh lực, nhưng giọng ấy trở nên rè rè thì cái thời vinh quang của y cũng phải chấm dứt. Con đom đóm xài hết lân tinh làm chúng ta nghĩ đến cảnh ngộ một mỹ nhân trụy lạc nên với nhan sắc tàn phai, nàng không dám chường mặt chốn dạ hội, nơi mà các vương tôn công tử say mê nàng. Cái nghĩa thâm thúy của bài thơ rất ai hoài tha thiết, chẳng có chút nhạo báng nào thì đây không phải là bài ngụ ngôn. Nó có một nồng độ truyền cảm rất đậm đà hơn, làm bàng hoàng người đọc rất lâu hơn.
Dù sao, bài thơ ẩn dụ hay bài thơ ngụ ngôn đều có cái nghĩa thứ hai hay nghĩa thứ ba ẩn dưới mặt chữ hay ở sau lưng mặt chữ, từ cái vận sự tầm thưòng, cả hai phóng đại ra một hoặc nhiều vận sự mênh mông hơn, phóng chiếu vào cõi thưởng ngoạn chúng ta những hình ảnh và ý tình đập mạnh vào ấn tượng chúng ta. Khác nhau chăng là bài thơ ẩn dụ thường có hình thức của bài bi ca (poème saturnien). Khác nhau chăng là bài thơ ẩn dụ không cần dạy đời hay răn người, Khác nhau chăng là bài ngụ ngôn mang lấy hình thức bài thơ phóng cuồng, ngạo mạn, móc xỏ, đả kích (poème satirique).
Tôi còn nhớ vào 3 năm cuối của thập niên 40, thuở tôi học lớp 3 (cours élémentaire) và lớp nhì (cours moyen), Bộ Quốc Gia Giáo Dục Nam Kỳ gồm một nhóm giáo viên có uy tín chung soạn quyển Trăm Bài Tập Đọc dành cho hai lớp này. Trong quyển ấy có bài Ếch Mới phỏng theo bài thơ ngụ ngôn của Nam Hương đã đăng trên báo Cậu Ấm (thời tiền chiến). Cốt truyện như sau: Chị ếch nọ có tật ưa làm đỏm. Chị dùng chiếc nấm hương làm dù, lá tía tô là khăn choàng đầu, hai trái ớt khoét thành đôi giày đỏ. Chị diện dù, khăn, giày do chị chế tạo rồi đỏng đảnh đi dạo đó đây để khoe bộ đồ vía mới. Bất ngờ một anh nông phu trờ tới. Vì vưóng đôi giày đỏ, chị ếch chạy không kịp nên bị anh ta bắt đem về nhà. Anh chặt đầu lột da chị, thái nám, lá tía tô và ớt đã có sẵn rải vào món xào cho thêm thơm ngon. Cuối bài, nhóm biên soạn đề câu răn đời như sau: Se sua thua gọn ghẻ.
Trước ngày 30/04/75, văn chương Miền NamViệt Nam của chúng ta có một truyện ngắn Tan Trong Suơng Mù của Nguyễn Thị Hoàng. Xin đọc bài bút khảo Nguyễn Thị Hoàng & Nguyễn Thị Thụy Vũ trong tạp chí Gió Văn số 3. Thiết tưởng cũng cần nhắc lại phớt qua.
Vợ ông họa sĩ Mishio chết. Nhưng tấm lòng tưởng nhớ của ông đối với vợ không nguôi. Cho nên bà cứ quanh quẩn theo ông như một người sống. Suốt 30 năm lúc nào bà cũng có mặt bên ông. Ông bỏ phế hội họa. Bức chân dung vẽ bà lúc sinh thời bỏ dở dang (chưa kịp vẽ đôi mắt của bà thì bà từ trần).
Rồi trong một đại hội văn nghệ nọ, một nàng nữ sĩ Việt Nam đẹp lộng lẫy gặp ông bà Mishio. Giữa nhà danh hoa và một người đẹp làm văn chương nẩy sinh một niềm tương đắc bất ngờ. Nàng không biết bà vợ ông đã chết từ lâu nên xin phép ông bà cho nàng được đến viếng nhà họ. Ông đâm ra tơ tưởng nàng. Bà vợ vì là hồn ma nên đọc rõ những biến chuyển tâm hồn của chồng. Cho nên khi nàng nữ sĩ tới thăm, bà cho nàng biết bà sẽ đi xa. Còn ông như bừng sống, bắt đầu vẽ trở lại. Nữ sĩ do tình cờ còn nghe hai vợ chồng cãi lẫy với nhau. Bà quả quyết ông đã yêu nàng thì bà không còn lý do gì để ở với ông nữa. Ông thì chối bay cối biến. Rồi bên đầm nước trong lúc cả hai dạo vườn, ông Mishio cho nữ sĩ biết rằng vợ ông đã chết từ lâu. Ông bấy lâu nay phí cả một cuộc đời để làm bạn với hồn ma của vợ, bây giơ dù có vẽ trở lại cũng không còn cảm hứng như thuở hai vợ chồng sống trong cảnh nghèo nàn thiếu thốn mà vẫn yêu nhau mặn nồng.
Khi nữ sĩ ra sân chùa thì thấy bà vợ đi về cuối góc sân, thân hình bà tan rã trong sương mù.
Như vậy, ẩn dụ của truyện ngắn này là: dù bà vợ có chết đi, nhưng nhà danh họa Mishio vẫn yêu thương tưởng nhớ vợ luôn luôn. Như thế bà dù không sống trong cõi dương trần, nhưng vẫn sống trong tâm tưởng, trong hoài vọng của ông. Giờ thì trong trái tim ông có một hình bóng khác. Bây giờ mới đích thực là tới giai đoạn bà chết vĩnh viễn, chết ở ngoài đời từ lâu lẫn chết trong nội giới của chồng từ khi có sự xuất hiện của nữ sĩ. Vận sự này làm tôi nhớ lời ai oán được ghi khắc trên tấm mộ bia trong nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi (Sài Gòn) thuở nào: C’est l’oubli des vivants qui fait mourir les morts (Chính sự lãng quên của người sống mới giết chết những người đã chết).
Còn về thơ có ẩn dụ thường là nhữngbài phảng phất Thiền Phong Thiền vị. Chẳng hạn đoạn mở đầu của bài thơ Về Thăm Ao Nhà của nữ sĩ Thân thi Ngọc Quế. Bài thơ này trong thi tập đầu tay Giọt Nước Cành Sen của chi:
Đêm xuống ta về ao cá biếc
Để xem cá chớp ánh trăng non
Ánh trăng còn vỡ làm bao mảnh
Vẫn thấy lòng ta bóng nguyệt tròn

Trên mặt chữ, nếu chúng ta nghĩ rằng đây là một bài thơ viếng cảnh và nói lên tấm lòng tuơi sáng nguyên vẹn của tác giả (bóng nguyệt tròn) trước cảnh ngộ tan nát, chia lìa (ánh trăng còn vỡ làm bao mảnh) thì đúng quá rồi còn gì. Nhưng mà dưới mặt chữ, tác giả nêu ra vấn đề vĩ đại hơn. Đó là tinh thần Bát-nhã (tức là tinh thần bất nhị của Phật giáo). Cái ẩn dụ đó là hai cái hiện tượng đối đãi ở chung một bản thể. Cặp hiện tượng thứ nhất là những mãnh vở của ánh trăng trên sóng ao đối đãi với bóng trăng tròn đầy trong lòng tác tác giả. Cặp hiện tượng thứ hai là cái cảnh ao trong đêm trăng (ngoại cảnh đấy) đối đãi với tấm lòng của tác giả (nội giới đấy). Ngoại cảnh và nội giới có một bản thể chung chính là tác giả. Hình dáng vỡ nát thành nhiều mảnh và vóc dáng tròn đày vẫn thuộc về trăng, cái bản thể chung chính là trăng. Tinh thần Bát-nhã chính là đây. Huống hồ bài thơ còn có thêm cái tinh thần Bát-nhã thứ ba: Tất cả (những mảnh trăng vỡ) là một (bóng trăng).
Thơ Thiền thường mượn cảnh vật, vận sự để ẩn dụ cho tinh thần Bát-nhã, cái then chốt, cái căn bản của Phật pháp. Xin đơn cử bài Minh Nhật bằng chữ Hán của nữ sĩ Vi Khuê:
Tảo thần thính điểu minh man
đình đổ hoa ly tú bách hàng
nhàn hạ tiểu di đăng thượng lộ
Thanh sơn đối diện bối hoàng giang

Tác giả Vi Khuê dịch như sau:

Sớm mai nghe tiếng chim kêu
ra sân thấy giậu hoa thêu trăm hàng
thảnh thơi bước nhỏ lên đàng
Núi xanh trước mặt sông vàng sau lung

Ở đây tác giả Vi Khuê đâu phải là khách vãn cảnh suông trơn vào buổi bình minh. Khách vãn cảnh ở đây ẩn dụ một hành giả đang lên đường tìm về chứng ngộ. Đương sự đứng giửa hai cái đối đãi nhau là núi xanh và sông vàng. Núi ở thể rắn và ở truiớc mặt, còn sông ở thể lõng và ở sau lưng. Tóm lại, hành gia tu theo Trung đạo tức là tu theo Phật giáo.
Và chẳng hạn bài Cao của Trương Anh Thụy:
Dưới chân làng mạc nhỏ
Trên đầu mây chấm vai
Người tìm ta chẳng thấy
Thấy lóe đóm sao Mai

Trên đầu và dưới chân là hai cái đối đãi nhị biên (les deux bornes opposées). Hành giả đứng ở khoảng giữa. Tu như thế là theo Trung Đạo, đã đến thời điểm đốn ngộ (loé ánh sao mai). Tác giả không dùng chữ nào trong kinh Phật, không tả cảnh suông trơn. Đây là ẩn dụ một thiền giả tu theo Trung đạo (đạo Phật) đã thành công, đã chứng ngộ.
Trong thi tập Trốn Vài Giấc Mơ em của Nguyễn thị Thanh Bình, tôi thích bài Hoa Tâm nhất. Nó vừa là bài thơ ẩn dụ vừa là bài thơ Thiền:
Trên đỉnh non cao tìm mây trắng
Dưới khe chờ hoa nở đem tin
Hoa chưa kịp nở tàn mùa trước
Chốn ấy hoa lòng rộ bình minh

Hoa ở dưới khe là hoa ngoại giới, hoa lòng là hoa niội giới, cả hai cùng ở nơi nhận thức (thấy và cảm thấy) ở một người tức là tác giả. Ngoại giới và nội giới đối đãi nhau. Hoa dưới khe héo tàn (cái diệt) và hoa lòng nở rộ (cái sinh) là hai cái đối đãi nhau ở trong một mùa thu. Cốt tủy Thiền là đây! Nhưng ‘cái hoa lòng rộ bình minh’ có nhiều ẩn dụ tùy theo theo sự chiêu cảm, óc tưỏng tượng, cõi ấn tượng của từng độc giả. Nó là một tình yêu đang nở muôn tía nhìn hồng; nó cũng có thể là một niềm lạc quan tươi sáng dồi dào vừa bừng dậy. Và cũng có thể là một vấn đề tâm linh đang được bừng bừng thắp sáng, chẳng hạn như một cơn đốn ngộ nhiệm màu hay một sự mặc khải kỳ diệu.
Riêng Đặng thị Quế Phượng là người làm thơ quá đổi thơ. Cô tạo cho thơ cô một ẩn dụ huyền bí, tùy theo chiêu cảm riêng biệt và đặc thù của mình, độc giả muốn nghĩ sao thì nghĩ. Nhưng mà khi độc xong bài thơ Tîch Mịch của cô, chúng ta phải ớn lạnh, cảm thấy cái điều uyền bí ấy sao mà ảo diệu, sao mà mầu nhiệm làm chúng ta bàng hoàng lay động ở cái bí ẩn sau lưng hiện hũu nói chung, ở sau mặt chữ bài thơ của cô nói riêng:
Có một cái gì
đang chờ đợi ta
trong vẻ thinh lặng
của buổi chiều tà

Có một cái gì
trong bóng sương sa
vô cùng hiu hắt
như thể hồn ma

Có một cái gì
bao la chất ngất
dường như không phải
là trời hay đất

Có phải hay chăng
thiên thu phơ phất

Cái đang chờ đợi ta, nó ở trong bóng sương sa (tức là trong cõi vô minh mịt mờ), nó bao la chất ngất, không thuộc về trời và cũng không thuộc về đất. Nó như ảo như chân, phơ phất trong cõi cảm nhận, trong ấn tượng chúng ta từ thuở thiên thu trước và cho đến thiên thu sau vẫn còn hiện hữu qua trạng thái chập chờn phiêu diễu như hình bóng trong cơn chiêm bao. Vậy nó ẩn dụ cho cái gì? Xin thưa, tạm gọi là cái Chết có được không nào ?
Tô Thùy Yên chỉ thành công về nghệ thuật thuần túy của thơ mà không thể đưa thơ vào cái sâu thẳm nhất của bí nhiệm cuộc sống. Mai Thảo trội hơn Yên ở chỗ thành công ở nghệ thuật thuần túy của thơ mà còn đưa thơ vào cái vực sâu không đáy của hiện hữu. Xin đọc bài thơ Tiều Phiến trong thi tập Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền. Ở đây, lý luận của Võ Phiến rằng thơ cần lời mà không cần ý là một điều sai lầm đáng tiếc lẫn đáng trách
Đứng ở sát gần tiểu phiến
Đứng kế lam xanh tiểu phiến gần
Phiến đưa tắp tắp vào vô cực
Nơi lá xoay tròn một thớ gân.

Độc giả sẽ tự hỏi tiểu phiến là cái phiến nhỏ, nhưng ẩn dụ của nó là cái gì ? Hai câu thơ chót thật đẹp, thật huyền bí làm chúng ta rờn rợn Nhưng đó là cái gì, từ chỗ xoay tròn một thớ gân để đưa tắp tắp vào vô cực? Nó có thể là một chiếc lá. Nó có thể là cái âm hộ của phái đẹp (lá đa theo nghĩa bóng) đưa chúng ta nhìn vào cái bí nhiệm của mọi sinh vật qua giai đoạn thụ tinh và rồi kết thành bào thai khởi đầu sự sinh sản. Nó có thể là cái nọi giới bí hiểm của con người. Nó có thể từ một lổ nhỏ hẹp để một Thiền giả khi chứng ngộ đi vào cái vô biên vô cực trong vô lượng cảnh giới Hoa tạng Huyền môn. Cái chỗ xoay tròn một thớ gân của tiểu phiến có vô số ẩn dụ, tùy theo chiêu cảm của từngngười đọc mà hiện hữu.
Xin đọc bài Thớ Gân cũng của Mai Thảo:
Bàn tay thu lại mặt trời lặn
Cùng nó xòe cho nở mặt trời
Bóng tối lồng trong đường ánh sáng
Chỉ là mai tóc rẽ hai ngôi

Cũng chính ở bàn tay che cặp mắt, khi các ngón tay khép lại (bàn tay thu lại) thì nhà thơ không thấy mặt trời (coi như mặt trời lặn). Nhưng khi ngón tay rẽ ra (ciùng nó xòe ra) thì nhà thơ thấy mặt trời (nở mặt trời). Văy thì mặt trời là cái cố định, trưóc sao sau vậy, nó ẩn dụ cho cái Chân Tâm. Bởi tại cai vọng thức (được ẩn dụ cho bàn tay) nhà thơ khôn thấy Chân Tâm nếu vọng thức dầy đặc (được ẩn dụ qua bàn tay thu hẹp lại với các ngón khép kín). Và nhà thơ chỉ thấy được Chân Tâm khi nào vọng thức chia chẻ và phân tán đi (được ẩn dụ bằng bàn tay xoè ra). Như vậy mặt trời ẩn hay hiện đối với tác nhân (Mai Thảo) chỉ là do sự khép mở của bàn tay do thớ gân điêu khiển). Còn mặt trời vẫn không thay đổi. Nó cũng giống như trường hợp chỉ một mái tóc, nhưng mái tóc ấy chia thành ngôi bên trái và ngôi bên phải là tại ta rẻ đường ngôi. Nếu ta chỉ chải ngưọc tóc về phía sau, không rẽ đường ngôi thì mái tóc chỉ là một mảng đen huyền mà thôi.
Thớ gân điều khiển bàn tay khép hay xòe để cho tác nhân thấy mặt trời hay không ẩn dụ cho côn phu hành trì của Thiền giả tìm về chứng ngộ.
Xin đọc bài Lẻ Một cũng của Mai Thảo:
Sách một dẫy nằm trơ trên giá
Cạnh nguời thân thế cũng trơ vơ
Sách, người hai cõi cùng hư hoại
Nơi một nghìn chương thiếu một tờ

Người đọc sách (chủ thể) và sách (đối tượng), cả đều cô đơn chỉ về cảnh ngộ. Chúng chỉ làm cho thơ bâng khuâng ngậm ngùi, nhưng không có gì đặc sắc. Tuy nhiên, khi tác giả báo trước là cả hai cùng hư hoại tức là ông sắp đưa thơ vào một vấn đề viễn thâm hơn, một vấn nạn dựa trên tư tưởng hữu sinh hữu diệt, cái tinh thần then chốt của Phật giáo. Cái vấn nạn ấy, cái vô thường ở nghìn chương kinh sách để cho hành giả bơi ngược dòng hoạt diệt, để chứng ngộ cái thuờng hằng bất biến. Nhưng nghìn chương sách ấy lại thiếu một tờ. Cái tờ thiếu đó chính là cái bí nhiệm để giúp hành giả vào một thời điểm chín muồi gặp một đốn ngộ (chứng ngộ tức khắc trong vòng một sát-na/ l’imédiat santori) bừng tỏ cái Chân Tâm không sinh không diệt, tức là nhập vào Niết Bàn, tức là không còn sinh không còn tử (hoại diệt) nữa . Chính hành giả và mỗi người trong chúng ta phải tự tìm lấy cái tờ giấy thiếu sót ấy, tờ giấy của cá thể này không giống tờ giấy của cá thể kia vì căn cơ mỗi cá thể đều khác nhau.
Riêng trong lãnh vực thơ, cành mai của Mãn Giác Thiền Sư, bóng trăng của Thân thị Ngọc Quế, khách nhàn du giữa núi xanh trước mặt sông vàng sau lưng của Vi Khuê, đóm sao mai của Trương Anh Thụy, hoa lòng rộ bình minh của Nguyễn thị Thanh Bình, bóng thiên thu phơ phất của Đặng thị Quế Phượng là những ẩn dụ đưa độc giả nắm bắt nhưng vấn đề cao siêu. Đặc sắc nhất là tiểu phiến, thớ gân, đường ngôi rẻ tóc của Mai Thảo dễ gì để cho một nhà thơ lục tục thường tài tìm gặp đưa vào thơ, biến cõi thơ thêm mầu nhiệm, biến vóc dáng thơ thêm vĩ đại bao la. Những cái ẩn dụ ấy bị mọi kẻ khoác áo phê bình gia không tìm gặp nên chúng như những viên bảo ngọc ẩn mãi trong những tảng đá xù xì thô nhám. Còn ẩn dụ trong truyện ngắn Tan Trong Sương Mù của Nguyễn thị Hoàng bị họ lờ đi dù chị đã khơi sáng cho họ thấy trong tuyển tập Những Truyện Ngắn Hay Nhất Trên Quê Hương do nhà xuất bản Sóng thực hiện. Nếu chúng ta chú ý một chút thỉ sẽ thấy cái khơi sáng ở đoạn tác giả nêu cái ẩn ý của cốt truyện và nêu cái lý do tại sao chị chọn truyện ngắn này để đóng góp cho tác phẩm.
Chỉ riêng bàn qua ẩn dụ, chúng ta mới thấy văn chương hiện đại và cận đại của chúng ta hầu như không có phê bình gia nào. Tuy nhiên vẫn có những nhà biên khảo văn chương có tầm vóc nguy nga về tài năng. Phải kể Hoàng Ngọc Tuấn (bên Úc Châu), Trần Hữu Thục, Đào Trung Đạo, Đặng Phùng Quân (Hoa Kỳ), Thụy Khuê (Pháp). Những học giả này dù viết biên khảo phong phú và sâu sắc, đôi khi lỡ trớn trượt nhào qua lãnh vực phê bình họ cũng tỏ ra rất sâu sắc và hào hứng lắm.

Bình Nguyên Lộc
Tổng Quan Văn Chương
Vùng Đất Đồng Nai

Đất đai man rợ, rừng rú hoang vu càng làm cho những cây bút văn chương thẽm khởi hứng. Và từ đó, những tác phẩm viết về quê hương đất nước của họ bỗng sáng lên cảm hứng kỳ diệu bất ngờ, khả năng sáng tác của họ thêm sắc thái lộng lẫy tinh khôi. Vào thời Phục Hưng, dưới triều đại Đệ Nhị Đế Quốc của Hoàng đế Nã-phá-luân Đệ Tam, nữ sĩ George Sand là ngôi tinh đẩu rực rỡ trong văn giới qua các cuốn tiểu thuyết đồng quê như ”La Petite Fadette”, ”La Mare Au Diable”, ”François Le Champi”… Tuy nhiên quê hương Nohant thuộc vùng Perry của nữ sĩ chỉ là một vùng quê đầy huyền thoại thần bí và truyền kỳ ẩn mật mà không phải là vùng đất mới khai phá trước khi bà mở mắt chào đời. Nhưng vùng Cà Mau mà Sơn Nam đã có một thời gian cư ngụ, vùng Tân Uyên Đất Bái là nơi sinh quán của Bình Nguyên Lộc trái lại có nhiều hoang địa, chưa có gót chân dân khai phá đặt đến. Những nơi đó dĩ nhiên có nhiều cái huyền bí thật quyến rũ, nhiều nếp sống lọt xa tầm ánh sáng văn minh. Chúng đem lại biết bao vận sự kỳ thú cho hai nhà danh sĩ đất nước Nam Kỳ kia, để gây cho họ sự nghiệp văn chương đồ sộ nguy nga.
Văn chương của anh Sơn Nam lẫn của anh Bình Nguyên Lộc hào hứng tuyệt vời, vạm vỡ sức sống của tiền nhân trong cuộc khai hoang lập ấp và bừng bừng khí phách và anh linh của dân tộc thời xa xưa. Hai anh đẩy lui nữ sĩ Georce Sand vào lãnh vực nhỏ trong bóng trăng thơ mộng và ánh nắng trữ tình của tiểu thuyết tâm lý ái tình dùng đất quê làm bối cảnh. Còn hai nhà văn đồng bào đồng chủng của chúng ta trái lại biến ngòi bút mình thành lưỡi đao thiêng hay thanh kiếm thần để vạch cho độc giả đô thị một chân trời tráng lệ bao la trải dài tới miền Cực Nam của đất nước.
Văn chương biểu dương bản sắc thuần túy của Bình Nguyên Lộc là những truyện ngắn được đưa vào các tập truyện ”Nhốt Gió”, ”Ký Thác”, ”Mưa Thu Nhớ Tằm”, ”Cuống Rún Chưa Lìa”… Đó là những tác phẩm chắt lọc cái tinh hoa quý giá của thần trí sáng tạo của anh. Văn chương trong đó nồng nàn tình yêu quê cha đất mẹ. Đôi khi cái nồng nàn đó lên tới mức độ sôi nổi nên anh không làm chủ được ngòi bút của mình. Do đó văn chương ấy trở nên bộc tuệch, trống trải, cường điệu, bộc lộ cá tính Nam Kỳ. Cái bộc lộ ấy chưa chắc là cái khuyết điểm hay nhược điểm gì. Trái lại, nó làm cho sự diễn đạt tình ý của anh thêm minh bạch, thêm tươi rói và cực kỳ quyến rũ. Anh để mặc cho tâm sự mình phơi bày hở hang, trần truồng, không ngụy trang, không úp mở. Độc giả đa số không cần ở văn chương anh cái mánh khóe tiềm ẩn hay cái phong niêm tinh xảo để làm cho sự diễn tả được hàm súc và ý nhị. Họ chỉ cần tấm lòng tươi son bền sắt của anh đối với quê hương của anh. Có như thế, họ mới vùi dưới lớp tro tàn của thời gian cái tình cảm nồng cháy và đượm đà của họ như mẻ than ngún lửa hồng không bao giờ tắt đối với nơi chôn nhau cắt rún của họ. Tấm lòng anh cũng có thể tượng trưng qua những loại cổ thụ chẳng hạn như cây đa, cây gỏ, cây bồ đề, cây thùy dương, cây hoàng lan cắm rể sâu xuống mảnh đất để giao tiếp với lớp nước trong mát bất tuyệt để cành lá chúng mãi mãi tươi xanh dù gặp cơn nắng lũ đi nữa. Ơi là mảnh đất đã từng chứng kiến cái thời kỳ chúng chỉ là mầm cây nhỏ chưa bén đất!
Truyện ngắn viết về tình yêu đất trong sự nghiệp văn chương và trong cuộc bút trình của Bình Nguyên Lộc nổi bật lên, như trên nền trời hồng ánh bình minh in rõ nét rặng núi duyên dáng với sắc thúy màu lam êm dịu.

Đây là tâm sự người thiếu phụ lấy chồng Pháp về thăm quê hương vào dịp cận Tết trong truyện ngắn ”Chiêu Hồn Nước” trong tập truyện ”Cuống Rún Chưa lìa” do Văn Nghệ
(California, Hoa Kỳ) tái bản. Về Sài Gòn sau bao năm lìa quê theo chồng dị chủng, nàng chẳng còn người thân thuộc nào nên nàng mướn một căn phòng ở khách sạn để dọn bàn thờ và tranh ảnh đón xuân. Tuy nhiên, vào tối hăm chín tháng chạp, nàng gặp một nhà thơ để có dịp phơi bày nỗi niềm của mình:
… Năm đó em học ban Trung học Pháp Việt ở Sài Gòn. nhơn kỳ nghỉ hè, em về quê, một làng hẻo lánh kia, rồi bị một nhóm quân nhân Pháp hiếp.
Sợ gia đình em thưa kiện, chúng nó phao vu em rồi bắt em đi. Ra tỉnh bị giam một thời gian thì em được thả, nhưng có còn gì nữa đâu mà quay về. Vừa lúc ấy thì một sĩ quan Pháp phải lòng em và bao em.
Em bằng lòng theo nó, vì cũng chẳng thiết làm lại cuộc đời, và một năm sau, đạo quân viễn chinh rt lui, em theo y về bên ấy, và được y cưới luôn, rồi em xin vào Pháp tịch.
Hai năm đầu, em vui với được vài cảnh lạ, nhưng khi hay tin cha mẹ em qua đời, em bỗng chạnh nhớ quê nhà.
Ban đầu chỉ là nỗi nhớ nhung nhè nhẹ thôi. Nhưng càng ngày lòng sầu xứ càng sâu đậm, em không chịu nổi nữa nên vào cuối năm 1958 ấy, em có dư chút ít, xin thông hành với tư cách du khách về đây, cũng là cuối tháng chạp như năm nay.
Không thể nào mà anh tưởng tượng nổi sự thèm khát quê hương của một kẻ vĩnh viễn không hy vọng trở về như em. Thèm như là thèm món cá nướng chấm mắm nẹm, thèm hương bưởi, thèm tiếng chuông chùa ngân nga vào buổi hoàng hôn, thèm cảnh cấy mạ vào đầu mùa lúa. Thèm chết đi đuợc là vào lúc gần Tết, tức là khoảng đầu năm dương lịch. Nhớ Tết như nhớ nhà, nhớ nước, bởi vì Tết là sum họp gia đình.
(”Chiêu Hồn Nước”, trang 48)
Tình yêu quê hương của Bình Nguyên Lộc càng rõ rệt hơn, như vầng trăng rằm sáng nguy nga treo trên nền trời đêm màu thúy lam tối đậm. Xin đọc tâm sự một bà già nhà quê vì ly loạn nên phải ra sinh sống ở tỉnh thành, phải xài bếp dầu để nấu nướng. Đây là đoạn trích trong cuộc mạn đàm giữa bà cùng con gái, chang rể và con bé cháu ngoại của bà :
…rồi má tôi chậm rãi tuyên truyền cho tôi nghe:
— Nè, củi mỗi thứ mỗi khác đó nghe. Cùi bắp phơi khô để làm củi, thì ngọn lửa xanh như lửa đèn cồn. Vỏ măng cụt phơi khô, chụm nó nổ lách tách y như than Cà mau. Củi nhánh sao chết rụng trên vệ đường, nó cháy rồi tỏa ra cái mùi thời tiết gió bấc về. Còn mầy biết củi gì thơm ngát hay không? Đó là dăm tiện.
— Dâm tiện là gì má? Chồng tôi hỏi.
— Muốn làm những vật dụng tròn như kiểu chơn bàn, chơn ghế kia chẳng hạn, thợ tiện họ đưa cây vào máy tiện, cây nó mới tròn trịa đều đặn được, chớ thợ mộc tài nào mà trau giồi cho nó tròn. Các món tiện, luôn luôn là vật dụng quí mến nên được làm bằng thứ gỗ quí: trắc, cẩm lai, huỳnh đàn, cho nên dăm tiện nó thơm dữ lắm, thơm cái mùi hỗn hợp đủ loại gỗ mắc tiền. Loa củi đã thơm mà hình thù nó cũng hay lắm. Nó cháy lên, mình thấy được, chớ vô hình như loa đèn dầu. Nhìn ngọn loa cũng ngộ, nhìn màu loa còn ngộ hơn…
(”Loa Tết”, các trang 66, 67)
Về bút pháp, Bình Nguyên Lộc dùng phấn nội đồng bình đạm để làm món trang sức. Còn về ngôn ngữ, anh áp dụng ngôn ngữ vùng miền Nam Kỳ Lục Tỉnh tối đa. Thỉnh thoảng, anh đệm nhưng chữ uyên bác nhưng thông dụng vào ngôn ngữ mộc mạc căn bản dành cho khẩu khí và ngôn ngữ của thị dân, còn thứ ngôn ngữ thuần túy quê rít quê rang thì dành cho thôn dân. Trong khi đó, Lê Xuyên gán vào miệng cho các nhân vật đủ mọi lứa tuổi (nam phụ lão ấu), đủ mọi tánh nết (dữ, hiền, ôn nhu, kiêu mạn, lẳng lơ…), hoặc đủ thành phần trong xã hội (hạng lương gia, hạng dân tứ xứ, hạng trưởng giả, hạng đàng điếm) cái ngôn ngữ tràn đìa ngữ pháp, thổ âm, tiếng lóng đặc biệt Nam Kỳ. Cả hai trái hẳn cách sáng tạo ngôn ngữ của Nhất Hạnh: Đức Phật hay một vị Hiền Thánh Tăng nào hoặc một đạo sư nào, một bậc tể quan hay một kẻ lê dân nào… một khi chui vào quyển ”Đường Xưa Mây Trắng” của đương sự là họ trổi lời ỏn ẻn của nàng sủng phi dùng để nhõng nhẽo với đấng quân vương. Cái ông Thiền sư này không chịu nhập vào vai trò qua cách ăn nói. Đương sự không bao giờ thoát khỏi cái lưới làm dáng làm duyên trong khi viết đối thoại trong văn chương.
Ở bài viết về nhà văn Bình Nguyên Lộc cho quyển ”Náo Nức Hội Trăng Rằm” này tôi xin trích bài ”Tổng Quan Về Sự Nghiệp Văn Chương Của Bình Nguyên Lộc” của tôi đã đăng trên nguyệt san Văn Học số 18 (tháng 7 năm 1987) và dùng cái tựa: ”Bình Nguyên Lộc, Tổng Quan Văn Chương Vùng Đất Đồng Nai” cho toàn bài. Tuy nhiên tôi nhuận sắc và gia giảm mắm muối vào một vài chỗ theo nhu cầu suy tư và cảm nghĩ hiện thời của tôi.
***
Nhà văn Bình Nguyên Lộc chết vào ngày 7-3-1987, mãi một tuần sau Nguyễn Hữu Nghĩa ởGia-nã-đại và chị Vi Khuê cùng anh Cho Bá Anh ởHoa-thịnh-đốn mới cho tôi hay. Tôi thành thật tiếc thương anh cũng như tôi giận cho cái số phận đen đủi của mình. Tôi muốn hỏi anh về tin tức của các nhà thơ gốc người Nam đã từng viết văn làm báo với anh, hiện còn kẹt a quê nhà như các anh Dương Tro La (nhà văn), Trương Đạm Thủy (nhà văn), Hà Liên Tử (nhà thơ), Anh Tuyến (nhà thơ), Anh Việt Thanh (nhà thơ). Những nhà văn, nhà thơ đó vào thập niên 50, tôi đã từng mến mộ, dù văn tài, thi tài của họ chưa đủ sức thoát ra khỏi sự thờ ơ của độc giả để đằng vân vào văn đàn, thi đàn. Trên Văn Học số 15 (tháng 4/1987); a truyện ngắn ”Chiêu Hồn Nước”), Bình Nguyên Lộc có trích vài đoạn thơ của Hà Liên To, có lẽ thơ của Hà tiên sinh không hợp thời, không hợp sa thích với khách yêu thơ nữa, nhưng đó là tiếng vọng thời mới lớn của tôi, vào năm 1952, 1953 thì phải. Chưa kịp hỏi thì anh Lộc đã từ trần!
Tôi đọc văn của Bình Nguyên Lộc từ năm 1948, khi tôi vào ngưỡng cửa trung học tỉnh Vĩnh Long (trường Collège de Vinh Long, dạy chương trình Pháp). Rồi vào năm 1956, tôi đọc một vài truyện ngắn của anh trên tạp san Văn Hóa Ngày Nay do Nhất Linh chủ trương như ”Bàn Tay Sáu Ngón”, ”Hồn Ma Cũ”…
Giữa lúc tôi mê xem truyện của bà Tùng Long, bà Tú Hoa, Dương Hà, Ngọc Sơn, Thanh Thủy, Trọng Nguyên, Nguyễn Ngọc Mẫn thì truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc cho tôi một vài ý niệm mới: thế nào là một tác phẩm nghệ thuật? Người Nam Kỳ thua đó viết được truyện dài, truyện ngắn, nhưng chưa hề biết viết văn, họ chỉ biêt kể chuyện. Trừ Bình Nguyên Lộc, chỉ có Phi Vân là có thể viết truyện ngắn có tính chất nghệ thuật mà thôi: đó là tập truyện ”Đồng Quê”. Sau ”Đồng Quê”, Phi Vân viết thêm vài truyện dài như ”Cô Gái Quê”, ”Tình Quê” lại… hỏng. Đó chỉ là những cuốn tiểu thuyết dùng để giải trí mà thôi.
Cũng thế, Bình Nguyên Lộc rất thành công về truyện ngắn hơn là truyện dài. Chínhởtruyện ngắn, anh có thể biểu duơng văn tài của anh. Chỉ có truyện ngắn mới tạo cho anh một chỗ đứng vững chắc và sáng sủa trên văn đàn. Chính nhờ âm vang và ảnh hưang tốt đẹp của tập truyện ”Nhốt Gió”, ởvài truyện ngắn đăng trên Văn Hóa Ngày Nay, độc giả mới ưu ái anh, sẵn sàng đón tiếp nồng nhiệt quyển truyện dài ”Đò Dọc” ra đời vào năm 1959 và cuốn truyện dài ”Gieo Gió Gặt Bão” ra đời vào năm 1960.
Tôi đã từng theo dõi hành trình các tác giả gốc người miền Nam trước Bình Nguyên Lộc sát nút. Họ kể truyện dài, truyện ngắn phom phom, trơn láng, duyên dáng tuyệt vời, quyến rũ rất nồng đượm. Kể truyện là thuật lại sự việc, chứ không dựng được một cảnh sống. Người kể truyện chỉ nói trực tiếp sự việc, thí dụ: Buổi sáng, cô Lan đi chợ. Người viết văn thì không thể luời biếng như vậy. Ông ta dựng ngay cái khung cảnh buổi sáng từ nhà cô Lan đến chợ. Ông ta còn tả chân dung cô Lan, dáng điệu, co chỉ cô Lan và ông ta lại còn tả cảm nghĩ của cô Lan về buổi sáng, về khung cảnh chợ nữa. Nhà văn là kẻ đi chậm hơn người kể chuyện rất nhiều. Ông ta là kẻ rị mọ cũng như người thợ kim hoàn trong việc chạm trổ các món nữ trang. Ông ta dựng cảnh sống chưa đủ, còn phân tách tâm trạng nhân vật song song với công trình phân tích sự việc. Chính ở”Đò Dọc”, độc giả miền Nam đã thấy Bình Nguyên Lộc đã có viết văn. Anh viết lưu loát, ngon ơ cũng như các bà Tú Hoa, Tùng Long, Lan Phương cùng các anh Việt Quang, Ngọc Sơn, Thanh Thủy, Trọng Nguyên, Dương Hà, Nguyễn Ngọc Mẫn, Ngọc Linh, Sĩ Trung, kể chuyện tuồn tuột, trơn như mỡ, láng như dầu.
Đã 27 năm qua, trong ký ức tôi như in rõ nét cảnh anh chàng Long và cô Hồng trong ”Đò Dọc” hẹn hò nhau, ngắm sao băng trên nền trời đêm để cùng thề ước nhau. Và tác giả còn tả tỉ mỉ hơn lúc cô gái tên Quá cầm mấy viên thuốc ngủ để quyên sinh. Anh phân tích tâm trạng cô ta chi li sắc bén… Lúc đó, tôi còn là học sinh tỉnh lẻ. ”Đò Dọc” là cảnh sống cô đơn của bốn chị em Hương, Hồng, Hoa, Quá tại một vùng noa chợ noa quê nằm bên quốc lộ từ Sài Gòn xuôi về Biên Hoà. Vậy mà nhờ tai nạn xe cộ của một chàng tên Long, trừ cô Hương yên phận gái già ra, ba chị em kia bắt đầu yêu đương liều lĩnh, tuy sự liều lĩnh kia vẫn ngoan ngoãn nằm yên trong khuôn nếp lễ giáo… Cảnh ghen tương, ẩu đả, thất vọng xảy ra sau lưng ông cha bà mẹ cho tới khi cô Út tên Quá quyên sinh và được cứu sống. Sau hết, truyện kết thúc bằng ba cuộc hôn nhân của ba cô Hồng, Hoa, Quá với 3 cậu thanh niên thuộc giai cấp trung lưu trong đó có chàng Long. Chàng vốn là nạn nhân của tai nạn xe cộ, đã từng gây sóng gió trong lòng ba cô em của cô Hương… Nhưng sau rốt, chàng kết hôn với cô Hồng, kẻ mà chàng yêu đương chân thành. Tác giả chỉ chừa cô chị lớn cô Hương) để cô a lại nhà săn sóc cha mẹ.
Tiếp theo truyện ”Đò Dọc” là truyện ”Gieo Gió Gặt Bão” cũng chỉ là cuốn tiểu thuyết tâm lý ái tình, cảnh chung sống của bộ ba, một ông hai bà… Cuốn đó không thể thắp sáng văn tài Bình Nguyên Lộc được. Phải đợi tới tập truyện ”Ký Thác” với hai truyện ”Rừng Mắm, ”Ba Con Cáo” mới làm rúng động văn giới. Truyện ngắn ”Rừng Mắm” rất sâu sắc trong công việc nêu cao tình đất, chẳng những ma cho đất nước một chiều dài thênh thang mà còn nuôi ngọn loa hy vọng về tương lai huy hoàng của những kẻ khai hoang khẩn đất. Truyện ”Ba Con Cáo” thắp sáng thiên lương và tình người, gây niềm tin yêu cho độc giả về khía cạnh tích cực và tốt đẹp của con người dù xã hội và hoàn cảnh đẩy đưa nhân vật vào hành vi phản phúc, dối trá, lọc lừa.
”Bóng Ai Ngoài Song Cửa” là cuốn tiểu thuyết phỏng theo ba va kịch ”Marius”, ”Fanny” và ”César” của Marcel Pagnol. ”Xô Ngã Bức Tường Rêu” là cuốn đả phá giai cấp và đề cao tình yêu. ”Uống Lộn Thuốc Tiên” là cuốn tiểu thuyết mô tả cuộc sống lứa đôi giữa người vợ trẻ măng và người chồng luống tuổi, qua bao chứng nghiệm đau thương cả hai yêu nhau chân thành. ”Hoa Hậu Bồ Đào” mô tả cô gái đẹp lăn xả vào cuộc đời phồn tạp quá sớm.
Thành công về truyện ngắn (phương diện nghệ thuật), Bình Nguyên Lộc lại cho trình làng tập truyện ”Tâm Trạng Hồng”. Ở đây nồng độ nghệ thuật bị pha loãng vì đây là chỉ là những chuyện hài hước qua những truyền thuyết của kẻ trà dư tou hậu hoặc của những bà ngồi lê đôi mách, xen vào đó là những vở hài kịch ngắn, chứng tỏ khiếu trào lộng bén nhạy nhưng không thâm thúy của tác giả. Lại nữa, anh không gây một dư âm, một chút suy nghĩ nào cho độc giả sau khi họ xếp quyển sách ấy lại.
Những truyện dài của Bình Nguyên Lộc hết 99% đều đăng theo thể thức từng kỳ (feuilleton) trước khi đăng thành sách. Khi xuất hiện từng kỳ trên báo, tác giả không tránh khỏi theo thói viết đối thoại cù nhây cù nhằng, tức là anh kéo dài lời ông qua và lời bà lại một cách thừa thãi và vô bổ. Khi in thành sách, anh cắt xén bớt những câu đối thoại vô thưang vô phạt lẩn những câu nhì nhằng. Nhưng quyển sách vẫn không sạch sẽ gọn gàng, vẫn như mảnh đất hãy còn những bụi hoang đầy cành lá rườm rà, những cỏ dại bụi gai, không để cho những hoa thơm ý tuang không có thêm chỗ đất trống để trổ sắc tưng bừng hơn và tỏa hương ngào ngạt hơn. Những Ngọc Linh, Sĩ Trung, Dương TrửLa đã theo bước chân anh thì chẳng nói làm gì vì họ là những cây bút đứng bên ngoài văn học sử. Nhưng Túy Hồng, Thụy Vũ, Văn Quang, Thanh Nam cũng làm những gì Bình Nguyên Lộc đã làm thì họ hy sinh quá nhiều nghệ thuật tính. Càng kéo dài đối thoại, họ càng pha lợt pha loãng cái phẩm chất của quyển sách. Nhưng Lê Xuyên thì khác, càng kéo dài cuộc đối thoại, anh càng thắp sáng cái mãnh lực mầu nhiệm ngôn ngữ đất Nam Kỳ Lục Tỉnh, càng khơi bừng bừng ngọn loa thiêng của những kẻ yêu ngôn ngữ trên đất nước quê hương được khai phá do cuộc Nam Tiến của dân tộc.
Viết fauilleton là phải nhắm vào tâm lý và thị hiếu của quần chúng. Giới bình dân Nam Kỳ vốn thích chuyện nhơn quả, chuyện oán trả ơn đền, chuyện ngồi lê đôi mách, chuyện hài hước theo kiểu hề giễu trên sân khấu ca kịch cải lương, chuyện tôn vương hòa hiệp của các nhân vật chánh diện sau bao phen hoạn nạn tai ương. Vì vậy, Bình Nguyên Lộc có hai loại độc giả: nhóm thức giả có kiến thức trên trung bình và nhóm độc giả thuộc giới bình dân dùng văn chương để giải trí. Cả hai loại độc giả đều ủng hộ truyện dài của anh hết mình.
Tôi cần nhấn mạnh kẻo quí vị độc giả hiểu lầm. Không phải mỗi truyện dài của Bình Nguyên Lộc hoàn toàn là truyện giải trí, loại mua vui cũng được một vài trống canh đâu. Anh viết truyện dài với tất cả ý thức của một nhà văn chân chính song song với việc nuông chiều thị hiếu của quần chúng độc giả. Đó là điều khó khăn nhất cho người cầm bút. Vì sao? Thị hiếu quần chúng hầu như không đi đôi với nghệ thuật. Viết mà chú trọng nhiều về nhân sinh quan, về tâm lý nhân vật, luôn cả nếu tác giả tả cảnh, ta người, tả sự việc quá chi ly tỉ mẩn thì đương sự sẽ làm cho độc giả không có sa tri phong phú về văn chương đâm ra mệt hốc hác khờ khạo. Còn viết ướt át, lâm ly, phi thực tế để nâng niu giấc mơ lố bịch hoặc o bế hoài bão cà chớn của giới độc giả hoang tư?ng ? tầng lớp hạ lưu trong xã hội tức là tác giả nếu không cuỡng dâm nghệ thuật thì cũng xửlăng trì ngòi bút của mình không chút xót xa. Vậy mà Bình Nguyên Lộc vẫn nắm vững lối viêt đầy nghệ thuật tính, vẫn chiều theo khiếu thư?ng ngoạn của độc giả để tên tuổi mình vẫn vừa sáng vặng vặc trên văn đàn vừa đi sâu vào quãng đại quần chúng.Trong bán thập niên cuối của thập niên 50 và trong suốt thập niên 60. Bình Nguyên Lộc là một nhà văn ”populaire” (phổ thông) nhất. Đừng ai đỏng đảnh cho rằng những nhà văn ”populaire” là nhà văn nếu không thuộc loại viết tiểu thuyết ba xu (như loai tiểu thuyết Harlequin) thì cũng là thứ nhà văn xoàng xĩnh, tài năng chai cứng và sượng ngắt. Điều nầy hoàn toàn không đúng với Bình Nguyên Lộc, nhất là với nhà văn Georges Simenon của nền văn chương nước Pháp. Ông này đã cho xuất bản trên 400 tác phẩm, đa số là loại trinh thám (những cuộc điều tra án mạng của ông Cò Maigret). Nhưng bên số lượng phồn thịnh của tiểu thuyết trinh thám thuộc loại siêu cấp đó, ông ta vẫn viết những tác phẩm văn chương, thí dụ như cuốn tiểu thuyết tâm lý ”Chỉ Là Những Cây Hạnh Đào” (”Il n’y avait que les noisetiers”). Đã đành Bình Nguyên Lộc viết truyện ngắn cho những người sành điệu văn chương, nhưng anh đâu phải viết truyện dài chỉ dành riêng biệt cho dành cho giới bình dân? Truyện dài của anh đã dựng được những cảnh sống (hoạt cảnh, phong cảnh, cảnh ngộ) lại còn vẽ được những nhân vật sống thực, và hơn nữa tác phẩm truyện dài của anh còn chứa đựng nhiều nhân sinh quan sắc sảo, rất cận nhân tình. Ngòi bút anh vì chiều theo độc giả bình dân cho nên trong các truyện dài của anh hầu như không có bối cảnh đồng quê, không có những nhân vật thôn dân, mà lại có khung cảnh thị thành, khung cảnh noa chợ noa quê với các thị dân từ bực trung lưu tra lên. Giới độc giả bình dân lam lũ vốn nhàm chán cảnh nghèo hèn của họ. Đọc quyển sách có khung cảnh đồng quê, có khung cảnh xóm chòi lá vách đất với những nhân vật cày sâu cuốc bẳm hay các nhân vật mua thúng bán bưng thì họ đâm ra nản lòng vì họ phải nhìn sâu vào hoàn cảnh sẫm buồn của họ. Còn khi đi xem hát bội hay hát Hồ Quảng, họ cốt ý muốn được xem tuồng tích có cảnh trí huy hoàng với lâu đài tráng lệ, cung điện nguy nga, có y quan lộng lẫy, có các nhân vật quý tộc như hoàng đế vương hầu, hoàng hậu quý phi, tể quan khanh tướng, công nương quận chúa… Họ đâu muốn cảnh đời hiện tại của họ hiện rõ trên trang sách phơi ma hay được dựng trên sàn gỗ sân khấu khi bức màn nhung chẻ đôi và vén ra. Bình Nguyện Lộc khi viết truyện dài biết đưa họ lạc vào cảnh giàu sang của giới thượng lưu hay cảnh đầm ấm thoải mái của giới trung lưu được ánh sáng văn minh soi đến, nhưng đáng quý nhất là anh nếu không viết được truyện dài xuất sắc thì cũng giữ cho cái phẩm chất của chúng vào bậc trung, chớ không để chúng rớt xuống loại tiểu thuyết ba xu hạ cấp.
Bên cạnh những truyện dài ”Ái Ân Thâu Ngắn Cho Dài Tiếc Thương”, ” Nhện Chờ Mối Ai”, “Trâm Nhớ Ngàn Thương” (Trâm chớ không phải Trăm, ở đây cô Trâm và cậu Ngàn thương nhớ nhau), Bình Nguyên Lộc viết một truyện dài thuộc về bịnh ly hồn chứng (l’amnésie) mô tả chuyện một người bị tai nạn xe hơi quên hẳn quá khứ trong đó có gia đình mình. Anh ta xây dựng một cuộc đời khác, có vợ con khác. Rồi một tai nạn khác xảy đến: anh ta bị một kẻ cướp đập vào đầu một cú đau điếng. Anh ta vụt nhớ lại quá khứ cũ, gia đình cũ nên tìm về vợ con cũ. Họ đều tưang anh đã chết trong tai nạn xe hơi hồi trên 20 năm trước; người vợ trước đã đi lấy chồng khác, các con dòng truớc đã trưang thành. Họ nhìn anh ta bỡ ngỡ xa lạ, không thể cùng anh ta ráp lại những mảnh tan vỡ cũ để tái lập một gia đình đấm ấm và nguyên vẹn như xưa. Sau cùng, anh ta tra về gia đình hiện tại, sống trong cảnh hạnh phúc hiện tại. Truyện dài nầy có vẻ đặc sắc hơn mọi truyện dài khác.
Bình Nguyên Lộc trong những năm 1965, 1966, 1967 cộng tác với những tạp san văn nghệ đứng đắn trong đó có tạp san Văn (do Nguyễn Đnh Vượng làm chủ nhiệm, do Trần Phong Giao rồi tới Mai Thảo làm chủ bút) bằng những truyện ngắn mà anh viết cho anh để hoài niệm quê hương, để sống trong tình yêu đất. Trên tạp san Hương Quê, truyện ngắn của anh đưa độc giả tra về từng vùng quê, từng cảnh ngộ dân quê một cách thích thú… Những truyện ngắn đó đuợc anh lần lượt đưa vào các tập truyện ”Mưa Thu Nhớ Tằm”, ”Tình Đất” và ”Cuống Rún Chưa Lìa”.
Truyện dài của Bình Nguyên Lộc gặt thêm một thành công khác. Vào năm 1972, điện ảnh gia Lê Dân chọn truyện ”Một Nàng Hai Chàng” của anh để quay thành phim ”Hồng Yến” với các tài to Kiều Chinh, Tâm Phan và Trần Quang. Nhưng điều đó chưa gây tiếng vang inh ỏi và sâu rộng trong văn giới bằng cuốn phóng sự của anh nhan đề ”Những Bước Lang Thang Trên Hè Phố Của Gã Bình Nguyên Lộc”. Anh đã đổi thực đơn cho độc giả vào năm 1966, nhưng vẫn tiếp tục viết feuilleton. Mãi đấn năm 1973, Bình Nguyên Lộc bắt đầu tung ra hai cuốn biên khảo là ”Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam” và ”Lột Trần Việt Ngữ”. Đó là kết quả công trình do nhiều năm anh cặm cụi sưu tầm tài liệu và là kết quả công việc nghiên cứu một cách say mê.
***
Ai cũng vậy, hễ cầm bút viết về một nhà văn tiền bối nào, hoặc về một cây bút trưang thượng nào là đương sự thích tế sống hơn là tế chết người được viết. Thiệt tình, trong vài bài đăng a Văn, Làng Văn, tôi đã từng tế sống anh Bình Nguyên Lộc. Tôi có dè đâu chưa đầy một năm, tôi lại phải viết một bài tuang niệm vong linh anh coi như một nén nhang đốt tiễn đưa anh về bên kia thế giới.
Dù tôi có thay đôi nhiều lượt, nhiều phen về quan niệm văn chương, nhưng sự nghiệp văn chương của anh và công trình sưu khảo của anh đã đóng góp cho văn hóa dân tộc biết bao món trân bảo ngoạn mục. Và khi đọc truyện ”Ký Thác” của anh, tôi như sống lai cái thời thanh xuân rực rỡ nhất của tôi, cái thua mà song song với niềm say mê quyển sách ấy, tôi theo dõi những truyện dài mà anh đã đăng trên các nhật báo để rồi thực hiện thành hai cuốn tiểu thuyết ”Đò Dọc” (mà anh đã đoạt Giải Thưang Văn Học Nghệ Thuật Toàn quốc vào năm 1960) và ”Gieo Gió Gặt Bão”… Đây là lần đầu tiên các độc giả miền Nam được đọc một tác phẩm văn chương đúng nghĩa dưới hình thức quyển tiểu thuyết của một tác giả gốc Nam Kỳ. Vậy tiểu thuyết là gì, nếu không là phản ảnh đời sống của một nhóm nhân vật có những sợi dây liên hệ tình cảm trói buộc với nhau? Đời sống đó được tác giả nhìn ngắm, tư duy và phơi bày cho độc giả thư?ng thức qua cái nhân sinh quan cá biệt của tác giả, qua cả niềm rung cảm của ông ta. Các tác giả như các bà Tú Hoa, Tùng Long, Lan Phương, các anh Ngọc Sơn, Thanh Thủy, Nguyễn Ngọc Mẫn, Dương Hà, Trọng Nguyên, Dương Tro La, Ngọc Linh, Sĩ Trung… đa số đều viết truyện tình cảm gay cấn, éo le với những nhân vật được mô tả sơ sài về mặt tâm lý. Trừ bà Tú Hoa, bà Lan Phương, các anh Thanh Thủy, Dương Tro La, Ngọc Linh, Sĩ Trung chịu khó sáng tác, còn các tác giả kia thường phóng tác tiểu thuyết và phim ảnh ngoại quốc. Bà Tùng Long và anh Ngọc Sơn đa số phóng tác các loại truyện tiểu thuyết ba xu như Nous Deux, Harlequin. Anh Dương Hà phóng tác các danh phẩm của Emily Bronte, Margaret Mitchell, nhưng anh Dương lại giản lược những đọan tả cảnh, tả tình, tả nhân sinh quan. Anh Nguyễn Ngọc Mẫn phóng tác theo các cuốn phim Ý-đại-lợi thuộc loại thương mãi nổi tiếng ăn khách trong hai thập niên 40, 50 với các tài to Âu Châu hạng B vang danh như Marta Toren, Gianna Maria Canale, Eleonora Drossi Drago, Yvonne Sanson, Nadia Gray… (nữ), Amedéo Nazzari, Ettore Manni, Jacques Sernas, Pierre Croissoy… (nam) . Anh Trọng Nguyên phóng tác các cuốn phim Tàu được hảng Việt Hoa Văn Hóa Hợp Tác Công Ty Điện ảnh lồng tiếng hoặc các cuốn Tàu phim do hảng Mỹ Vân và hảng Mỹ Phương chuyển âm. Đó là các cuốn phim gây tên tuổi chói rực của các tài to Vương Nguyên Long, Vương Hảo, Nghiêm Tuấn, Hoàng Hà, Bình Phàm, Trương Anh, Trương Dương, Lôi Chấn, Triệu Lôi, Tăng Giang… (nam), Lý Lệ Hoa, Bạch Quang, Lý Mi, Trần Vân Thường, Hồng Tuyến Nữ, Tố Thu, Lưu Kỳ, Lưu Luyến, Âu Dương Sa Phi, Bạch Dương, Hạ Mộng, Cát Lan, Trần Quyên, Trương Trọng Văn… (nữ). Độc giả không tìm được trong tác phẩm các nhà văn Trọng Nguyên, Nguyễn Ngọc Mẫn, Dương Hà, Ngọc Sơn và bà Tùng Long một cảnh sống linh động nào, một quan niệm sống nào mới mẻ, tươi rói. Do đó chúng tra thành những tác phẩm dành cho quần chúng giải trí để rồi họ quên long trong các cuộc mưu sinh phồn tạp.
Miền Nam vào thời chiến tranh Đông Dương có 3 nữ tiểu thuyết gia, nổi tiếng nhất là bà Tú Hoa, bà Tùng Long và bà Lan Phương. Bà Tú Hoa trước đó, vào thời tiền chiến đã đoạt giải Tự Lực Văn Đoàn qua cuốn tiểu thuyết ”Bóng Mơ”. Sau đó, bà viết them vài cuốn tiểu thuyết nữa cũng khá ăn khách, tuy nhiên không hiểu sao bắt đầu từ năm 1964, bà ngưng viết luôn. Rồi đó, vào thua cuộc chiến tranh Đông Dương bùng nổ, sự xuất hiện của bà Tùng Long (gốc người Quảng Nam, nhưng sinh sống lâu năm trong Nam) qua các quyển ”Lầu Tỉnh Mộng”, ”Nhị Lan”, ”Giang Sơn Nhà Chồng” gây náo nhiệt trong quần chúng thuộc giai cấp trung lưu Nam Kỳ hơn. Nhưng bà Tùng Long vốn ưa văn dĩ tái đạo hơi nhiều, làm cô giáo bất kỳ khi viết tác phẩm nào nên thét rồi độc giả hơi nhàm. Đúng lúc đó tên tuổi bà Lan Phương vụt sáng lên. Bà viết rất có ý thức, các nhân vật bà rất người, có tánh tốt trà trộn tánh xấu. Đặc biệt nhất bà viết về tánh ghen tương ganh ghét của đàn bà thiên hình vạn trạng nên văn chương bà rất hấp dẫn. Còn cô Hoàng thị Như Mai qua quyển ”Hai Dòng Con”, cô Thanh Tùng vốn là tác giả các quyển ”Sống Trên Nhung Lụa” và ”Một Tâm Hồn Trong Sương Lạnh”, Tô Hằng Nữ Sĩ với quyển ”Ái Tình và Sắc Đẹp” đều không không phải là đào chính cống, mà là là thứ đào lộn hột, chu choa ơi, lộn tới hai hột, trời ạ. Cho nên trong một sớm một chiều họ chuồn êm ra khỏi làng văn trận bút. Cũng như các nhà văn Ngọc Sơn, Thanh Thủy, Dương Hà, Trọng Nguyên, hay nhóm nhà văn vào thua Nam Bộ Kháng Chiến, ba nữ sĩ Tú Hoa, Tùng Long, Lan Phương viết văn bằng giọng văn Bắc Nam pha trộn, nhưng rất mềm dịu du dương với ngôn ngữ dân đô thị lúc viết nhật ký hay lúc viết thư tâm sự hay thư tình. Thế có nghĩa dù viết văn không có chêm những tiếng nhỉ, nhé, ư, ạ, eo ơi, thảo nào, thế à… nhưng ngôn ngữ được xo dụng rất trung tính (neutre), không phảng phất sương khói ngôn ngữ Bắc Kỳ, không vết điêu khắc giọng văn Huế, không đậm đặc ngôn ngữ Nam Kỳ.
Tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc không kén độc giả bao giờ. Văn phong anh dí dỏm, tương đối khá Nam Kỳ (thứ ngôn ngữ Nam Kỳ a đô thị). Ý tình anh trong sáng, ít có dấu vết khách sáo qua nét thêu thùa chạm khắc; thế có nghĩa là ý tình trong các tác phẩm của anh xuề xòa, bộc trực được diễn tả bằng thứ ngôn ngữ tượng thanh lẫn tượng hình. Cái cai ma khả ái đó, chúng ta có thể thấy trong truyện ngắn ”Ba Con Cáo”, ởcảnh nhà cửa lấn vào đất nghĩa trang.
Người sống còn biết đau lòng khi phải dẫm lên những gò mả còn mới rành rành (nhiều mộ bia thánh giá đề năm chôn 1951) nhưng ác thay, họ cũng biết lạnh. Cho nên họ cất nhà trên những nấm đất ấy, nhưng người chết thứ lỗi, miễn là có chỗ núp mưa, thế thôi.
Không bao giờ kẻ sống và người chết lại sát cánh nhau đến thế. Ông đã chết rồi, ông choán đất làm chi cho nhiều, trong khi tôi không có một vuông đất nhỏ mà cắm cột gỗ, vậy ông thứ lỗi nhé. Rồi ngày sau tôi hoàn đất lại cho ông vậy mà; trần gian nầy chỉ là cõi tạm thôi, tranh nhau làm gì.
Ở truyện ngắn ”Rung Cây Dừa”, những hình ảnh đặc sắc được tác giả vẽ từng nét rõ vào ấn tượng độc giả:
Giữa những cù lao trong quần đảo Củ Tron là những vuông biển nhỏ im lặng như mặt hồ. Bơi xuồng trên bao nhiêu là hồ ấy, đi từ đảo nầy qua đảo kia là một thú vui vô song nhắc nha nguời xưa chu du năm hồ bốn biển, cảnh Từ Thức chèo thuyền chợt gặp Đào nguyên.
Nhứt là những hòn đảo nầy là những hòn non bộ thiên nhiên mà trong đất liền, nghe nói, ai cũng thèm nhểu nước miếng.
Đảo đá vôi lồi lõm những gộp đá hình thù kỳ dị, những hang non hiểm hóc và những động là là mặt nước trông như coa động Đào; gộp đá vôi thì mỗi gộp mỗi màu, trên ấy mọc lên những lùm cây mà hình dáng cằn cỗi như cổ thụ, và tất cả soi bóng in hình một cách trung thành, đầu lộn ngược, trên mặt biển đang nhạt màu trời và phẳng như gương.
Văn phong, bút pháp tượng thanh của Bình Nguyên Lộc có thể được thể hiện ? trang đầu truyện ngắn ”Lầu 3 Phòng 7”:
Uc…ục…ục… uột…
Quỳnh vội bịt lỗ tai lại. Chàng rất sợ tiếng nước a bồn roa mặt của phòng bên cạnh. Nó kêu như ai ăn phải của khó tiêu, bị sôi ruột kêu ột ột. Đáng ghê nhứt là cái tiếng ”uột” sau cùng, kéo dài bất tận.
Ở đây có những tiếng động khiếm nhã khác nữa. Đó là tiếng đế giày nện lên gạch, tiếng nước cầu xí, tiếng đờn vĩ cầm của ai mới học kéo ọ ẹ suớt ngày.
Trong sự nghiệp văn chương của Bình Nguyên Lộc gồm các truyện ngắn lẫn truyện dài của anh, ngoài việc phân tích tình đời và tâm trạng các nhân vật thì văn phong anh cũng chỉ tung hoành ngoạn mục a hình thức ngoài 3 đặc tánh ấy mà thôi.
***
Bối cảnh, khí hậu trong đa số tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, phần nhiều khác biệt với bối cảnh và khí hậu trong các tác phẩm của Sơn Nam. Trừ truyện ngắn ”Rừng Mắm” và truyện ngắn ”Rung Cây Dừa” thì hầu hếu hết truyện dài lẫn truyện ngắn khác của Bình Nguyên Lộc đều lấy bối cảnh a Biên Hòa, Bình Dương, Lái Thiêu, Tân Uyên, Đất Bái, tức là miền Đông Bắc của thủ đô Sài Gòn. Còn Sơn Nam thì lấy bối cảnh miệt Cực Nam đất nước như Chắc Băng, Cà Mau, U Minh Thượng, U Minh Hạ (các cuốn ”Hương Rừng Cà Mau”, ”Hai Cõi U Minh”, ”Vọc Nước Giỡn Trăng”), hoặc lấy bối cảnh a chốn hải giác thiên nhai từ mũi Cà Mau trông ra biển như cuốn ”Vạch Một Chân Trời”, cuốn ”Bà Chúa Hòn”.
Những truyện ngắn viết về quê hương đất nước trong quyển ”Hương Rừng Cà Mau” của Sơn Nam đều hay, quan niệm sống của tác giả được gán vào miệng của lớp người khai hoang khẩn đất đều cập nhân tình, vốn sống của tác giả rất phong phú. Nhưng truyện ngắn ”Rừng Mắm” của Bình Nguyên Lộc dĩ nhiên dẫu thua các truyện ngắn ấy về tài liệu sống, thua những cái kỳ bí lạ lùng a trên vùng đất Hậu Giang. Nhưng nó trội hơn a chỗ gợi cho chúng ta niềm ngậm ngùi thương cảm về đức hy sinh cao cả của lớp người tiền phong tìm đất mới, a cái dũng mãnh kiên cường của chí khí dân tộc, a niềm tin rực rỡ của lớp hậu sinh về đất nước mai sau nối thêm chiều dài trên biển Nam Hải. Nhân vật chánh là cậu trai mới lớn tên Cộc sống với ông nội và tía má cậu a rạch Ô Heo, một vùng cùng thôn tuyệt tái của đất Nam Kỳ. Trước khi vào truyện, họ đã đến đây khẩn đất. Cộc lớn lên, đang lúc thể chất phát triển vì lao tác nên thèm ăn chè và thèm được bậu bạn với một cô gái trang lứa. Nhưng đất a đây chưa thể trồng mía được nên không có ai làm ra đường. Lại không có gia đình lân cận nào nên không có một cô gái trang lứa với cậu nên cậu muốn bỏ đi tìm vùng thổ ngơi nào có chè lẫn có gái. Cậu thấy cây mắm mọc lơ thơ ven biển cho rằng đó là thứ cây vô tích sự, cho nên ông nội cậu giải bày như sau:
— Bờbiển nầy mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra bằng mấy ngàn
thước. Phù sa là đất mềm lủng và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưang, nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một khi kia mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi nó. Rồi sau mấy đời tràm, đất thuần, cây ăn trái mới mọc được.
Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn vai nó mà tiếp:
— Ông với lại tía con là cây mắm, chơn giẫm trong bùn. Đời con là đời tràm,
chơn vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau.
Đời mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu họ hưang.
Con, con sắp được hưang rồi, sao muốn bỏ mà đi. Vả lại con không thích hy sanh chút ít cho con cháu của con hưang hay sao?
Trước năm 1975, đa số truyện dài của Bình Nguyên Lộc đều lấy bối cảnh ở đô thị. Còn Sơn Nam có cuốn ”Hình Bóng Cũ” chỉ lấy bối cảnh đô thị ởphần chót, còn hai phần đầu lấy bối cảnh ởmiền quê đất nước Hậu Giang. Nhưng riêng quyển ”Chim Quyên Xuống Đất” thì lấy hoàn toàn cảnh đô thị để dựng nên cái phông cho sự diễn biến câu chuyện. Rất tiếc, các phê bình gia, các học giả chỉ ca tụng quyển ”Hương Rừng Cà Mau” của anh mà bỏ rơi hai kiệt tác phẩm ấy. Chính ởhai quyển nầy, Sơn Nam mới bừng trổ cái tài hoa dựng truyện và thần trí sáng tạo của mình a những chất liệu dựng truyện không đặc sắc. Ở đây, độc giả mới thương cảm lớp thanh niên bỏ học để tham gia vào lịch sử trong cuộc chống Pháp. Rồi sau Hiệp Định Genève, họ sống bơ vơ lạc loài vì lỡ vận ởMiền Nam Việt Nam bằng nghề cầm bút; cuộc mưu sinh không lóe lên một viễn ảnh tươi sáng, một tương lai đảm bảo nào. Họ ngơ ngác trước cuộc đời dâu bể, trước khúc quanh lịch so, trước thế sự thăng trầm. Hai cuốn này vẫn là hai cột trụ trong văn nghiệp của Sơn Nam, ăn đứt các truyện dài của Bình Nguyên Lộc. Vì sao? Những tác phẩm truyện dài của Bình Nguyên Lộc đa số là truyện tâm lý ái tình, không phản ảnh đến biến chuyển của thời cuộc, của thế hệ lớp người trưang thành trong cuộc chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh, không vẽ được các bức tranh xã hội trong các thập niên 50, 60 và 70. Ngoài ra, nhân vật chính trong hai quyển truyện dài của Sơn Nam bị guồng máy vận mệnh tổ quốc đẩy đưa vào cảnh ngộ thương tâm, lỡ khóc lỡ cười; trong khi đó những nhân vật của Bình Nguyên Lộc có nếp sống vật chất đầy đủ hơn, nên tâm cảnh của họ không bị xáo trộn nhiều về các tấn thảm kịch trong cuộc sinh hoạt chung quanh họ. Điều dễ hiểu là Sơn Nam đã tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp, có lý tưang về quốc gia dân tộc. Dù anh lầm đường lạc lối theo bọn Việt Minh, dù lý tưang anh có đặt sai chỗ chăng nữa, nhưng cuộc đời lăn lóc của anh bao năm a khu 9 (một mật khu vùng Hậu Giang của bọn Việt Minh) cũng tạo cho anh nhiều cơ hội sống chung với dân quê, sống trong vùng tân bồi miền Cực Nam đất nước. Anh có thể suy nghĩ nhiều những điều mà những kẻ có cuộc sống an phận thủ thường a đô thị trong đó có Bình nguyên Lộc không có điều kiện lẫn cơ hội nghĩ ra.
Chọn đô thị làm bối cảnh cho truyện ngắn, Bình Nguyên Lộc thêm một lần nữa thành công về phuơng diện nghệ thuật ở truyện ngắn ”Ba Con Cáo”. Đây là câu truyện xảy ra tại nghĩa trang hoang vu, có nhiều vài kẻ lác đác cất chòi là để cư ngụ. Trong số đó có một người đàn ông trốn pháp luật, một ả gái điếm trốn lính kiểm tục. Đó là hai con cáo theo nghĩa bóng vì họ khôn lanh quỷ quyệt, cái quỷ quyệt đó do xã hôi và hoàn cảnh phong trần dày dạn của họ tạo ra. Kẻ thứ ba là con cáo thứ thật, chuyên bắt gà vịt trong xóm và đào hang ở gần chỗ của hắn ta trú ngụ. Vì ởchỗ tha ma mộ địa, hắn ta và y thị tỏ bày tâm sự với nhau. Còn con cáo vì được hắn ta đuổi chó săn để cứu sống nên nó tỏ ra thân thiện với họ. Nhưng họ không dám chui ra khỏi nghĩa trang để kiếm sống. Quá đói lòng, hắn ta giết con cáo thứ thiệt để cùng y thị đỡ dạ. Nhưng rồi vì không đào ra được cái ăn, cho nên y thị đi tố cáo hắn để nhận tiền thư?ng. Tuy nhiên, khi y thị tra về trơ trọi một mình tại nghĩa trang, nhìn chỗ cả hai nằm thức thâu đêm để tâm sự với nhau, y thị bỗng cảm thấy không khí sao mà quá quạnh quẽ thê lương. Cùng lúc đó, thiên lương trong sáng tra về với y thị:
Chị ôm mặt khóc òa, rồi lẩm bẩm van vái lầm thầm:
— Trời Phật ơi, Chúa ơi, tha tội cho tôi, ngày mai tôi ra khỏi chỗ này và ra khỏi vực đen của đời tôi nữa.
Gặp phút xuất thần Bình Nguyên Lộc viết khá nhiều truyện ngắn tuy không bằng ”Rừng Mắm” và ”Ba Con Cáo”, nhưng rất chứa chan tình người và thắp sáng thiên lương nhân loại và niềm tin yêu đối với cuộc đời. Như tôi đã nói, anh thành công về truyện ngắn hơn thành công ởtruyện dài. Nhưng chính những truyện dài tâm lý ái tình của anh dù có giảm thiểu phẩm chất nghệ thuật ít nhiều, nhưng chúng lại hợp với cảm quan của giới độc giả thích dùng văn chương để giải trí; bai đó mà chúng đuợc họ ái mộ nồng nhiệt. Cho nên bất cứ quyển truyện dài nào của anh dù chưa được xuất bản mà chỉ được đăng từng ngày trên nhật báo cũng thu hút độc giả mãnh liệt. Cho đến nỗi dân ởLục Tỉnh mỗi ngày phải ra bến xe đò, đợi xe cha báo về, chộp lấy bào nào có đăng truyện theo thể thức feuilleton của Bình guyên Lộc đọc trước cho sốt dẻo, trước khi đọc các tiết mục khác.
Như thế, Sơn Nam chỉ khua động trên văn đàn và thắp sáng niềm ái mộ của giới sành điệu trong khi đó Bình Nguyên Lộc đuợc mọi giới nhiệt thành ủng hộ và chiêm ngưỡng.
***
Kể từ tháng 7 năm 1987 tôi viết bài ”Tổng Quan Về Sự Nghiệp Văn Chương của Bình Nguyên Lộc” cho tới nay (vào cuối tháng 8 dương lịch năm 2007) thì đã hơn hai mươi năm trôi qua. Nhìn trước ngoảnh sau, tôi nhận thấy một điều: về phương diện sáng tác, Bình Nguyên Lộc được nhắc nh? nhiều qua truyện dài ”Đò Dọc” cùng hai truyện ngắn ”Rừng Mắm” và ”Ba Con Cáo”. Nhưng ”Đò Dọc” thật sự chưa phải là cái tinh túy trong số lượng phồn thịnh của tác phẩm anh. Nó chỉ là một chai lọ thủy tinh được Giải Thưởng Văn Chương Nghệ Thuật Toàn Quốc như ánh mặt trời soi rọi đến nên mới chiếu sáng hơn các truyện dài khác được tượng trưng qua các món ngoạn hảo bằng pha lê quý giá hơn. Tập truyện ”Nhốt Gió” của anh là con chim én báo tin xuân. Còn tập truyện ”Ký Thác” trong đó có hai truyện ngắn ”Rừng Mắm” và ”Ba Con Cáo” mới là mùa xuân huy hoàng thật sự trong văn chương của anh. Hơn thế nữa, ”Rừng Mắm” đã là một nén nhang tạ ơn công lao người dựng đất, làm cho lớp hậu sinh chúng ta cảm khái hơn.
Bình Nguyên Lộc viết văn bằng cái trong sáng của thiên lương. Anh không làm dáng trong bút pháp và văn phong nhiều (trừ những cuộc đối thoại của những kẻ tân học). Anh không muốn bày trò rắc rối tối tăm trong cách cấu trúc tác phẩm và cách dàn xếp nội dung của nó. Cho nên anh không cho độc giả có thời giờ và cơ hội để suy nghiệm những gì anh viết. Anh cứ phóng bút tới tấp một cách thống khoái. Anh cứ giải thích tuồn tuột và xôn xao những điều ẩn mật của tác phẩm mình. Anh không cho độc giả tìm gặp cái ý tình thâm trầm cần phải có của một cây bút có ý thức về thẩm mỹ. Anh không tạo đuợc cái mênh mông thăm thẳm của câu truyện. Điều này, anh chứng tỏ cái tánh hồn nhiên khả ái của người Nam Kỳ nói chung, cái bộc trực của đa số cây bút gốc Nam Kỳ nói riêng.
Lại nữa trong ba tập truyện ”Mưa Thu Nhớ Tằm”, ”Tình Đất” và ”Cuống Rún Chưa Lìa”, Bình Nguyên Lộc cứ kêu gào nỗi nhớ quê, cứ ó ré tình quê cha đất tổ. Sự khơi dậy cảm xúc bị nhiều lượt lắm phen đem ra triễn lãm trưng bày một cách suồng sã hớ hênh như thế đã lần hồi nếu không làm tắt nghẹn thì cũng chận ngăn ít nhiều mạch cảm xúc của độc giả đi. Nếu anh bỏ bớt cái tánh chất nồng nàn đến chỗ sa đà thái quá của người Nam Kỳ đi thì sự truyền cảm sâu đậm hơn, thấm đượm hơn.
***
Trong cuốn ”Văn học Miền Nam Tổng Quan”, Võ Phiến có viết: Cá tính văn học miền Nam là điều không thể phủ nhận, và nó rất hấp dẫn. Sự phát huy bản sắc miền Nam là một đóng góp thật quan trọng vào nền văn học Việt Nam. Đâu có phải chuyện gì xấu xa đâu mà vội khỏa lấp.
Về sắc thái đặc biệt, điều nhận thấy trước nhất là những từ ngữ địa phương, những cách nói riêng của địa phương. Từ ngữ riêng của miền Nam thật nhiều, càng ngày càng lộ ra nhiều. Trước 1954, dĩ nhiên nó vẫn phong phú, nhưng nó không hay xuất hiện trên sách báo, thậm chí trong tự điển là nơi lẽ ra phải tập trung đầy đủ tiếng nói dân tộc, cũng không có được bao nhiêu tiếng địa phương miền Nam. Lúc bấy giờ địa vị của tiếng nói miền Nam hãy còn khiêm tốn, ngay những học giả người miền Nam vẫn còn ngần ngại chưa muốn đưa những tiếng cà tàn, cà ràn, chiếc nóp, lục cụ v.v… vào sách. Sau nầy mỗi lúc các ông Bình Nguyên Lộc, Lê Xuyên mới trình ra, tuôn vô số, chừng ấy mới biết là chúng ta còn có cả một kho vô tận chữ nghĩa mấy trăm năm chưa xài đến! Chuyện đó thì ”mắc mớ” gì tới tui? Tui thì ”kể số” gì? Tui có ăn nhậu gì ”trỏng” đâu nà? Ôi nghe lạ mà vui biết bao nhiêu!
Vào thời tiền chiến, trong các nhà văn nhà thơ gốc miền Nam đã chối bỏ ngôn ngữ miền Nam như Đông Hồ, Mộng Tuyết thì đã có Nguyễn Chách Sắt, Lê Hoằng Mưu (bút hiệu Mộng Huê Lầu), Hồ Biểu Chánh. Lại thêm một vương tôn gốc Huế là Nguyễn Phúc B?u Đình vì sống trong Nam đã lâu và lấy vợ người tỉnh Gò Công nên khi viết hai quyển ”Cậu Tám Lọ” và ”Mảnh Trăng Thu” bằng giọng Nam và ngôn ngữ miền Nam đặc sệt. Hồ Biểu Chánh là một tiếng nói lạc lõng, lẻ loi ởngoài lề văn học sử, tác phẩm của ông chỉ được giới bình dân ởmiền Nam đọc mà thôi. Nhưng nhà phê bình Vũ Ngọc Phan là người sáng suốt. Khi thực hiện bộ sách ”Nhà Văn Hiện Đại” liền dành cho Hồ tiên sinh một chương khá tỉ mỉ với lời nhận xét ưu ái qua cuốn ”Cha Con Nghĩa Nặng”. Trong khi đó, ông Vũ gạt những bài du ký của Đông Hồ, những bài tùy bút của bà Mộng Tuyết và bà Mai Huỳnh Hoa (lấy bút hiệu Quỳnh Hoa) qua một bên. Có lẽ Vũ tiền bối bị dị ứng với lối ăn điệu đà thêu hoa dệt gấm của họ chăng? Bà Quỳnh Hoa là cháu kêu nhà chí sĩ Nguyễn Đình Chiểu bằng ông cố, kêu nữ sĩ Sương Nguyệt Anh băng bà ngoại. Bà là vợ nhà cách mạng Đệ tứ Cộng Sản Phan văn Hùm và cũng là mẹ ruột của kịch tác gia Phan Tùng Mai.
Phải đợi đến sự xuất hiện của Bình Nguyên Lộc trên văn đàn, thì giọng văn miền Nam, ngôn ngữ miền Nam mới được chiếu cố khá nồng nhiệt. Nồng độ nhiệt thành càng tăng thêm qua các tác phẩm của Sơn Nam và của nhà văn nữ Vân Trang tác giả tập truyện ”Một Lá Thư Tình”). Bà Vân Trang vào năm 1957 tới năm 1965 là một cộng tác viên cần mẫn trong ban biên tập của tạp san Bách Khoa, Mai. Đến khi có sự xuất hiện của Lê Xuyên trên các nhật báo, qua loạt tiểu thuyết đăng từng ngày như ”Vợ Thầy Hương”, ”Chú Tư Cầu”, ”Rặng Trâm Bầu”, ”Kinh Cầu Muống”, ”Xinh”, ”Nguyệt Đồng Xoài” v.v… thì ngôn ngữ miền Nam được đương sự khai thác sung mãn và lộng lẫy. Trong nhóm nhà văn trẻ a bán thập niên cuối của thập niên 60, chỉ có Nguyễn thị Thụy Vũ gốc miền Nam viết văn miền Nam khá tới. Trong khi đó, Triệu Triệu, Tiêu Kim Thủy, Hàn Song Thanh, Dương Tro La, Trương Đạm Thủy, Hoài Điệp To, Phương Triều thì viết văn theo kiểu Bắc Nam lẩn lộn, rau muống trộn giá sống, mắm tôm pha mắm sặt.
Vậy thì Hồ Biểu Chánh là kẻ làm cho độc giả bắt đầu yêu thích lối viết văn miền Nam, nhưng phải đợi 20, 30 năm sau, chính Bình Nguyên Lộc không cần mang cờ quạt, biểu ngữ , nhưng vẫn làm cuộc hành trình vào ngôn ngữ miền Nam, gây nhiều tiếng vang tốt đẹp và gieo niềm tin cho người cầm bút miền Nam để viết văn bằng ngôn ngữ, bằng giọng điệu miền Nam.
Vậy thì hễ nói tới ngôn ngữ và văn chương miền Nam là phải nghĩ ngay tới Bình Nguyên Lộc cũng như nói tới sóng thì phải nghĩ ngay tới nước: Bình Nguyên Lộc là sóng, cõi văn chương miền Nam là nước vậy.
Bình Nguyên Lộc suốt 20 năm văn học miền Nam (1954 – 1975) đã lôi kéo (bằng ảnh hưởng của văn chương anh) một số người cầm bút miền Nam viết văn rặc giọng điệu và ngôn ngữ miền Nam như Sơn Nam, Lê Xuyên, Huyền Phong Tử(tác giả quyển tiều thuyết ”Ông Xã Hòa”), hai bà Vân Trang và Nguyễn thị Thụy Vũ. Anh còn quyến rũ nhiều nhà văn gốc Bắc như Nguyễn Hoạt, Vũ Bằng, Thanh Tâm Tuyền, Nhật Tiến, Viên Linh, Nguyễn Thụy Long, những nhà văn gốc Trung như Võ Phiến, Nguyễn văn Xuân, Phan Du viết văn theo phong cách văn miền Nam. Trong số này thì có Võ Phién, Thanh Tâm Tuyền, Viên Linh và Phạm Hồ viết rất vững vàng. Còn những nguời khác thì viết ba trật bốn vuột, nhưng cũng tếu đậm như các cây bút Nam Kỳ chính cống, cũng toát ra cái phong thái hào sảng, cái vẻ phơi phới thật quyến rũ. Thật tình, Bình Nguyên Lộc không bao giờ cổ võ, hô hào ngôn ngữ miền Nam gì ráo. Anh cũng chẳng xúi giục, dụ dỗ ai hết. Nhưng văn chương miền Nam dưới ngòi bút anh và nhất là của Lê Xuyên rất tượng hình, tượng thanh, duyên dáng lạ kỳ, dễ thương độc đáo dễ lôi cuốn các cây bút miền Bắc có lòng với ngôn ngữ miền Nam.
Trong cuốn ”Văn học Miền Nam tổng quan”, nhà văn Võ Phiến có viết:
… Có thể nói tất cả sáng tác của Bình Nguyên Lộc, Ngọc Linh, Sơn Nam, Vũ Bình, Nguyễn thị Thụy Vũ đều chú trọng vào nếp sống, vào xã hội, phong tục miền Nam. Và đó là cả một lãnh vực tân kỳ phong phú. Chúng ta đã có miền Nam từ ba trăm năm, nhưng người Việt miền Bắc miền Trung mấy ai biết về đời sống trong Nam trước ”Rừng Mắm” của Bình Nguyên Lộc, ”Hương Rừng Cà Mau” của Sơn Nam. Những sáng tác như thế ma ra trước con mắt của đồng bào khắp nước một thế giới vừa thân yêu, vừa mới lạ biết chừng nào. (trang 32)
Viết về đất nước miền Nam, bằng ngôn ngữ văn chương miền Nam, Bình Nguyên Lộc lẫn Sơn Nam viết bằng cả tâm tư. Động lực nào thúc đẩy họ?Hãy nghe Võ Phiến cũng trong cuốn ”Văn Học Miền Nam Tổng Quan” phân trần như sau:
… Nhất là những tác giả như Bình Nguyên Lộc như Sơn Nam, vốn tha thiết với quê hương rất mực. Một vị ”chuyên trị” miền Đông, một vị ”chuyên trị” miền Tây, một vị chiếm lĩnh Tiền Giang, một vị Hậu Giang, họ đi sâu vào cuộc sống, vào lịch so địa phương, phát huy cái hay cái lạ làm cho miền Nam càng ngày càng bày ra những cái quyến rũ không ngờ. Những ”Đò Dọc”, ”Rừng Mắm”, ”Ba Con Cáo”, ”Hương Rừng Cà Mau, ”Thổ Ngơi Đồng Nai”, ”Tìm Hiểu Đất Hậu Giang” v.v… của họ đã hay, sa dĩ càng hay là vì sự thưang thức đầy cảm tính và khích lệ của đồng nghiệp Trung và Bắc… (trang 34)
Cuộc nội chiến Quốc Cộng đã giới hạn tầm mắt của thị dân, đã đưa một số trưang giả chốn hương thôn ra định cư a các thành phố, đã đóng khung cõi văn chương đa số người cầm bút. Những nhà văn trang lứa với bút giả như Trần Hoài Thư, Y Uyên, Nguyên Vũ chỉ viết thôn quê qua các bối cảnh tiền đồn, những vùng xôi đậu, những nơi có xảy ra các cuộc hành quân, các cuộc chạm súng. Cái thôn quên thuần túy bị ”chiến tranh hóa”, bị ”thời cuộc hóa” nên mất mát nhiều bản sắc nguyên sơ. Chỉ có những người cùng lớp thế hệ với Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lê Xuyên và có óc quan sát tinh nhuệ và có rung cảm sâu sắc như họ mới viết được cảnh hương thôn trên dải đất Nam Kỳ Lục Tỉnh vào thua cựu trào va nhất là vào thời tiền chiến mà thôi.
Những lớp nhà văn hậu sinh của Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam và Lê Xuyên tức là những nguời gốc miền Nam thì chỉ có Xuân Vũ, Hồ Trường An là có thể lấy bối cảnh vào thời tiền chiến. Vào thời tiền chiến, Xuân Vũ đã là một cậu trai mới lớn, trí óc có thể thu nhận những gì mà mắt thắy tai nghe đang hoạt diễn trước mắt. Hồ Trường An phải cậy nhờ sách vở, những câu chuyện kể của các bậc trưởng thượng vì vào năm 1945 khi ngòi loa chiến tranh vừa ngún cháy toàn cõi Đông Dương thi đương sự chỉ có 5 tuổi. Nhưng khi vừa vào trung học, đương sự ham học hỏi ởcác nông dân lão thành, a các khách thương hồ lịch duyệt, nhất lại nhờ ông thân sinh Mặc Khải mà đương sự biết mọi cơ cấu hành chánh trong làng. Thua ấy trong mỗi làng có ban Hương Chức Hội Tề gồm 12 hai vị: Hương cả, hương chủ, hương sư, hương trưang, hương chánh, hương giáo, hương bộ, xã trưởng, huơng quản, hương thân, hương hào và chánh lục bộ. Các ông kỳ lão từ hương cả cho tới hương chánh là đại biểu tiếng nói của dân chúng trong làng. Họ chủ tọa các buổi lễ cúng đình, cùng lễ kỳ yên (tức là lễ cầu an). Còn hương giáo thì phân xửviệc kiện cáo nho nhỏ xảy ra trong làng, trong xã, trong xóm. Hương quản coi việc an ninh. Chánh lục bộ coi sổ hộ tịch: làm khai sanh, làm giấy khai to v.v… cho dân làng, trước khi di chuyển công văn ra tổng, huyện, phủ, tỉnh. Lại có thêm thầy thôn chuyên lo việc công nho (tức là ngân khoản tài chánh trong ban Hương Chức Hội Tề). Ngoài ra, ban này cắt đặt thêm các ông hương nhứt, hương nhì, hương việc để lo sắp đặt trà rượu, tiệc tùng khi có quan trên tới viếng. Ông hương kiểm chuyên kiểm kê tài sản, ruộng vườn của làng, rồi giao tiền thu hoạch cho thầy thôn. Ông huơng cúng chuyên việc mua sắm thực phẩm để dọn tiệc cúng đình, cúng lễ kỳ yên: mua vài con heo để quay và nấu cháo lòng, mua nếp để dọn hàng chục mâm xôi. Ngoài ra ông ta còn lựa hàng chục chình rượu và hàng chục thứ linh tinh khác cho chú hương bếp điều khiển các phụ nữ trong làng nấu nướng.
Làng thôn thời tiền chiến bước sang thời Đệ nhất Cộng Hòa biến thành xã ấp. Còn ban Hương Chức Hội Tề biến thành Hội Đồng Xã. Vào thời Đệ nhị Cọng Hòa, trên các tuyến đường quốc lộ, hưong lộ, các chòi canh thay thế đồn bót Nghĩa quân. Các quận có chi y tế, chi Thông Tin, chi bưu điện. Duy đình làng vẫn còn đó. Nhà việc làng dành cho ban Hương Chức Hội Tề trước kia thì giờ đấy tra thanh trụ sa Hội Đồng Xã. Mỗi năm vẫn có lễ cúng đình, rước sắc thần từ nhà việc làng qua đình bằng kiệu bông có hương án long trọng.
Ở hải ngoại, các cây bút miền Nam viết truyện miền Nam như Nguyễn văn Sâm, Võ Kỳ Điền, Nguyễn Tấn Hưng, Nguyễn Đức Lập, Phan thị Trọng Tuyến, chỉ viết về cảnh sống ở tỉnh lỵ hoặcởThủ đô Sài Gòn. Nguyễn thị Ngọc Nhung có thể lấn sâu ngòi bút vào thời chiến tranh Đông Dương, chị viết về những cuộc xung đột giữa Hoà Hảo và Việt Minh dọc theo sông Hàm Luông. Kiệt Tấn viết cuốn truyện dài ”Lớp Lớp Phù Sa” a miệt Hậu Giang, chỉ kể chuyện sa đà mà không viết nổi khung cảnh cuộc đất thấm phèn chua cùng con cá lá rau a đó. Ngô Nguyên Dũng viết về cuộc chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh ởmiền Tiền Giang đất nước Nam Kỳ mà không nói tới mặt trận Cao Hoà Bình (Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên). Bác sĩ Huỳnh Hữu Cữu viết về cảnh thôn quê khi còn thơ ấu, nhưng sự thu thập kiến thức về khung cảnh địa phuơng không được nhiều vì thua ấy, anh còn bé quá, óc quan sát chưa nẩy na. Nguyễn văn Ba qua cuốn ”Làm Mai, Lãnh Nợ, Gác Cu, Cầm Chầu” và Phùng Nhân qua truyện dài ”Vàm Cả Cao” chỉ viết miền quê Tiền Giang vào hai thời Cộng Hòa. Trần Long Hồ với bộ trường giang ”Dung Thân” nói về cuộc đổi đời ? miệt Hậu Giang sau cơn quốc nạn 30/4/1975. Sĩ Liêm với hai tập truyện ”Tình Nghĩa Thầy Trò”, ”Những Mảnh Đời Chắp Vá” thì viết về nếp sinh hoạt ởThủ đô Sài Gòn sau ngày Việt Cộng bạo chiếm miền Nam, đôi khi đương sự viết về miền quê ngoại của mình nằm bên sông Vàm Cỏ Tây.
Những kẻ sinh ra vào 5 năm chót của thập niên 30 tra về sau thật sự đánh mất thôn quê nguyên sơ, thuần túy huống hồ là những nhà văn sinh vào thập niên 50. Dù không viết được một thôn quê tiền chiến, song ngôn ngữ miền Nam, văn chương theo giọng điệu miền Nam mà Bình Nguyên Lộc khai công dựng lại trên cái nền tảng của Hồ Biểu Chánh đã hướng dẫn các cây bút gốc miền Nam a hải ngoại kết thành một lực lượng hùng hậu. Xin kể thêm các nữ sĩ gốc Nam Kỳ Lục Tỉnh như Song Thi với tạp bút ”Dỗ Giấc Đêm Dài”, Hoàng Dược Thảo với quyển ”Tiểu Thư”, Hồng Lan với tập truyện ”Như Khói Lam Buồn”, Dư thị Diễm Buồn với các quyển tiểu thuyết ”Chân Trời Hạnh Phúc”, ”Trong Lâu Đải Kỷ Niệm”, ”Xa Bến Thiên Đường”, ”Vén Màn Sương Mộng”, ”Ngoài Ngưỡng Của Chiêm Bao”, ”Một Góc Trời Thôn Dã”.., Việt Dương Nhân với hai tập truyện ”Gió Xoay Chiều”và ”Đàn Chim Việt” v. v…
Đa số những kẻ viết về Bình Nguyên Lộc chỉ nói tới sự nghiệp văn chương và sự nghiệp biên khảo của anh rất nhiều, nhưng họ không nói tới (hoặc nói rất ít ảnh hưởng của anh trong công việc viết văn bằng giọng điệu ngôn ngữ miền Nam. Thật là một sự thiếu sót! Cái ảnh hưởng ấy vẫn còn theo chân một số người cầm bút gốc miền Nam di tản ra bốn phương trời hải ngoại. Văn chương của họ thao thức mãi trong cõi thưang ngoạn của độc giả kiều bào đã từng sống ởMiền Nam Việt Nam từ sông Bến Hải tra vào (gồm người Bắc di cư và người Nam bản xứ). Văn chương ấy kéo dài mãi trong niềm khao khát những kẻ yêu mến một miền đất nước tự do dân chủ xa xưa, nơi ấy nồng ấm tình người, phong phú con cá lá rau, tràn đìa món ngọt ngọt bùi bùi thấm đượm quốc túy quốc hồn .Và có quá ngắm lắm hay không vì nó chỉ kéo dài trên 20 năm mà thôi?

Vào Vườn Văn Chương
Của Võ Thị Điềm Đạm
Qua Tập Truyện “Thiên Thanh”

Tôi được biết nhà văn nữ Võ Thị Điềm Đạm chừng hai năm qua một vài truyện ngắn đã đăng đâu đó. Bởi tôi đọc gấp rút và lơ đễnh nên không nắm ý tình của văn chương chị bao nhiêu. Nhưng được tin chị chiếm giải văn chương do Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do năm 2008 và tình cờ đọc một bài phỏng vấn chị do nhà báo Tô Vũ thực hiện. Bài này đã đăng trên website Nam kỳ Lục tỉnh (www.namkyluctinh.org) nên tôi nghĩ rằng đây là nhà văn gốc Nam Kỳ nên tôi gởi vi thư chúc mừng chị.
Mối giao tình do văn chương kết hợp khởi đầu từ đó. Cho tới tiết sơ thu trên đất Pháp thì nó đã ngót nghét vài tháng rồi. Và chị ngỏ ý nhờ tôi viết BẠT cho tập truyện ”Thiên Thanh” của chị. Vậy là tôi có dịp đi vào khu vườn văn chương của một nhà văn nữ gốc Phan Thiết đã từng sống ở Sài Gòn từ năm mười sáu tuổi.
Các bạn độc giả có thể lầm tưởng rằng Võ Thị Điềm Đạm là cây bút Nam Kỳ vì giọng văn của chị rất là Nam Kỳ còn hơn là giọng văn của các nhà văn gốc Nam Kỳ chính cống như Phan Thị Trọng Tuyến, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Trần Thị Kim Lan ở hải ngoại và xa hơn như Nguyễn thị Thụy Vũ vào thời chiến tranh Quốc Cộng, trước năm 1975. Điều ấy có gì lạ đâu. Tỉnh Phan Thiết ở vào vị thế cánh cổng đi vào cuộc đất Nam Kỳ Lục Tỉnh cho nên ngôn ngữ và cách phát âm dân Phan Thiết giống ngôn ngữ và cách phát âm dân Nam Kỳ 100%. Bởi thế cho nên vào thập niên ba mươi, nữ nghệ sĩ nền ca kịch cải lương là cô Sáu Ngọc Sương ca cổ nhạc Nam Kỳ rất rựa ràng, diễn những vai lẳng hay vai thương cảm có kém gì hai nữ nghệ sĩ Ngọc Hải hay Kim Cúc trên sân khấu Việt Kịch Năm Châu và có thể chen lấn vào hàng ngũ Năm Phi, Phùng Há, Bảy Nam, Thanh Tùng, Kim Thoa, Thanh Loan, Sáu Nết, Kim Cúc, Kim Lan, Ngọc Hải…
Văn phong của Võ Thị Điềm Đạm chẳng những giống y chang người Nam Kỳ mà cái phong thái trong văn lại hiện lồ lộ trạng thái tinh thần (la mentalité) người Nam Kỳ một cách đậm đà duyên dáng. Có thể ở ngoài đời chị là một nhân vật điềm đạm, ôn nhu. Nhưng trong văn chương, dù không suồng sã, lả lơi, bộc tệch, nhưng bút pháp chị biểu hiệu một giọng điệu nghịch ngợm, dí dỏm, rạng ngời một tâm hồn lạc quan trong đa số truyện ngắn. Văn phong của Võ Thị Điềm Đạm không thể tượng trưng cho nét thêu tỉ mỉ trên lụa, trên nhung, cũng không gợi nên nét bút khải thư (chân phương) ở vẻ chăm chút và xương kính. Nó cũng không gợi nét phóng bút hoành tráng trên bức đại tự. Đây là biểu tượng nét chử thảo cực kỳ uyển nhuyển, bay bướm và lả lướt mà không mạnh bạo đến độ phóng cuồng, ngạo mạn.
Tập truyện ”Thiên Thanh” gồm có mười lăm truyện ngắn :
Điệu Luân Vũ Bên Bờ Donau
Lãng Đãng Thức Mây
Mùa Russ
Hai Người mẹ Nhỏ
Đời Tôi Là Thế Đó!
Cà Ty Tự Khúc
Mãi Mãi…
Nỗi Đau Này Biết Nói Đến Bao Giờ?
Thiên Thanh
Em
Hồi Đó…
Căn Bệnh Hiểm Nghèo
Tình Xuân Cuối Đời
Trong Con Hẻm Cụt

“Thiên Thanh” không quy tụ những truyện ngắn chung một đề tài thuần nhất. Rất nhiều đề tài được tác giả khai thác một cách chi ly tỉ mẫn nhưng vô cùng hào hứng. Chị có kinh nghiệm sống phong phú, có sự quan sát tinh nhuệ, có tư duy sâu sắc và có sự cảm ứng bén nhạy. Thế giới văn chương của chị nhờ vậy mà đa dạng đa sắc, tình người của chị thêm bát ngát mênh mông và ăm ắp niềm thông cảm.
Trong tập truyện ”Thiên Thanh” có truyện mô tả nghịch cảnh với các nhân vật sống trong góc kẹt tối tăm dẫy đầy ngang trái đau lòng, giữa lòng xã hội phức tạp. Xin hãy xem hoàn cảnh thằng bé mồ côi Rune trong truyện ngắn Đời Tôi Là Thế Đó! ”. Ở đây, thân phận trẻ em mồ côi được các cơ quan từ thiện do đạo Gia-Tô sáng lập mà kẻ thừa sai lãnh phần chăm sóc những trẻ bất hạnh không do lòng bác ái do Chúa Ki-Tô xiển dương mà do sự trói buột lỏng lẻo của bổn phận đúng hơn. Chúng ta còn chứng kiến qua ngòi bút phanh phui sắc của nhà văn họ Võ cảnh hai cô bé nghèo nàn săc sóc đứa em trai, một trong gia đình li dị bên Na Uy, một trong gia đình mẹ chết sớm chỉ còn cha và bà ngoại già yếu trên đất nước Việt Nam qua truyện ngắn”Hai Người mẹ Nhỏ”. Chúng ta còn được tác giả mời dự khán hoàn cảnh những nàng chinh phụ trong cuộc chiến Đông Dương giữa Pháp và Việt Pháp và trong cuộc nội chiến Quốc Cộng qua truyện ngắn đậm đà sắc thái tùy bút ”Nỗi Đau Này Biết Nói Đến Bao Giờ ?” Những đề tài này không phải chẳng có ai khai thác ; nhưng những chi tiết đặc thù và cực kỳ sống động làm cho chúng trội hẳn những cây bút tả chân hiện thực vốn chỉ là chân tháp ngà hóng chuyện hoặc đọc báo rồi tưởng tượng vẽ vời thành một câu chuyện hẳn hoi.
Chi tiết trong các tác phẩm càng nhiều bao nhiêu càng nâng giá trị của tác phẩm, càng nhen nhúm thêm sự sống động lẫn sống thực cho tác phẩm, càng tô thêm cái đẹp của bút trình tác giả bấy nhiêu. Những truyện vừa kể trên đượm đà tính chất tả chân hiện thực, luôn cà truyện ngắn ”Cà Ty Tự Khúc”. Truyện này dù tác giả nhân cách hóa con sông thành một nhân chứng lịch sử, đã từng chứng kiến hoàn cảnh và tâm tình một gia đình trong cuộc chiến chống Pháp. Tới ngày tàn cuộc chiến, sau hiệp định Geneva, người chồng theo cánh Việt Minh Cộng Sản tập kết ra Bắc, rồi kẹt luôn ngoài ấy suốt hai mươi năm sau. Người vợ ở miền Nam thủ tiết nuôi đứa con gái cho tới khi nó trở thành thiếu nữ lấy chồng là một sĩ quan của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Khi người chồng tập kết trở về thì người vợ đã quá tuổi thanh xuân, còn ông thì đã có vợ khác. Muốn chuộc lỗi lầm của mình, ông giúp vợ con mình vượt biên. Dòng sông Cà Ty đưa hai mẹ con ra biển, thầm chúc cho cả hai được đến bến bờ tự do. Câu chuyện dù có khoác nếp áo hòa hoa thơ mộng nhưng nội dung và tình tiết câu chuyện vẫn là chuyện hiện thực.
Còn truyện ”Căn Bệnh Hiểm Nghèo” Nói tới xã hội đỏ đen lậu của người Hoa Kiều trên nước Na Uy. Người con trai thua bạc liên miên, nợ nần chồng chất. Bà mẹ vì thương con, muốn giúp đỡ con, nhưng e ngại bố dượng của đương sự eo sèo nên toan li dị người chồng chắp nối của mình để giúp tiền bạc cho con mà không bị chồng trách móc. Sự hy sinh cua mẹ làm người con trai hồi tâm, quyết định bỏ thói ham mê cờ bạc để làm lại cuộc đời. Ở đây, sự hy sinh vô điều kiện của bà mẹ làm loãng nhạt tính chất hiện thực ít nhiều, nhưng nó hiển lộ lòng mẹ sáng lộng lẫy như bóng trăng rằm.

Như tôi đã nói, tập truyện ”Thiên Thanh” có nhiều đề tài đa dạng. Nó lại còn có nhiều chất liệu phong phú, có nhiều khía cạnh xã hội phồn tạp. Điều ấy chứng tỏ tác giả đã đi và sống nhiều nơi, thu thập nhiều kinh nghiệm sống quý báu rất cần thiết cho một cây bút tả chân hiện thực.
Trong tập truyện có vài hình bóng của người đàn bà tị nạn Việt Nam sống êm đềm hạnh phúc bên người chồng bản xứ và những đứa con mà nhận thức về quê ngoại còn mơ hồ. Nhưng người đàn bà lấy chồng dị chủng lại không quên cái truyền thống dân tộc mình. Đó là bà Minh, vợ ông Lars-Erik, mẹ cô nữ sinh Stella trong truyện « Mùa Russ ». Bà thấy bọn học sinh chơi giỡn quá luông tuồng nên sợ con gái mình lơ là chuyện đèn sách nên muốn cho con giữ sự quân bình giữa hai vấn đề ăn chơi và học hành. Bà thường khuyên răn con gái bằng câu : « Học mà không chơi uổng đời tuổi trẻ. Chơi mà không học bàn rẻ tương lai. »
Trong truyện ”Mãi Mãi” cô bé nữ sinh cũng có bà mẹ Việt Nam. Bà ta dù đã an cư lạc nghiệp bên người chồng Na Uy và có đứa con gái ngoan chăm chỉ học hành, nhưng bà làm sao quên được cơn ác mộng trải dài suốt một chặng đường lịch sử trên đất nước quê hương của mình. Bà cũng không thể quên nỗi khó khăn trong việc hội nhập vào nước Na Uy để đất nước ấy trở thành quên hương thứ hai của bà sau này. Cho nên bà giúp con gái mình làm một bài luận văn trả rộng tâm tình cùng hoàn cảnh của mình. Có vậy Stella mới phóng bút làm một bài luận xuất sắc nhất trong lớp.
Trừ truyện thứ nhất trong tập truyện với cái tựa : ”Điệu Luân Vũ Bên Bờ Donau”, hình ảnh quê hương Phan Thiết nếu không xen kẻ hoặc rỉ rả len lỏi vào cuộc sinh hoạt cùa kiều bào trên đất Na Uy. Tuy nhiên cùng với ba truyện ngắn : ”Cà Ty Ca Khúc”, ”Tết Phan Thiết”, ”Hồi Đó” được tác giả vạch lên những nét tạo hình rất thân thương. Đây là cái Tết ở làng Đại Nẫm quê nội lẫn quê ngoại của tác giả, một làng trù phú ở vùng phụ cận thành phố Phan Thiết. Những nét cổ truyền, một vài phong vị trong những ngày đón xuân ở Phan Thiết phản ảnh 95% được hình bóng cái Tết ở đất nước Nam Kỳ Lục Tỉnh. Nhưng có khác chăng là nhờ vào đất đai trù phú, nên dân Nam Kỳ Lục Tỉnh từ bậc trung lưu trở lên sắm sửa nhiều món ăn ngon hơn như canh hầm, bì gói, nem chua, dưa hấu… ? Dân Phan Thiết đa số dư ăn dư để cũng có thể hiện được những món trân cam giai nhục như thế, nhưng có phải chăng tác giả kể qua loa vài món tiêu biểu nên bò sót vài món cổ truyền đi ? Hoặc là có phải thuở chị còn ăn Tết ở tại quê nhà, óc quan sát của chị vì bị ám ảnh bởi chiến tranh nên không được tinh nhuệ nên chị quên đi vài món ăn hâm đi hâm lại nhiều ngày để ăn tới hôm cúng tất (người Bắc gọi là cúng hóa vàng) ? Không đâu. Tết Phan Thiết có những món ngon vật lạ khác mà Tết Nam Kỳ không có như rượu nếp than, cơm rượu, cốm, thịt bò ướp sả ớt cuốn từng lọn, măng kho… Cái Tết Phan Thiết trong văn chương Võ Thị Điềm Đạm chúng ta không biết có phải vào thuở thanh bình hay vào thời chiến tranh, nên độc giả không nghe được một tiếng pháo nào hoặc tiếng súng nào.
Còn truyện ngắn”Hồi Đó… ” tuy tác giả nhắc lại chuyện ăn trầu xỉa thuốc của bà nội và của mẹ mình cùng chuyện đi xem hát bội thuở ấu thơ của mình, nhưng đây không phải là truyện phong tục đơn giản mà nó trói buộc vào thời khói lửa giữa hai phe Quốc Cộng tương tranh. Chuyện trầu cau vôi thuốc, chuyện hát bội theo dòng biến chuyển sinh diệt dần dần rút lui ra khỏi đất nước chúng ta khi thế hệ dân chúng sinh trưởng vào đầu thập niên bốn mươi lần lượt trưởng thành. Tới thập niên bảy mươi, chúng còn tồn tại chăng thì cũng chỉ xuất hiện lẻ tẻ hoặc sinh hoạt yếu ớt. Đọc ”Hồi Đó… ”, chúng ta mới thấm thía hai mặt trái và thật của nghệ sĩ sân khấu. Các diễn viên vốn là những kẻ tầm thường về sắc vóc, thân thế, cách sinh hoạt ở ngoài đời. Nhưng khi họ xuất hiện trên sân khấu, nhờ ánh đèn rọi, phấn son, y trang, hia mảo, nghệ thuật ca diễn biến đổi họ thành những nhân vật xuất chúng làm người xem ngưỡng mộ say mê. Đó là hai bản mặt của một đồng tiền, hai nhân vật của một con người. Hoặc nói theo kinh Phật, đó là hai Tướng (hiện tượng) cùng một Tánh (bản thể).
Truyện ngắn ”Trong Con Hẻm Cụt” không phải chỉ là truyện hiện thực suông trơn đâu, mà là bức tranh buồn thảm về cuộc đời một thiếu nữ bị người đời bỏ quên thuở cô ta còn là nữ sinh, sống nghèo nàn trong hẻm cụt. Cô cố gắng ăn học để khi ra đời có công ăn việc làm đỡ cực nhọc khác hơn mẹ và chị của mình. Trong lớp cô không tham gia vào sinh hoạt của bạn bè nên thét rồi chẳng ai thèm chú ý đến cô. Khi ra trường, cô dạy học ở một tỉnh lỵ khuất lánh. Sau khi đất nước bị Cộng quân cưỡng chiếm, cô vẫn sống thui thủi. Nhưng sau khi cha mẹ chết, cô về căn nhà cũ mở lớp dạy học, tìm lại được ánh mắt và nụ cười thân thương của học trò.
Võ Thị Điềm Đạm đâu có quên độc giả thích ngược dòng dĩ vãng để trở về tuổi trẻ. Có nghĩa là chị vẫn cống hiến cho họ nhiều chuyện tình. Không phải chỉ toàn là những chuyện tình suông trơn mà đa số là chuyện tình có gắn bó vào mệnh nước nổi trôi và vào những sóng lớp phế hưng của lịch sử.
Qua truyện ngắn ”Em”, chúng ta gặp gỡ bà Thư cựu nữ sinh Sài Gòn đã từng yêu Hải, được hãnh diện và hạnh phúc khi được xưng em với chàng. Khi đất nước đổi cờ, cả hai vĩnh viễn xa nhau. Thư vượt biên và định cư bên Na Uy, lấy chồng bản xứ. Trong cơn ân ái mặn nồng Harald, chồng Thư mong Thư nói những câu âu yếm yêu đương bằng tiếng Việt cho chàng nghe, nhưng Thư chỉ siết chặt chồng, hôn chồng thắm thiết hơn. Nàng không muốn xưng ”em” với chồng và nói những câu âu yếm bằng tiếng Việt. Sau mười năm xa Hải, sau hai mươi năm làm vợ Harald, nàng chỉ muốn dành những câu ân tình xa xưa mãi mãi cho Hải. Điều đó, ghi một vết chàm trong lòng Harald.
Truyện ngắn ”Thiên Thanh” là một câu chuyện tình giữa anh tiền tuyến và em hậu phương. Sau khi miền Nam Việt Nam bị thất thủ, tác giả buông lửng ở đây, không cho chàng ngã gục trong cuộc đụng độ cuối cùng. Chị cũng không tiêp tay Việt Cộng thảy chàng vào trại tù cải tạo. Tuy nhiên, Sương, cô em nữ sinh viên vẫn triền miên phân vân lo lắng số phận người bại binh sẽ ra sao.
Đây là hai đề tài hấp dẫn cho đa số nhà văn nữ lẫn nữ độc giả. Đề tài nàng cô phụ khi kết hôn vẫn còn mang theo hình bóng cố nhân. Thảo nào mà quyển ”Dứt Tình” của Vũ Trọng Phụng hồi tiền chiến bán chạy như tôm! Thảo nào mà quyển ”Sống Chỉ Một Lần” của Mai Thảo hồi còn trong nước tái bản sáu lần, mỗi lần năm nghìn ấn bản! Thảo nào mà hai bài thơ ”Hai Sắc Hoa Ty-gôn” và ”Bài Thơ Đan Áo” của T.T.Kh được hàng triệu độc giả yên thơ ngưỡng mộ! Dân tộc nào mà chẳng có đa số độc giả hâm mộ văn chương suy tôn tình yêu? Nhà văn Đức với E. M. Remarque trong truyện dài ”Le Temps D’Aimer et le Temps de Mourir” đã gặt hái cả sông cả biển nước mắt khán giả trên toàn cầu; đến khi điện ảnh gia Douglas Sirk chuyển thể tác phẩm thành phim đã nâng cao tên tuổi đôi tài tử John Gavin và Lisolette Pulver trong bóng tối lờ mờ nhảy ra thành minh tinh. Nữ sĩ Hàn Tố Anh (Han Suyin) vốn cha Tàu mẹ Bỉ viết mấy cuốn sách đầu bằng chữ Anh không mấy ăn khách. Nhưng đến khi bà tung ra quyển tiểu thuyết tự truyện ”A Many Splendored Thing” thì hàng triệu con tim các độc giả trên thế giới phải rung động bàng hoàng. Điện ảnh gia Henry King chuyển thể nó thành cuốc phim ”Love is a Many Splendored Thing” (”Tình Yêu Lộng Lẫy”) làm cho đôi minh tinh William Hodden và Jennifer Jones leo lên tuyệt đỉnh danh vọng. Đã vậy tiếng hát truyền cảm của Andy Williams qua ca khúc cùng tựa với quyển tiểu thuyết và cuốn phim nhờ thế mà đi sâu vào vào cõi thưởng ngoạn của thính giả sành điệu quốc tế từ thập niên năm mươi đến giờ.
Truyện ngắn ”Lãng Đãng Thức Mây” nói lên tình yêu của một cặp vợ chồng tuổi bước vào mùa thu cuộc đời. Minh, người chồng thường chat qua internet với cô tình nhân Tím Tím. Thu, người vợ không biết xài internet, nhưng nghi ngờ chồng mình thường trò chuyện bằng chat với người đàn bà khác nên nàng âm thầm khổ sở vì ghen tuông. Tuy nhiên Minh còn yêu vợ nhà. Màn chat chót, chàng chuyện trò mùi mẫn, âu yếu du dương với Tim Tím, nhưng chàng thổ lộ với cô ta rằng chàng vẫn yêu Thu trước sau như vậy. Cử chỉ hồi ”chánh” là rủ vợ đi du lịch bên Luân Đôn và xem ca kịch. Chắc có lẽ Minh muốn tái diễn tuần trăng mật để chuộc tội với người vợ tào khang của mình chăng? Tuy nhiên, dù cuộc du lịch kia có tái, có nạm, có gầu chăng nữa thì tô phở ”Lãng Đãng Thức Mây” vẫn là một đề tài phổ thông. Tuy nhiên, nhờ văn phong nồng mặn thơm tho những gia vị mà nước lèo của tô phở vẫn hợp khẩu vị với mọi tầng lớp độc giả, vẫn quyết rũ đượm đà khó tả.
Đã viết về tình yêu, Võ Thị Điềm Đạm không nỡ bỏ rơi mấy ông già có cái trái tim mảnh mai nên dễ mẫn cảm trước cái vỗ nhẹ của những đợt sóng tình. Truyện ngắn ”Tình Xuân Cuối Đời” được diễn tả bằng những lời đối thoại thuần túy; tác giả thuật không cần thuật chuyện hay miêu tả. Đây là những lời đối thoại rặc ròng giọng điệu Nam Kỳ, tía lia một cách mặn nồng, véo von một cách duyên dáng. Nam nhân vật chỉ xuất hiện trong cuộc đàm đạo giữa bà vợ và cô cháu gái của ông ta; giữa cô cháu gái và người cô phụ tên Xuân Thảo mà ông chỉ gặp một lần nhưng ông đã yêu nàng bằng mối tình đơn phương. Đó là một ông già bảy mươi tuổi mắc bịnh ung thư, người nhà đoán chừng trong vòng hai năm là ông sẽ nhắm mắt buông xuôi. Nhưng mà không! Sau hai năm, ông lại có vẻ khỏe mạnh hơn, ăn mặc chải chuốc hơn, lại làm thơ và cho xuất bản hai tập thơ, lấy bút hiệu là Vĩnh Thường. Riêng thi tập có cái tựa ”Tình Xuân Cuối Đời” ông ta có đề giòng trang tặng: ”Trao về em thương yêu cuối đời” Qua cái tựa của thi tập, bà vợ và cô cháu tưởng là ông tặng thơ cho vợ vì bà tên Ngọc Xuân. Nhưng khi cô cháu viếng thăm cô bạn tên Xuân Thảo thì cô bạn cho biết rằng nhà thơ Vĩnh Thường thích điện đàm với cô và chỉ xin cô chấp nhận tình yêu đơn phương của ông ta. Những cuộc điện đạm ấy mới có thể tiếp sức sống cho ông ta. Bởi đó mà thi tập mới có cái tựa ”Tình Xuân Cuối Đời”. Và độc giả chúng ta chắc cũng thừa biết lời trang tặng ở trang đầu tập thơ dành cho Xuân Thảo chớ không phải cho bà vợ luống tuổi Ngọc Xuân.
Truyện ngắn ” Điệu Luân Vũ Bên Bờ Donau” không hẳn thuần túy là chuyện tình yêu của chàng nhạc sĩ Johann Strauss, người đã khai sinh ra thể loại vals (luân vũ) nhịp ba, mà là mối giao cảm giữa thơ, nhạc, hội họa và vũ điệu. Hai nhạc phẩm bất hủ của Johann Strauss được phổ thông trong trường nhạc giới Việt Nam là ”Le Beau Danube Bleu” (Phạm Duy phổ lời Việt với cái tựa ”Dòng Sông Xanh”) và ”One day, When You Were Young”. Sự sáng chế điệu vũ vals thật giản dị: Johann Strauss dạo dọc theo sông Danube (Người Đan Mạch thì gọi Danau) gặp những cô thiếu nữa giặt áo bên bờ sông. Các cô ấy lấy chiếc chày đập trên chiếc áo đã nhúng ướt nước, cứ hai cái đập nhẹ thì xen vào một cái đập mạnh. Điệu luân vũ thế là được chào đời qua bài ”Le Beau Danube Bleu”. Nhưng âm hưởng tuyệt phẩm âm nhạc ấy một khi chui vào cõi rung cảm và cõi thưởng ngoạn của Võ Thị Điềm Đạm rồi thì nó trở thành một câu chuyện truyền kỳ cực kỳ diễm lệ. Chị cho Johann Strauss sáng tác bài ”Le Beau Danube Bleu” có cái gì không ổn cho nên trong đêm mười bốn âm lịch chàng mơ thấy thần nữ Giáng Tiên trong giấc chiêm bao cho biết rằng xưa kia Johann Strauss là vua Lê Thánh Tôn, nguyên soái của tao đàn Nhị Thập Bát Tú đã từng gặp nàng tại chùa Ngọc Liên. Vua mời nàng về cung cấm, nàng nhận lời bước lên kiệu, buông rèm theo đoàn hành hương trở về Đế Đô. Nhưng khi tới nơi thì nàng biến mất. Huyền thoại đẹp ấy đã được đấng quân vương lỗi lạc về thi ca kia sáng tác bài thơ có hai câu: ”Gió thông đưa kệ tan niềm tục – Hồn bướm mơ tiên lẩn sự đời. Giáng Tiên còn cho nhạc sĩ biết: ”Thiếp muốn lấy khúc luân vũ gợi lên hồn nhạc trong hồn tiên đế.” Và nàng múa một điệu nhịp nhàng, xiêm y tha thướt bay tung theo từng bước nhảy. Hôm sau, vào đêm rằm thì có một mỹ nhân khác hiện đến trong giấc mơ của nhạc sĩ cho chàng biết tiền thân của chàng là họa sĩ Tú Uyên cư ngụ tại phường Bích Câu, còn nàng là tiên nữa Giáng Kiều đã được chàng thể dung nhan tuyệt trần của nàng trong bức tranh bất hủ của chàng. Nàng bảo Johann Strauss: ”Cung nhạc đêm qua chưa trọn, phiến nhạc đêm qua còn nhiều vấn vương. Nét nhạc đêm qua còn nhiều trống không. Điệu vũ đêm nay còn chờ bước chân thiếp…” Và Giáng Kiều nhảy theo điệu luân vũ, rót thêm nguồn cảm hứng vào hồn nhạc của Johann Strauss. Đêm mười sáu âm lịch, tiên nga Giáng Ngân lại hiện đến, bảo: ”Vâng, thiếp là nối tiếp của vầng trăng mười bốn ngập ngừng. Thiếp là nối tiếp của vầng trăng mười lăm hân hoan. Giáng Ngân là kết tinh của vòm trời xanh ngát với dòng Danau ngời xanh biếc trong giây phút đất trời giao hoan.” Nàng lại… múa để cho dòng nhạc trong cảm hứng chàng nghệ sĩ dập dìu nhún nhẩy thành điệu luân vũ bất hủ, để rồi bản ”Le Beau Danube Bleu” chào đời. Võ Thị Điềm Đạm đã nhờ ba nàng tiên nữ giúp Johann Strauss khai sinh một điệu nhạc phổ thông hơn loại nhạc cổ điển hay bán cổ điển Tây phương, cho chào đời một ca khúc theo thể điệu luân vũ mà ngày nay chúng ta có thể thưởng thức trong thính phòng hay vũ trường. Tác giả nhận chìm các cô thợ giặt xinh như mộng. Và các cô cũng không biết tiếng chày đập áo giặt của mình đã lóe trong óc sáng kiến của chàng Strauss một tia sáng kỳ diệu để sáng tạo điệu luân vũ như bài hoan ca hạnh phúc vĩnh cửu”Le Beau Danube Bleu”. Có vậy độc giả kiều bào chúng ta mới đọc được một truyện thần thoại diễm lệ dưới ngòi bút lưu loát của Võ Thị Điềm Đạm. Nhưng riêng với nhạc sĩ Phạm Duy, trong điệp khúc bài ”Dòng Sông Xanh”, anh vẫn có hai câu: ”Những cô em tươi môi, ngồi giặt yếm yên vui – Thả ý thắm mơ hồ chờ gió về xuôi” để hoài niệm các cô thợ giặt đã gợi hứng cho chàng nghệ sĩ hào hoa thành Vienne thuở trước. Và cũng để hoài niệm chàng nên vào năm 1938, điện ảnh gia Julien Duvivier thực hiện cuốn phim ”Toute la Ville Danse” (Tất Cả Thành Phố Khiêu Vũ) với đôi danh tài Fernand Gravey và Luise Rainier.
Truyện ” Điệu Luân Vũ Bên Bờ Donau” trình bày cho độc giả chúng ta cái óc tưởng tượng phì nhiêu và nguồn rung cảm phong phú bao la của tác giả.
Phan Thiết là một thị trấn khó quên đối với người bình dân miền Nam qua thứ nước mắm ngon nhất toàn cõi Việt Nam, món mắm cá thu độc đáo không thua các món mắm tôm chà, mắm tôm chua, mắm thái đất Nam Kỳ Lục Tỉnh. Đối với kẻ yêu nghệ thuật thì địa danh Lầu Ông Hoàng trở nên bất tử khi đi vào ca khúc ”Hàn Mặc Tử” của Trần Thiện Thanh nhằm vinh danh cuộc kỳ ngộ trong đêm trăng thanh giữa thi sĩ Hàn Mặc Tử và người đẹp Mộng Cầm. Lại còn tiếng hát của Nhật Trường, Thanh Thúy, Anh Khoa và Trang Mỹ Dung há không làm ngây ngất bàng hoàng thính giả trên miền Nam Việt Nam, suốt một giai đoạn lịch sử nước nhà, suốt một thế hệ trưởng thành vào hai thập niên sáu mươi, bảy mươi hay sao? Lại còn nữ nghệ sĩ Sáu Ngọc Sương trên các sân khấu đại ban như Phụng Hảo, Việt Kịch Năm Châu, Nam Lân, thường thủ vai đào nhì; nhan sắc nồng mặn, nét lẳng lơ tuyệt xảo, tài diễn xuất trào lộng đã làm cô nổi bật không kém các nữ nghệ sĩ thủ vai chính. Và tôi không quên Phan Thiết còn có các nhà thơ Phan Bá Thụy Dương, Lê Khắc Anh Hào gắn bó tha thiết với thi ca. Tôi càng không quên nhà báo quân đội Anh Thuần (Phan Bá Thuần Hậu, bạn tôi) với tấm lòng bền sắc tươi son trong lập trường chống Cộng, trong niềm yêu tha thiết nghề phóng viên; anh đã từng thức những đêm dài tâm sự với tôi cùng các phóng viên quân đội tại căn cứ Lai Khê vào Mùa Hè Đỏ Lửa (1971-1972).
Giờ đây, nơi chốn cùng thôn tuyệt tái ở vùng Champagne trên đất Pháp, tôi lại được đọc văn chương của Võ Thị Điềm Đạm, một cây bút phụ nữ gốc người Phan Thiết. Tôi tưởng chừng đây là một dân Nam kỳ chính cống với một bút pháp liếng thoắng, xôn xao, phóng túng. Tập truyện ”Thiên Thanh” là một hợp tác các bức tranh xã hội, những khía cạnh tâm tình. Nhưng bất cứ mọi bức tranh nào, mọi khía cạnh nào cũng được tác giả thu hình một cách chăm chút kỹ lưỡng: chọn một góc cạnh nổi bật, rọi ánh sáng sao cho những điều muốn diễn tả nổi bật lên như các chuyên viên thu hình thạo nghề trong bộ môn điện ảnh.

Hồ Trường An

Hồ Thụy Mỹ Hạnh

Hồ Thụy Mỹ Hạnh Gốc

Bất Chợt Mùa Thu

Bất chợt thu về trong sáng nay
Hàng cây như tỉnh giấc ngủ ngày
Lá vàng như thể không buồn rụng
Mặc gió vô tình khe khẽ lay…

Bất chợt người đi qua đời tôi
Mang theo tất cả những nụ cười
Và như khép kín hồn tôi lại
Để chỉ một người nơi ấy thôi.

Kỷ niệm chất đầy trong bơ vơ
Con đường như cũng biết đợi chờ
Rồi mai ai có về qua đó
Tìm thấy bóng mình trong ý thơ

Bất chợt thu về ngang qua tim
Để lại trong tôi những nỗi niềm
Những chiều nắng trải vàng mái phố
Nhưng nắng ngày xưa biết đâu tìm…

Đôi Bờ Mênh Mông…

Sông trôi về biển lớn
Còn biển trôi về đâu?. . .
Hai bờ đại dương ấy
Làm mình xa cách nhau

Lòng biển giấu bao điều
Muôn đời không ai biết
Như tình yêu của em
Có bao nhiêu tha thiết

Anh như cánh chim trời
Em ngóng hoài, vô vọng
Đôi bờ quá xa vời
Lòng em đầy tiếng sóng!

Cứ như là giấc mộng
Trong đêm dài cô miên
Đôi khi bàng hoàng gọi
Tên một người ngỡ quên

Sông không về biển lớn
Vì nhỏ nhoi, cạn giòng
Tình yêu không về bến
Vì đôi bờ mênh mông…

Thầm Lặng
Một Mùa Trăng

Mùa thu ơi! Thầm lặng một vầng trăng
Đêm nay lạnh rét run từng chiếc lá
Chia tay nhau ta trở thành người lạ
Và em nhớ anh vì gió những buổi chiều

Em nhớ anh có thể vì tình yêu
Hay có thể vì ngày xưa quá đẹp
Chia tay nhau cửa vào tim đã khép
Cung đàn năm xưa ai làm lỗi nhịp rồi

Mùa thu ơi! Vầng trăng có xẻ đôi
Kỷ niệm có sưởi cho hồn bớt lạnh
Em đan mộng để tình yêu chấp cánh
Dù mộng kia đâu trở lại bao giờ

Cuộc từ ly như thể tình cờ
Đêm Đà lạt thắp vào tim nỗi nhớ
Em có gì ngoài một vầng trăng vỡ
Nghe đêm sâu dằng dặc một nỗi niềm . . .

Mùa Xuân Đà Lạt

Rồi thì mai em sẽ trở về
Tạm biệt nhé buổi sớm mai Đà Lạt
Và tạm biệt những hàng cây ngơ ngác
Bụi đỏ, sương mù, đồi dốc chao nghiêng…

Những con đường rất đỗi ngoan hiền
Chiều rực lên ánh nắng vàng trải lối
Con dốc dài làm đôi chân mỏi
Mây ở đâu về quyện phấn thông bay

Rồi thì mai em tạm biệt nơi đây
Những hoàng hôn thành phố như cổ tích
Ngày tháng qua vơi dần bao trang lịch
Mà nỗi niềm sao chẳng thể nào vơi…

Dường như mùa xuân đã đến nơi rồi
Hoa cúc quỳ rực vàng quanh đồi núi
Không gian trẻ như chưa từng có tuổi
Đà Lạt trăm năm đã bừng giấc mộng rồi.

Em Không Thể Hình Dung

Em không thể hình dung nếu có một ngày
Khoảng trời rộng bên ngoài kia sẽ khác
Khung cửa sổ hoàng hôn về tím nhạt
Đăm đắm chìm sâu cả tiếng lá rơi

Em không thể hình dung sẽ có trong đời
Một giây phút bình yên và hạnh phúc
Mộng ước thì chấp cánh bay cao vút
Em có gì ngoài mảnh vỡ trong tim.

Kỷ niệm xưa cũng lùi lại im lìm
Trăng thao thức khiến đêm càng chậm lại
Giấc mơ buồn cả một thời con gái
Em vụng về biết mấy trong tình yêu.

Chút nắng còn sót lại của buổi chiều
Không ấm nổi vùng không gian lạnh giá…

Một Sáng Sài Gòn

Một Sáng Sài Gòn
Sáng nay anh có thấy
Trời Sài Gòn lạnh hơn
Mây như dòng suối chảy
Và em thì cô đơn.

Thương ai biết thương ai
Mà lòng nhiều bối rối
Thương ai mà không nói
Để mùa xuân muộn màng.

Bây giờ đông sắp tàn
Mùa xuân chừng sắp đến
Sáng nay trời nhuốm bệnh
Nên nắng hồng kém tươi.

Tìm đâu chiếc lá rơi
Của một mùa thu cũ
Kỷ niệm giờ úa rũ
Tình yêu buồn như….em!

Đôi Bờ Mênh Mông…

Sông trôi về biển lớn
Còn biển trôi về đâu?. . .
Hai bờ đại dương ấy
Làm mình xa cách nhau

Lòng biển giấu bao điều
Muôn đời không ai biết
Như tình yêu của em
Có bao nhiêu tha thiết

Anh như cánh chim trời
Em ngóng hoài, vô vọng
Đôi bờ quá xa vời
Lòng em đầy tiếng sóng!

Cứ như là giấc mộng
Trong đêm dài cô miên
Đôi khi bàng hoàng gọi
Tên một người ngỡ quên

Sông không về biển lớn
Vì nhỏ nhoi, cạn giòng
Tình yêu không về bến
Vì đôi bờ mênh mông…

Mùa Xuân
Xin Trả Lại Tôi…

Trả lại con đường bóng mát của hàng cây
chiều lặng lẽ sương mù giăng phố núi
mùa xuân đến ta lại thêm một tuổi
cây nẩy mầm, hoa lá lại tươi hơn

Trả cho tôi một thoáng biết dỗi hờn
một chút thôi của thời còn rất trẻ
khi đất trời đang trang hoàng mới mẽ
khi người người đang nô nức đón xuân

Tôi trở về cái thuở biết bâng khuâng
như tuổi trẻ còn đây chưa qua mất
ai chẳng tiếc quãng đời tươi đẹp nhất
và ngại ngùng biết mấy những ước mơ

Trả cho người ngày tháng cũ đợi chờ
những giây phút lòng mình chưa nói hết
kỷ niệm cũ như nhịp cầu nối kết
để đường về ngắn lại giữa tim tôi

Xuân hôm nay đã thực sự đến rồi
thương yêu cũ có bao giờ trở lại.

Người Muôn Năm Cũ…

Tôi cứ ngóng ra ngoài cửa quán, sốt ruột vì bóng dáng yêu kiều của chị Trang bặt tăm, chị đi theo tiếng gọi của tình yêu! Còn tôi thì vì cái gì mà phải ngồi đây chờ chị, chỉ vì nghe chị rủ đi ăn chè mà tôi không cam lòng từ chối làm người đồng hành với chị, nên giờ này không biết chị đang ở đâu để gọi chị cùng về. Anh Tiến là bạn của chị Trang thì phải thay chị ngồi đây “canh” tôi, Anh hết kể chuyện đời xưa cho tôi nghe lại kể chuyện đời nay, chuyện phong sương, nắng gió đời lính của các anh mà tôi nghe cũng chẳng hiểu hết…
Anh Tiến nói anh Trung (là người yêu của chị Trang) và anh sắp chuyển đi nơi khác rồi, anh thì không có người yêu để từ giã nhưng anh Trung thì có chị Trang để Tạ-Từ-Trong-Đêm! Thấy tôi cứ nhấp nha, nhấp nhổm anh Tiến vỗ về tôi: “Họ gặp nhau thì còn nhớ thời gian gì nữa mà em trách, em nên thông cảm cho họ mà đừng sốt ruột, lỡ chuyến này đi tụi anh trở về bằng hòm gỗ cài hoa thì em có muốn cũng đâu còn cơ hội để tốn thời gian như thế này…”. Gì chứ vụ kiêng nói chuyện rủi ro thì tôi cũng biết nên phản đối anh “Em ứ thích nghe anh nói vậy, súng đạn mà thấy các anh chỗ này nó bay qua chỗ khác, úm ba la!Các anh phải mạnh khoẻ, may mắn sống đến già…úm ba la!”.
Tôi ngồi im lặng được một lúc vì phải lắng nghe giọng hát ngọt ngào từ chiếc máy Akai to đùng từ góc quán phát ra “…đại bác đêm đêm dội về thành phố người phu quét đường dừng chổi đứng nghe…”. Tôi chưa biết nhiều đến nỗi buồn, tôi chưa cảm nhận được cuộc sống này có lắm mất mát, chia lìa chực chờ sẵn đây, nên tôi không biết chia sẻ nỗi niềm với người trong cuộc chiến (đang ngồi trước mặt tôi), tôi chỉ biết tôi cần phải về nhà với chăn ấm, nệm êm. Với bài vở và những ngày tháng vô tư của đời học trò.Nên dù cũng có chút thông cảm tôi cũng hết chịu được:
-Em phải về thôi, đã chín giờ rồi mà vẫn hổng thấy hai ông bà đó quay lại…
Anh Tiến gật đầu:
-Ừ! Tuỳ em, nếu không thể đợi nữa thì em cứ đi về…
Rồi anh buộc miệng nói:
-…Nghe nói con đường về nhà em, chỗ bụi rậm dưới triền dốc dạo này ban đêm thường xuất hiện…yêu râu xanh lắm…
Tôi giật mình vì liên tưởng ngay ra một hình thù quái dị có một cái đầu to quá khổ, tóc dựng đứng như rễ tre, râu ria xồm xồm, thấy người là nhảy chồm lên vồ lấy nhe răng nanh táp một phát làm nạn nhân chết ngay, mà run cả người:
-Yêu râu xanh! Có phải nó có hàm râu quai nón tua tủa xanh màu lá cây?
Anh Tiến cau mày ra vẻ suy nghĩ:
-Không hẳn là có râu, đôi khi mày râu nhẵn nhụi, nhưng đặc điểm chung của loại “yêu” này là thích con gái đi đêm…một mình!
Tôi thấy trường hợp của mình có thể rơi vào “sở thích” của…nó, nên hỏi lại cho chắc ăn:
-Nếu đi hai mình thì không sao chứ?
-Còn phải xem “mình” đi chung kia là ai? Nếu là người can đảm dám đưa nắm đấm vào đối phương để bảo vệ mình còn lại thì có lẽ không sao thật.
Tôi loé lên..niềm hy vọng:
-Anh…anh có phải là người can đảm không?
Anh Tiến nhún vai:
-Ồ! Anh không thích khẳng định về mình như thế bằng lời nói.Anh chỉ thích chứng minh bằng hành động. Nếu con yêu râu xanh nào mà gặp anh, anh sẽ nhổ sạch hàm râu của nó như nhổ cỏ…
Nghĩ đến con đường tối tôi sắp phải đi mà dựng cả tóc gáy, tôi thở dài:
-Nhưng anh đâu làm sao gặp được nó, chỉ có em phải đi về đoạn đường ấy thôi…
Anh Tiến xoa càm, vẻ mặt quan trọng:
-Anh vẫn có cơ hội gặp nó đấy chứ, trong trường hợp nếu em nhờ anh đưa về, nhưng anh vẫn sẵn sàng giúp. Anh hùng, quân tử không ngại những việc gian khó dù biết nguy hiểm đang chờ mình…
Tôi nuốt nước bọt qua cổ họng đang khô đắng dù tôi đã cho trôi qua đó hai ly chè đầy, rồi ngập ngừng mở lời:
-Vậy nếu một lát nữa mà chị Trang không quay lại thì em đành phải nhờ anh, vì em còn phải về học bài, hôm nay em chưa động gì đến sách vở…
Rồi tôi cáu những ngón tay vào đầu, nhăn nhó tự trách sự ngu ngốc của mình:
-…lần sau chị Trang có rủ, em cũng hổng thèm hộ tống cho chỉ đi gặp anh Trung nữa, đến đây hai người cũng dẫn nhau đi đâu mất bỏ em ngồi đợi.
-Thì anh cũng như em thôi, mà anh có than vãn gì đâu, anh cũng tháp tùng cho thằng Trung xuống đây rồi ngồi đợi. Dù sao thì chúng nó cũng chu đáo khi tính trước mỗi bên sẽ có một tên hộ tống nhưng…không được có mặt khi chúng nó gặp riêng nhau, nên thằng Trung rủ anh theo là vì sợ bỏ em ngồi một mình…
-Lúc kêu em đi chị Trang chỉ nói là muốn khao em ăn chè…
-Thì em cũng đã vừa ăn đấy thôi. Chưa nói có khi chúng ta còn có công lớn trong việc giúp “tăng dân số”…
Tôi tròn mắt:
-Em không biết việc này có ảnh hưởng gì trong việc tăng dân số mà anh nói, song em biết ngày mai em sẽ bị đứng chào cờ giữa lớp vì hông thuộc bài…
Lúc này anh Tiến có vẻ thương cảm cho tình cảnh của tôi nên đứng lên trước;
-…thì đi về vậy, ra trước đi chờ anh trả tiền.
Tôi nhẹ cả người khi rời quán chè, quận lỵ thưa người, với vài con đường mà ánh đèn vàng vọt không đủ sáng. Bóng anh Tiến cao lớn ngã dài trên đường và bóng tôi cứ lấn vào bóng anh. Qua hết đoạn có ánh sáng, tôi ngõ lời:
-Em đi trước mặt anh nhen, còn anh thì đi ngay sau lưng em…
-Tại sao?
Tôi không muốn lộ tẩy ý nghĩ rằng mình sợ con yêu râu xanh bất ngờ hiện ra, nếu lỡ nó hiện ra phía bên tôi thì tôi cũng khó tránh, chi bằng đi trước, còn anh Tiến đi sau sẽ dễ…bảo vệ cho tôi hơn, hoặc có gì thì anh…bị trước. Nhưng anh gạt đi:
-Rắc rối quá. Sắp đến nhà rồi. Nếu sợ thì nói chuyện cho quên “nó” đi…
Tôi bí xị không dám làm mếch lòng anh, nhưng cũng cố vớt vát:
-…anh cho em gởi…cái tay vào túi áo anh nhen…
Anh gật đầu, rồi nắm bàn tay tôi đút vào túi áo khoác của anh.
Đi đến đoạn có triền dốc, tôi liếc mắt nhìn xuống nơi bóng tối phủ một vùng bao la như đồng loã với tội ác chực chờ xảy ra. Tôi chợt thấy tội nghiệp anh Tiến lắm, vì lát nữa khi tôi về đến nhà, anh phải một mình quay lại, biết đâu con yêu râu xanh lúc đó mới xuất hiện, rồi anh phải làm sao khi trong tay anh không có cái búa của Thạch Xanh!
-Lát nữa quay lại anh nhớ chạy cho thật nhanh nhé…
Anh bật cười:
-Em sợ anh “chiến đấu” không cân sức với yêu chứ gì?Yên tâm đi, Lính-Mà-Em! Chiến trường còn không ngán, ngán gì bọn lưu manh. Chưa nói người “nó” thích là em chứ có thích anh đâu mà…gặp anh.
Đã sợ, nghe anh nói tôi càng sợ hơn, tay tôi vẫn trong túi áo anh nhưng tôi thấy lạnh toát. Chợt có tiếng súng nổ đì đùng, Tôi run giọng hỏi anh:
-Pháo kích ở đâu hả anh?
-Không đâu! Chắc là ở đồn pháo binh, họ bắn vài quả cho đêm đỡ… tĩnh lặng ấy mà.
Anh huýt sáo một điệu nhạc, tôi nghe giống như “…Trời hôm ấy mười lăm hay mười sáu, tuổi của nàng tôi nhớ chỉ mười ba…”. Còn tôi thì đã mười lăm rồi, tôi cứ mong mình lớn nhanh lên một chút, vì tôi chúa ghét ai đó kêu tôi là cô bé, là cô bé thì chẳng được tự do làm gì theo ý mình. Tôi còn thường bị nghe câu “Con nít biết gì mà nói…”. Tôi mà hết là…cô bé thì có mà mơ nếu muốn nghe tôi nói. Anh Tiến dặn:
-Mai mốt tụi anh đi rồi, nếu em có phải đi đâu một mình trong đêm qua con đường này. Cứ nghĩ trong đầu rằng có anh đi bên cạnh như vầy cho đỡ sợ…
-Em chẳng đi đâu ban đêm là chắc nhất!
Tôi về tới thềm nhà, anh Tiến mới quay lưng. Tôi thấy anh bật lửa mồi điếu thuốc, đốm sáng lập loè trên môi anh hiu hắt trong bóng tối ngoài kia, xa dần…
000
Chị Trang và anh Trung cưới nhau, rồi chị về quê anh tận miền Tây làm dâu, có lúc tôi nghe chị theo anh đi dọc theo hành trình chinh chiến của anh. Tôi cũng được thêm vài tuổi nữa, để được hiểu hơn về cuộc sống không bình yên của những người tôi thân mến.

Từ ngày ấy, tôi không còn gặp lại anh Tiến. Tôi chỉ được nghe một ít tin về anh qua chị Trang trong một lần chị trở lại thăm ba má chị. Chị nói:
-Anh Tiến thường hỏi thăm em, khi thấy hình của em anh ấy ngạc nhiên lắm, anh ấy nói “Cô bé xinh hơn những gì anh hình dung, ngày ấy cô bé ngây thơ quá, nên những gì anh định nói lại không dám mở lời, nhưng nhất định một ngày nào anh trở lại, nếu còn cơ hội thì…”
Giờ thì tôi hiểu những lời nói ngập ngừng chưa thành câu, và chờ đợi…
Nhưng quyết định tất cả vẫn là định mệnh. Đến sau bốn mươi năm dài tôi mới gặp lại anh. Khi mọi hệ lụy trong cuộc đời của cả hai đã ngấm trải, và hoàng hôn của kiếp người lặng lẽ buông xuống dòng sông đang chảy, không biết về đâu…

Những Chuyến
Bay Đêm

Đừng hỏi
phi công ước mơ gì
Sinh thời
chinh chiến, buổi loạn ly
Bút nghiên
gởi lại trường lớp cũ
Một sớm lên
đường, một sớm đi.

Lướt mây anh
đến tận cung Hằng
Đắm chìm,
ngây ngất với ánh trăng
Những tấm
lòng son chung chí nguyện
Hào hùng
biết mấy những cánh bằng.

Như mây phiêu
lãng biết đâu nhà
Những chuyến
phi hành đêm lặng qua
Khi thành phố
vẫn trong giấc ngủ
Anh còn thao
thức với trăng ngà.

Chuyến bay
nào ngang tầm đạn thù
Rừng sâu,
sông biển chốn mịt mù
Cánh bằng xé
gió lưng trời thẳm
(Những tiếng
kinh cầu như tiếng ru).

Đôi mắt
chứa ngàn đêm thao thức
Quê hương
khói lửa bao giờ yên!?
Bay qua những
xóm làng xơ xác
Anh thấy tim
mình đau vô biên.

Tình riêng
gát lại anh phải đi
Thương
người em gái tuổi xuân thì
Thương cả
non sông đang thầm khóc
Thì hỏi phi
công ước mơ gì!

Đời anh như
mây trắng phiêu bồng
Yêu người
như thế cũng bằng không
Cánh bay đã
chở nhiều thương tích
Như những
vết thương tận cõi lòng.

Anh biết
rằng em sẽ rất buồn
Đường bay
hun hút biệt ngàn phương
Ngóng chờ anh
mãi trong khắc khoải
Một buổi anh
về vơi nhớ thương…

Mưa Sài Gòn

Ngày mai em về sài Gòn ơi!
Chiếc lá trở mình trong cơn mưa chợt đến
Đừng hỏi vì sao lòng em thương mến
Cứ nghĩ về thành phố này, thành phố của… người ta!

Tạm biệt anh ngày mai em sẽ xa
Chiều cư xá anh có buồn lặng lẽ
Hôm em đến mang theo cơn mưa nhẹ
Anh có nghe hơi lạnh cũng theo vào

Cả con đường như bừng dậy xôn xao
Em chợt thấy bước chân mình vui quá
Mưa ướt lạnh cả khung trời cư xá
Mai em về rồi đó, anh buồn không?

Mai em về giấu nỗi nhớ trong lòng
Còn nụ cười em chia anh một nửa
Tiếng mưa vẫn một điệu buồn muôn thuở
Gõ nhịp đều vào sâu thẳm hồn em.

Sài Gòn ơi! Làm sao có thể quên
Những con đường, những hàng cây sũng ướt
Em hấp tấp giữa dòng đời xuôi ngược
Giữa muôn người em chỉ thấy riêng anh.

Bao Giờ Mùa Thu…

Em phải về không thể đợi mùa thu
Và những chiều chợt mưa và chợt nắng
Những con đường một mình em đơn vắng
Mặt hồ im xanh biếc bóng mây trời

Khi em về những chiếc lá vừa rơi
Ai sẽ nhặt ép vào trong trang vở
Hoàng hôn có làm tím mờ nỗi nhớ
Để lời thơ buồn như ánh nắng phai

Mây sẽ nhàu như tóc rối trên vai
Đường về sẽ dài hơn khi em đến
Sao đêm sẽ thắp lên ngàn ngọn nến
Vẫn lặng thầm một khoảng tối nơi em

Đã về chưa hỡi mùa thu dịu êm
Mây vô tình che khuất vầng trăng khuyết
Môi ngần ngại khi nói lời từ biệt
Sợ đêm dài, lại thấy thật dài hơn…

Tiếng đàn ai dạo khúc nhạc cô đơn
Khiến vần thơ cũng âm thầm thao thức
Giữa đất trời mùa thu chưa có thật
Nhưng hồn em thì đã có thu rồi.

Chiều Tàn Thu

Buổi chiều còn chút nắng hanh
Mùa thu vướng lại trên cành cây khô
Lá rơi nghe thật mơ hồ
Mây như mặt biển nhấp nhô sóng tràn
Như lòng ta ngập lá vàng
Khi mùa thu thật vội vàng ra đi
Ngàn xưa những cuộc từ ly
Chút gì để lại trên mi giọt sầu
Buổi chiều đưa nắng về đâu
Để hoàng hôn đến bắt cầu vào đêm
Thu ơi! Khắc khoải nỗi niềm
Trong câu thơ cũ ta tìm thấy ta
Một ngày nào đó sẽ xa
Những yêu thương cũng nhạt nhòa lãng quên
Trời thu vẫn rất mông mênh
Êm đềm bên những gập ghềnh đời ta…

Bâng Khuâng Cuối Mùa

Bâng Khuâng Cuối Mùa
Một chút nắng vàng hanh
Rơi trong chiều cuối phố
Chuông giáo đường ngân đổ
Mùa xuân giờ sang ngang

Ai gửi trong tiếng đàn
Tâm tình tôi ngày ấy
Ai gửi vào trang giấy
Câu thơ tình bâng khuâng

Mùa xuân đến bao lần
Rồi ra đi vội vã
Vương buồn trong nắng hạ
Đóa hoa tàn cuối xuân

Một chút nắng ngập ngừng
Rơi vào trong đôi mắt
Em ngỡ ngàng cuối nhặt
Mộng ước buồn lên tay

Gửi tình theo áng mây
Biết ai? Người nhận được . . .

Một Sáng Em Về

Em trở về đây
Trả lại Sài Gòn đêm mưa bay
Với những hàng cây và ánh đèn rực rỡ
Em trở về đây
Bỏ lại tâm sự và nỗi nhớ
Thành phố đó có anh
Buổi sáng em về hàng cây rất xanh
Gió đong đưa những cành như bàn tay vẫy
Những thân quen tất cả em đều thấy
Chỉ vắng một người, chỉ vắng anh…
Buổi sáng em về giọt nước mắt long lanh
Vỡ trong lòng bàn tay, xoá tên anh trong ấy
Có thể xoá những gì mà mắt ta nhìn thấy
Nhưng ký ức thì đậm nét, khó phôi phai
Em trở về đây đón lấy ngày mai
Sài Gòn hôm nay trả lại anh và kỷ niệm
Rồi có thể suốt đời ta tìm kiếm
Một cái gì trót đánh mất hôm nay!

Thành Phố Mùa Thu

Thành phố đêm lặng lẽ dưới màng mưa
Mùa thu sắp qua rồi anh có biết
Chiếc lá vàng cuối thu em tha thiết
Ép vào trang thơ tình của đôi mình.

Những hạt mưa thì vẫn cứ vô tình
Rơi rả rích làm đêm càng hoang vắng
Trong trang thơ một nỗi sầu chẳng ngắn
Một khoảng trời thương nhớ đọng trên mi

Đến bao giờ mà nay thu vội đi
Anh có biết cái gì còn ở lại
Trong tim em một mùa thu khắc khoải
Đã nhuộm vàng kỷ niệm của ta xưa

Thành phố đêm lặng lẽ dưới màng mưa
Mùa thu sắp qua rồi anh có biết…

Gió Khuya Vẫn Thổi…

Chị Quỳnh Thư lại bị khiển trách về cái tội đêm qua đi chơi về khuya. Từ khi tôi đến ở nhờ nhà bác để đi học, tôi đã chứng kiến cảnh này nhiều lần. Những lời răn dạy của ba má dường như chị nghe ở tai này lập tức lọt ngay qua tai kia. Riết rồi tôi và cả các em của chị cũng không còn ngạc nhiên khi thấy chị bị “nhắc nhở”. Việc của chị là tìm hiểu về thời trang, chưng diện sao cho xứng tầm với nhan sắc mà chị vốn có, và dĩ nhiên chị thích phô trương cái đẹp ở những nơi có nhiều đấng mày râu với những bữa tiệc hoặc những nơi vui chơi thuộc giới phong lưu. Ba má chị muốn chị học hành, đỗ đạt. Nhưng với chị đó có chăng cũng chỉ là một thứ để “trang sức” thêm cho đời chị.

Chị từng tuyên bố những gã trai đến nhà đều là vì muốn kết thân với chị, chị nói sắc đẹp là nền tảng quan trọng cho sự thành công của một phụ nữ, nó quyết định đến tám chục phần trăm khi chinh phục đối tượng, vì chị là một người đẹp nên cho mình cái quyền kiêu hãnh, nhưng rồi cũng có một chàng trai đến nhà không phải vì chị…
Nguyễn từ xa đến, tôi quen anh trong một lần tan trường xe đạp của tôi giở chứng giữa đoạn đường về, đang loay hoay thì người lính ấy đến gỡ rối giúp tôi. Vài lần sau đó anh đón tôi ở cổng trường trước khi tôi có dịp tiếp anh tại nhà, lúc ấy tình cảm giữa tôi và anh đã chớm nở. Lần đầu tiên Nguyễn đến cũng có mặt Quỳnh Thư. Sau đó chị hỏi tôi về anh, nhưng vì ngại gia đình không hài lòng khi tôi còn đi học mà đã vướng vào chuyện yêu đương nên tôi giấu chị mối quan hệ giữa chúng tôi, tôi nói với chị đó là một người quen trong số những người tôi quen. Chị gật gù nhận xét: “Một anh chàng khá đấy, hào hoa oai phong lắm…”. Lời khen của chị làm tôi thấy vui trong lòng, vì anh không bị chị chê như tôi từng nghe chị nói về những người theo đuổi chị.
***
Thỉnh thoảng Nguyễn lại đến nhà thăm, lâu dần anh trở nên thân thiết với cả nhà, riêng Quỳnh Thư là một người cởi mở, giao thiệp rộng nên chị dễ dàng tạo mối thân thiện với mọi người, với Nguyễn chị còn tỏ ra quan tâm về những nhọc nhằn, gian khổ trong đời lính của anh. Từng cử chỉ, từng nụ cười dịu dàng, Khi tiếp xúc với người ngoài chị duyên dáng khác hẳn với bản tính vốn có của mình. Những lúc như thế tôi ngồi im nghe hai người trò chuyện, chỉ khi nào Nguyễn pha trò thì tôi mới góp vào đó một…nụ cười. Nếu khách quan so sánh thì tôi ứng xử quá vụng về, còn chị lại khôn ngoan trong từng lời nói. (Có lần Nguyễn nói “Ở cạnh một người người hoàn hảo như thế thì em nên học hỏi…”). tôi chỉ cười, thảo nào chị có sức thu hút nhiều người vì phong cách ấy, dù tôi biết nó hoàn toàn giả tạo, nhưng ở đời mấy ai nhận ra sự thật khi nó được che giấu bằng một sự khôn ngoan!Sự khôn ngoan cũng có lúc nhầm lẫn vì quá tự tin, một hôm Quỳnh Thư nói “Dạo này Nguyễn đến hơi nhiều, chắc muốn ghi danh vào danh sách theo đuổi chị mày đây…”. Tôi giật mình khi nghe câu nói của Quỳnh Thư, rồi nó bám chặt vào suy nghĩ khiến tôi không tập trung vào được việc gì, tôi quyết định công khai tình cảm của tôi cho chị biết để tránh những hiểu lầm không đáng có sẽ xảy ra. Tâm trạng tôi bồn chồn không yên, ngồi trong lớp học mà tư tưởng tôi bay ra ngoài cửa lớp. Tôi sẽ kể ngay cho Quỳnh Thư nghe khi về đến nhà, rằng tôi đã quen Nguyễn trong trường hợp nào và lý do tại sao tôi và Nguyễn giữ bí mật đến hôm nay. Tan trường tôi vội vã bước vừa miên man suy nghĩ những lời sẽ tỏ bày cùng chị.
Khi tôi đến nhà đã thấy Quỳnh Thư còn ngồi ở phòng khách như vừa tiếp ai, chị đang chăm chú nhìn vào mảnh giấy cầm trên tay. Khi tôi bước vào chưa kịp nói gì, chị đã ngoắc tay ra hiệu cho tôi đến gần, rồi chìa tờ giấy ấy đến trước mặt tôi:
-Mày xem này, Nguyễn viết đấy…
“ I love you. I will be yours forever. Will you be mine, darling?”, tôi nhận ra đúng là nét chữ của Nguyễn và hơi choáng người, không giấu được vẻ bối rối. Trong khi Quỳnh Thư mỉm cười, nét mặt hân hoan nhìn tôi, tôi có cảm giác tia nhìn ấy đọc được mọi suy nghĩ trong lòng tôi, nó sắc lạnh như một mũi dao cứa vào tim tôi đau buốt, tuy nhiên tôi cũng cố trấn tỉnh và hỏi một câu rất thừa:
-…anh ấy viết cho chị à?
Quỳnh Thư nghênh mặt lên nhìn tôi không trả lời. Tôi quay ra khép cánh cửa lại. Mọi điều sắp xếp trong đầu định nói đành nén lại, tôi đã chậm một bước trước chị rồi, thì ra những gì chị nói là có căn cứ, Nguyễn đã có tình ý với chị từ bao giờ mà tôi ngu ngơ không nhận thấy. Khu cư xá vắng thỉnh thoảng mới có một chiếc xe vụt qua, rồi tất cả lại chìm vào sự yên tĩnh, chỉ có tiếng mưa nhè nhẹ ngoài hiên như vỗ về sự tê tái trong lòng, tôi thấy mắt tôi cay…
***
Cái gì đã khiến cho tôi không còn nhận thấy vẻ đẹp của đất trời, khi đêm rải ánh trăng vàng đầy mặt đất, khi gió vẫn ru xạc xào những ngọn thông già và nắng chiều vẫn gieo xuống mặt hồ ngàn tia lấp lánh. Tôi cố vượt qua sự đau khổ trong lòng tôi một cách khó khăn. Còn đâu niềm mơ mộng với tình yêu ban đầu tưởng rằng không thể nào tan vỡ. Thì ra anh là như vậy đó, anh đã trao cho Quỳnh Thư ngọn roi để quất vào tim tôi một vết thương ứa máu. Nội tâm tôi không còn yên ổn, nó bị xáo trộn hoàn toàn. Dù tôi cố giữ thái độ tự nhiên, giấu trong lòng nỗi buồn dày vò. Tôi muốn đừng suy nghĩ nhưng làm sao có thể. Tôi tránh gặp lại anh dù biết anh chuẩn bị thuyên chuyển đi nơi khác. Tôi hận anh, Nguyễn! Sao anh không chọn một người nào khác để nói câu anh mãi mãi là của họ? Sao anh lại dùng bước chân chị của em để chà đạp lên trái tim em?
Tình cảm và lý trí trong tôi giằng co dữ dội.Nếu trong chuyện này không phải là Quỳnh Thư, thì nhất định tôi phải tìm gặp Nguyễn để hỏi cho ra lẽ trước khi dứt khoát, nhưng hỡi ơi! Đây lại là chị họ của tôi, nếu nói ra tôi có cảm giác xấu hổ như đang tranh chấp tình yêu với chị của mình. Thôi, cứ để cho Quỳnh Thư trọn vẹn hạnh phúc nếu chị bằng lòng đón nhận,Quỳnh Thư không có lỗi bởi vì chị chưa biết chuyện Nguyễn và tôi đã trao tình cho nhau, chỉ có Nguyễn là người đáng trách. Cuối cùng tôi hiểu rằng muốn giữ tình cảm của chị em tôi đừng sứt mẻ thì tôi phải im lặng, chôn vào lòng mối tình mà chỉ tôi và Nguyễn biết.
Mùa thi đã qua, tôi không có được kết quả như mong muốn, tôi không đủ bản lĩnh để vượt qua sự đau đớn trong lòng nên vấp ngã trong việc học hành. Ba mẹ gọi tôi về quê, và tôi đã rời khỏi thành phố ấy, nơi tôi gởi lại tất cả những ẩn tình không thể phân bày với ai, dù tâm hồn vỡ nát vì một người tôi từng yêu thương với hy vọng dài lâu…
***
Thời thế đổi thay! Quỳnh Thư là người biết nắm bắt cơ hội, chị hòa nhập vào cuộc sống mới một cách nhanh chóng. Khép lại thời hoa mộng phía sau, chị hâm hở bước vào cuộc sống mới bằng một cuộc hôn nhân với một cán bộ hơn chị nhiều tuổi. Chị quan niệm nếu không có tiền thì phải có quyền. Lễ cưới của chị không được đình đám vì trong thời điểm người người còn thiếu kém, chị chấp nhận như thế vì biết…thức thời. Tôi biết rằng chị đã có một cuộc sống yên ổn bên cạnh người chồng yêu chìu chị hết mực, dù chưa cho chị được những thứ vật chất như chị mong muốn.
Còn tôi?Mười mấy năm trôi qua, tóc xanh dù chưa phai, môi cười dù chưa héo nhưng tôi không có được niềm vui trọn vẹn vì trong lòng còn khắc khoải một bóng hình. Người ta nói khi muốn quên là khi lòng còn nhớ. Tôi buông thả ước mơ tôi vào gió, mặc kệ tháng ngày chất lên tuổi đời.
Tôi có dịp ghé thăm Quỳnh Thư. Tình huyết thống vẫn là sợi dây nối kết giữa chúng tôi. Chị bây giờ sống sang trọng trong ngôi nhà bề thế, dư ăn dư để. Chị khoe rằng chị gặp được nhiều “phi vụ” thuận lợi do dựa vào uy thế của chồng chị. Khi lấy ông ta chị chỉ muốn có chỗ dựa an toàn, không biết có ngày cơ hội lại đến như cá gặp nước, Chị tự hào chị được sung sướng như vậy vì nhờ biết nắm bắt thời cơ. Tôi thắc mắc bên cạnh một ông chồng không tương xứng như thế sao chị có thể trở thành một người vợ đảm đang khi trong quá khứ chị là người của những đêm vui vũ trường, những hội hè thâu đêm như ngày xưa tôi biết? Chị giải thích chị chỉ chịu “khổ” một thời gian như thế thôi, những ngày lạc hậu ấy đã qua rồi, giờ đã đổi mới, thời đại này rất phù hợp với chị, chị ăn chơi còn hơn xưa, muốn tránh tai tiếng thì chỉ cần đi xa một chút, thậm chí chị còn có nhân tình trẻ…
Tôi lại muốn biết về một điều vẫn ẩn uất trong lòng:
-Chị còn nhớ Nguyễn, thời mà em còn ở nhà của bác?
-Nhớ chứ!Anh chàng đó có nhiều điểm khó quên lắm.
-Sau khi em về quê, chị và Nguyễn thế nào?
-Anh chàng đổi đi, mày cũng đi thế là xong chứ thế nào nữa…
-Còn…lời Nguyễn tỏ tình với chị?
Quỳnh Thư phá lên cười như trước một câu chuyện vui:
-Mày muốn nói đến cái chị đưa mày đọc hồi đó à? Làm gì có tỏ tình, đó là câu do chị nhờ Nguyễn dịch….
Tôi thảng thốt:
-Trình độ của chị thừa để dịch câu đó!
-Nhưng chị phải nhờ để Nguyễn viết ra giấy chứ…(Quỳnh Thư thản nhiên)…Chị cần dùng nó để chọc ghẹo mày chơi. Lúc ấy tuổi trẻ nhiều cao vọng lại háo thắng, chị thấy tự ái khi biết Nguyễn đến nhà thường xuyên nhưng không phải vì chị…
Tôi nói một điều lẽ ra phải nói trước đây mười mấy năm:
-…nhưng lúc ấy em và Nguyễn đã yêu nhau!
Quỳnh Thư gật gù:
-Biết!…chị có lờ mờ nhận ra điều ấy, nhưng thấy mày cứ giả vờ, giấu chị nên chị bực bèn đùa chơi. Không ngờ mày rút lui “nhường” luôn như vậy. Mà không hiểu sao hồi đó chị không thích mày quen Nguyễn. Dường như chị có cảm giác mình thất bại khi người Nguyễn chọn là…mày. Sau khi mày về quê thì Nguyễn có gởi thư cho mày nhưng chị giếm luôn vì…lỡ rồi…
Tôi sửng sốt:
-Trời ơi! Chị có biết như thế là chị rất ác không?
-…nhưng hóa ra như vậy lại tốt cho mày, nếu không thì bây giờ mày phải lặn lội đi thăm chồng ở một trại cải tạo nào đó, hoặc không thì cũng phải một mình bươn chải nuôi con, bây giờ anh ta đâu còn như xưa nữa…
-Chị thôi đi! Chắc chị còn muốn em phải cám ơn vì chị đã làm cho em và Nguyễn xa nhau, vì chị đã làm cho bao năm qua em không thôi đau đớn vì nghĩ mình bị phản bội, để em phải trách hận một người lẽ ra phải rất được yêu thương. Trời ơi! Bây giờ thì anh ấy ở đâu chứ…
Nước mắt tôi ứa ra, còn Quỳnh Thư vẫn thản nhiên:
-Thời gian ngần ấy năm nếu chưa chết trong cuộc chiến ấy, thì Nguyễn cũng quên hẳn mày rồi, do duyên số khiến xui cả thôi. Mày cũng nên quên đi những gì không toại nguyện, phải thức thời nắm bắt cái có thể. Hạnh phúc cho những ai biết chấp nhận những thứ dù không phù hợp với mình. Mày sẽ chết mòn nếu cứ hoài niệm về những gì đã mất, những thứ không bao giờ trở về với ta nữa…
Chị nói những lời vô cảm, vô trách nhiệm trước cuộc tình hư lỡ của tôi như không phải do chính chị gây nên. Xưa kia Quỳnh Thư và tôi không cùng tính cách, bây giờ càng khác nhau về quan điểm. Đã nhiều năm mới gặp nhau, nhưng những gì tôi mới biết đã đẩy chị xa tôi quá. Nếu không vì một chút huyết thống giữa tôi và chị thì có lẽ chị là người tôi muốn tránh xa như tránh một thứ nấm độc.
Để chấm dứt câu chuyện, tôi xin phép chị về phòng nghỉ. Ngày mai tôi sẽ rời khỏi đây và không bao giờ muốn có thêm một lần quay lại. Có phải tôi là kẻ không biết thức thời như lời Quỳnh Thư nói? Một sự thức thời nếu cần phải đánh đổi cả nhân cách để nắm bắt cơ hội. Không! Tôi không thể khi lòng tôi vừa trổi dậy một thứ tình ngỡ đã lụi tàn. Anh ở đâu giữa thênh thang trần gian này. Có bao giờ ta tình cờ ngang qua nhau mà không biết. Anh ở đâu? Mối tình đầu của em! Anh có biết gió khuya vẫn thổi vào những góc khuất tiềm thức em ngàn đêm thao thức, để những nỗi niềm khắc khoải từ đây sẽ không còn bình yên nữa…

Giận…

Cuối năm còn đợi thư anh
Mùa xuân hoa nở bỗng thành hắt hiu
Ông đưa thư lại làm… kiêu!
Đi ngang để mặc buổi chiều ngẩn ngơ
Thôi em cũng hổng thèm chờ
Giận ai em viết bài thơ …để dành!
Hôm nay mới nhận thư anh
Hoa đào đã rụng, lá cành trơ vơ
Ngày xuân qua tự bao giờ
Nỗi sầu như một thoáng mờ vụt bay
Nắng chiều đã cuối chân mây
Em còn đang giận nên mai trả lời.

Có Lẽ Nào…

Có lẽ nào dù chỉ một thoáng thôi
Anh chẳng nhớ chút gì trong kỷ niệm
Hoàng hôn xuống bầu trời loang sắc tím
Áng mây mù rơi rớt tận tim em

Có lẽ nào chỉ mới đó đã quên
Những yêu thương một thời anh vẫn nói
Có đôi lúc em vẫn thầm tự hỏi
Xa anh rồi em còn biết tin ai?

Chẳng thể nào kỷ niệm dễ nhạt phai
Với riêng em khi quanh đây còn đó
Nắng vẫn vàng rắc đầy trên lối nhỏ
Và mưa thì vẫn thế khác gì đâu…

Có lẽ nào anh đã vội quên mau
Trang thư cũ đến giờ em vẫn đọc
Lòng cố nhủ thôi đừng buồn, đừng khóc…
Xót xa nhiều thì cũng thế mà thôi

Biết rằng anh giờ đã quá xa xôi
Ngày tái ngộ không bao giờ có nữa
Em không trách anh đã quên lời hứa
Vì lẽ nào em lại… hết yêu anh!

Hồ Thụy Mỹ Hạnh

Hồ Chí Bửu

Hồ Chí Bữu

Thưa Quý Nương

Một tuần rồi ta không gặp nhau
Em buồn như rụng một vì sao
Ta buồn như một con chó ốm
Lăn lóc nằm xem những vết cào
Ta nhớ mùi em như phấn son
Nhớ đôi mắt ướt mà mi nhon
Em nhớ mùi ta- mùi hoang dại
Một chút đàn ông hãy vẫn còn
Nhớ tóc em dài bay phất phơ
Ngực đầy như chứa cả hồn thơ
Có con bướm nhỏ nhiều e ắp
Đậu ở tay ta- đẹp không ngờ
Hình như đêm rồi ta nằm mơ
Thấy em cô độc buồn vu vơ
Ở một góc trời xa xôi lắm
Tỉnh giấc mình ta mãi thẩn thờ
Ta gã giang hồ mê bốn phương
Vì em vó ngựa rớt bên đường
Thì thôi – khép gót giang hồ lại
Trao hết cho nàng- Thưa quý nương !

Chủ Nhật 7.6

Ta đã xỉn- nghĩa là ta vẫn thở
Nghĩa là ta vẫn sống với trăm năm
Ta vẫn thở- nghĩa là ta đã xỉn
Chuyện yêu em như một trận mưa dầm
Rượu với em hình như không thể thiếu
Rượu trăm năm mà tình đến cuối đời
Em và rượu ta chọn luôn hai thứ
Rượu cay nồng và tình sẽ chơi vơi
Ta tạm tính đời ta bằng men rượu
Ta say rồi thì thơ lại chảy ra
Ta dại gái nên suốt đời bị dụ
Vì yêu em nên quên hết san hà…

Ngựa Chứng

Có con ngựa chứng rung bườm hét
Ta phải dỗ dành muốn hụt hơi
Ngựa ni chẳng thiết chi loài cỏ
Chỉ khoái thơ tình cho nó xơi..

Dễ ẹt- thơ tình ta một đống
Lắm lúc say rồi ói ra thơ
Cho nên thơ vẫn hôi mùi rượu
Thơ chảy ngông nghênh chẳng bến bờ

Đời lỡ sinh ta tên cà chớn
Khuấy nước chọc trời theo bốn phương
Em đã thương rồi nên gắng chịu
Yêu nhau đâu phải chỉ lên giường ?

Cuộc sống có khi là rỗng tếch
Chân lý không gì ngoài kim ngân
Bôn ba cho lắm hoàn tay trắng
Mặt nước trùng dương – sóng trắng ngần

Thì thôi – ngựa chứng không thèm cỏ
Chỉ khoái thơ tình bay phất phơ
Tặng em luôn cả đời sương gió
Của gã giang hồ – chỉ có thơ…

Đưa Em Đi Lễ

Đưa em đi lễ nhà thờ
Thì thầm khấn Chúa bao giờ hết yêu
Chúa cười : mầy vốn thằng liều
Bao giờ tắt thở – nghỉ yêu đàn bà..

Vẫn Còn Máu Lửa

Cứ nghĩ trái tim ta cằn cỗi
Mùa yêu thương nghẻn lối đi về
Nhưng trái tim đập nhiều quá đỗi
Con đường tình còn lắm đam mê

Trả Nợ Giang Hồ

Cái nợ giang hồ chưa trả hết
Thì thôi gắng sức trả cho rồi
Ta tự nói như lời cam kết
Cuối đường trần- nằm xuống – nghỉ chơi

Con Đò Xưa

Đời lắm phong trần em biết không
Thơ ta là rượu chảy thành dòng
Một mai lửa tắt tình hiu hắt
Đò cũ đâu rồi một bến sông ..?

Khúc Bi Ca
1.
Cũng có những lần ta dối ta
Trầm mình trong những khúc bi ca
Tình trôi theo lũ về sông lạ
Lối cũ đâu còn ru thiết tha ..
2.
Cũng có những lần ta dối ta
Trầm mình trong những khúc bi ca
Lòng ta cũng biết buồn sông núi
Quê cũ không còn- Xa quá xa…

Nhỏ Biết Rồi:
Ta Thèm Một Trái Tim

Nhỏ bạn ở Saigon lên thăm
Đưa nhỏ đi chơi vòng vòng thành phố
Nhỏ bảo Tây Ninh quán café nhiều vô số
Nắng cháy da người – phố lạ thành quen

Ta đưa nhỏ đi thăm núi Bà Đen
Suối róc rách theo từng mô đá
Tiếng chim nghe quen nhưng mà rất lạ
Giống như tiếng cười của nhỏ rất lạ- nhưng quen

Gió thổi mùi tóc nhỏ vừa len
Tựa vào ngực ta- Thơm mùi bồ kết
Ai biết được bao giờ ta sẽ hết
Quên được mùi tóc của nhỏ- hôm nay

Đẹp làm sao- với suối tóc dài
Đang bay bay trong chiều lộng gió
Ta muốn nói nhưng mà chưa dám ngõ
Má nhỏ hồng- môi hình một trái tim

Ta ngây thơ nên môi nhỏ ta tìm
Nhỏ nhắm mắt giả vờ như say ngủ
Nhưng với ta- nụ hôn nầy chưa đủ,
Nhỏ biết rồi – ta thèm một trái tim..

Mây Đời Ta Bay Mãi

Vắng một ngày mà tưởng như một tháng
Vắng một tuần mà ngỡ đã trăm năm
Cơn mưa nhỏ xuống đời ta. Hạn hán,
Mưa băng qua- Không phải trận mưa dầm

Đám mây nhỏ- Làm cơn mưa quá ngắn
Đêm hẹn hò thay đổi cả đời ta
Ta đang sống với cuộc đời tĩnh lặng
Em đến chi ? Tặng ta những ngọc ngà !

Mây viễn xứ- Mây đời ta bay mãi
Bỗng dừng bay trên đỉnh núi hoang sơ
Mưa rớt hột- bằng thơ tình vụng dại
Mưa thành thơ như tình khúc mong chờ..

Cảm ơn em- đã làm thơ bật hát
Ta tưởng mình phiêu hốt cõi nhân sinh
Em đã đến- cho ta nhiều nốt nhạc
Và dòng thơ đầy ắp chất trữ tình

Em vờ khóc – khi ta vờ im lặng
Là ta đo khoảng cách của tim em
Ta đã hiểu trong nỗi buồn trống vắng
Ta sẽ là vết xước trái tim đen

Em đã khóc- khi ta hờn. Im lặng
Là ta đo khoảng cách của tâm hồn
Ta biết rồi- trong nỗi buồn sâu lắng
Chắc chắn còn nhớ mãi những nụ hôn…

Nhầm
Tưởng đâu xuống núi nghỉ tu
Nào hay xuống núi chơi ngu… tới giờ
Tưởng đâu xuống núi..em chờ
Nào hay xuống núi làm thơ..quá liều

Tưởng
A lô khoẻ hả em yêu
Bên kia giọng nói mỹ miều…dở hơi
-Sao ông biết số vợ tôi
Cúp một cái cụp – mèn ơi..bể rồi

Ta
Quẩn quanh cũng một cuộc chơi
Chơi cho xả láng- cho đời biết tay
Kéo màn – chẳng tiếng vỗ tay
Cuộc chơi vỡ vụn – còn ai với mình ?


Ta đi về phía bình minh
Là ta tìm đến chút tình với em
Ta đi theo lối ngựa quen
Bỏ quên nỗi nhớ bên rèm tương tư..

Thiên
Trùng khơi gió biển mịt mù
Thôi rồi ta đã ngồi tù mắt em
Vẫn là áo lụa màu đen
Nhốt hồn ta lại- một phen ngủ vùi

Tài
Cuối cùng cho một cuộc vui
Trăm năm hồ dễ chưa nguôi ân tình
Còn trời- còn đất- còn mình
Còn em ta sẽ còn tình..thơ điên.

Lạy Nhau…
Lạy em một lạy cho rồi
Đẹp chi mà để cho tôi bồn chồn
Lạy em – một lạy – điếng hồn
Mai sau có chết – cái giò còn nguyên ?

Tìm Nhau
Tìm nhau gặp ở cuối đường
Tìm nhau gặp chốn vô thường – em ơi
Em về – còn lại mình tôi
Nẻo xưa vắng lạnh – thì thôi – em về

Tiễn Nhau
Tiễn em về chốn mịt mù
Kiếp sau cố nhớ chiều thu – lỡ làng
Rằng người ấy đã sang ngang
Tỉnh ra vỡ mộng – buồn càng – buồn thôi

Nhớ Nhau
Nhớ nhau chén rượu chia đôi
Nhành hoa lan đẹp tinh khôi – em cài
Ngập ngừng – chén rượu ngang mày
Lỡ mai xa lắc – nhớ ngày có nhau

Giận Nhau
Giận ta – em rất lạnh lùng
Giận ta em chẳng ngủ chung một giường
Giận nhau – em bảo hết thương
Giận nhau là cả thiên đường – bỏ đi

Gần Nhau
Súng anh đâu phải để xem
Súng anh là để cho em bóp cò
Súng anh tuy cũ – đừng lo
Nếu nạp đạn mới – nổ cho – hết hồn..

Ta Nín Thinh

Ai bảo ta buồn nên lá khóc
Rụng vào góc tối cuối hàng hiên
Ai bảo ta buồn trong cô độc
Rượu chảy vào ly- túi rổng tiền

Giang hồ- ta chẳng là hảo hán
Hào sảng bằng thơ cũng tức cười
Ngoảnh lại tầm tay dăm thằng bạn
Thằng nào cũng ngơ ngác – ma trơi

Nhiều lúc chửi thề cho sướng miệng
Chửi luôn mình chẳng biết nâng bi
Tại ta ngu không thèm lòn cúi
Quậy lắm bùn nhơ chẳng ích gì ?

Thì thôi- cứ làm thơ tán gái
Tán tới tán lui một chút tình
Yêu em vì bởi ta khờ dại;
Mai mốt lấy chồng. Ta nín thinh…

Tâm Sự Điền Bá Quang…

Em có chồng ! Điều nầy anh biết
Em vẫn là vợ của người ta
Nhưng anh yêu em- Đâu có gì tội lỗi
Như yêu trăng- yêu gió – vậy mà..

Yêu chúng sinh- Đó là lòng từ bi của Phật
Còn anh yêu em là cái tật của anh
Thấy ai đẹp là nghe lòng bối rối
Rồi mộng mơ khi gió lộng qua mành.

Chồng của em- hắn phàm phu tục tử
Một nàng tiên mà chà đạp. Nỡ nào;
Nếu là anh- sẽ nâng niu – Ngôi thứ;
Anh chịu thua- nằm dưới – em cao.

Ha ha ha – Nói chơi cho đỡ tức
Hạnh phúc của người cũng như của chính ta
Sá gì đâu điều nhỏ nhoi trần tục
Mai mốt rồi cũng ra bãi tha ma

Em có chồng ! Ta biết rồi- khỏi nhắc
Dù gì gì – thì hắn cũng hơn ta
Bởi định mệnh- Nhưng mà em có chắc;
Nằm bên chồng mà không nghĩ đến ta ??

Hồ Chí Bửu

1 12 13 14 15 16 18