Phan Xuân Sinh

Phan Xuan Sinh

Những Cái Tết Trong Đời Tôi

Cứ mỗi lần cúng Giao Thừa xong, tôi mang bình trà vào phòng sách ngồi uống một mình. Chính những lúc nầy tôi nhớ lại những ngày tết cũ, xưa cũ. Khi còn nhỏ, tôi là người phải thức để lo sắp xếp bàn cúng giữa sân cho Bác tôi khấn vái cúng giao thừa. Câu khấn đầu tiên Bác tôi giới thiệu về mình cho những người khuất mặt quanh đây biết về gia thế: “Kính thưa ông bà, cha mẹ, những người khuất mặt quanh quẩn đâu đây. Tôi tên là Phan Xuân Sâm là con thứ năm của cha mẹ tôi, người còn lại lớn nhất của gia đình nầy. Hiện tôi đang sinh sống tại Nại Hiên xã, Đà Nẵng xứ, Quảng Nam tỉnh. Kính xin chư vị ghé qua đây hưởng chút nhang khói nhân ngày đầu khai niên. Giúp đỡ gia đình tôi mạnh khỏe, thuận hòa. Chúng tôi luôn luôn cung kính gìn giữ lòng biết ơn chư vị…” Năm nào Bác Năm tôi không được khỏe, Ba tôi làm nhiệm vụ cúng bái Giao Thừa thay cho Bác. Ba tôi không nói ra những lời như Bác, ông chỉ lầm thầm trong miệng rồi lạy. Hình như Ông làm chuyện nầy cho có lệ, chứ không thành tâm như Bác tôi. Bác nằm trên gường hỏi Ba tôi sau khi cúng xong vào nhà: “Chú có biết phải để cho cây hương tàn hết mới dọn vô nhà không?” Ba tôi lúng túng trả lời cho qua chuyện, sự thật cây hương cháy chưa hết một nửa thì Ba tôi đã dọn vô nhà. Cúng xong bao giờ Bác Năm cũng ngồi uống trà với Ba tôi. Cái cung cách đầu năm cũng đổi khác, nói chuyện với nhau đượm một chút nhẹ nhàng. Hình như người ta gìn giữ tốt đẹp nhất cho ngày đầu năm.

Sau nầy Bác tôi mất, Ba tôi mỗi năm cúng GiaoThừa thay cho Bác. Tôi là người được ngồi đối diện uống trà với Ba tôi. Sau đó hai cha con dẫn nhau xuất hành, thường thường chúng tôi đi đến chùa Nại Hiên lạy phật. Chính lúc trên đường đi Ba tôi mới kể cho tôi nghe nhiều chuyện của quê tôi. Cái chuông chùa của làng Nại Hiên là do ông Án Nại đúc tặng cho làng (Ông Án Nại tên là Nguyễn Hanh, Án Sát tại Nghệ An, nguyên quán của ông ở làng Nại Hiên nên thường gọi ông là Án Nại, sau ông từ quan theo phong trào Văn Thân, Cần Vương, bị tử thương ở mặt trận Phú Thượng, Hòa Vang, Quảng Nam). Có một năm vợ chồng người học trò cũ của Ba ôi tới chúc tết thầy. Ba gọi tôi ra chào chị Hồng, người mà khi tôi còn nhỏ Ba tôi nhờ chị chăm sóc cho tôi vì má tôi mất sớm. Ba tôi đi dạy mang tôi đi theo, các chị thay phiên chăm sóc tôi, đút cơm, tắm rửa, thay áo quần. Trong số các chị thì chị Hồng là người lo cho tôi nhiều nhất. Lúc nầy tôi đang học đệ nhị. Từ trong buồng ngủ bước ra. Chị Hồng trố mắt nhìn tôi: “Thằng Sinh đây hả thầy? Hồi nhỏ nó bụ bẩm sao lớn lên nó ốm quá vậy? có đau gì không? Ừ, mà như vậy trông có vẻ thư sinh, bảnh trai. Hắn mà gái trông thấy phải chạy theo thôi” Chị hỏi tôi, hồi nầy có còn thích ăn bánh bèo không? Hồi còn nhỏ xíu khi dẫn nó ra chợ, bao giờ nó cũng chỉ hàng bánh bèo, ăn một lần bốn năm chén. Tôi gật gật đầu, ý của tôi nói với chị vẫn còn thích ăn bánh bèo.

Vợ chồng chị Hồng chắc là khá giả, chị ấy móc tiền lì xì cho tôi 200 đồng, số tiền đó lúc ấy hơi lớn. Chị kể mấy chị trong lớp hay bẹo má phúng phính của tôi. Thứ bảy chủ nhật các chị thay phiên nhau xin Ba tôi cho các chị mang tôi về nhà. Ba tôi thì lúc nào cũng gật đầu đồng ý. Sau nầy lớn lên tôi mới biết đó là lúc tốt nhất để Ba tôi có thời giờ đi cua “đào”. Ông thầy giáo vợ chết sớm, sống lẻ loi sao được, tuổi lại còn quá trẻ nên có cơ hội thuận tiện lúc nào là ông “tranh thủ” đi đến nhà các bà bồ để tán dóc. Ra tết, chị Hồng chạy xe Honda tới nhà mang cho tôi chừng hơn 10 chén bánh bèo. Bánh bèo Quảng Nam lớn lắm, chén đổ bánh bằng chén ăn cơm, chị nghĩ rằng hồi còn nhỏ tôi ăn được 4 chén, thì bây giờ phải ăn gấp đôi. Tội nghiệp sự chu đáo của chị làm cho tôi nhớ mãi. Ba tôi kể, nhà chị Hồng nghèo nên mỗi năm phụ huynh đi lễ tết cho thầy nào là bánh, mứt , rượu, gà, nếp, bánh tét…Ba tôi gọi mẹ chị Hồng qua nhà lấy bớt đem về nhà ăn tết, nên gia đình chị Hồng mặc dù ít mua sắm cho ngày tết, vẫn có đầy đủ mọi thứ trong nhà. Khi chị đi lấy chồng Ba tôi có đi dự. Sau nầy chị kể cho Ba tôi nghe chị và anh Khiết cùng học một lớp yêu nhau, nhưng gia đình anh Khiết nghèo quá nên anh ấy không thể cưới chị. Con gái đến tuổi không thể chờ đợi nên gia đình phải gả chị cho anh Hoàng ở làng bên. Gia đình anh Hoàng khá giả, chị về làm dâu cũng sung sướng. Anh Hoàng đi lính ở thành phố nên không sợ phải ra trận, còn anh Khiết cũng vào lính được chừng hơn một năm thì tử trận.

Cái vui nhất của tôi là ngồi canh lửa nồi bánh tét. Mấy thằng bạn nhỏ trong xóm tụ lại nghe tôi kể chuyện. Ngồi chung quanh nồi bánh, lửa phừng phực cháy xua đuổi cái lạnh mùa đông, ngồi chờ ngoại tôi vớt ra mấy cái bánh ú cho tôi, bạn bè chia nhau ăn. Sau nầy lớn lên bao giờ tôi cũng mua một lít rượu để sẵn, một dĩa thịt heo dầm nước mắm, một chén củ kiệu, vài thằng bạn ngồi nhâm nhi. Lúc nầy chúng tôi sắp bước vào lính nên bữa nhậu đượm một chút buồn trên mặt.

Tết Mậu Thân, thành phố Đà Nẵng sống trong yên bình. Đêm giao thừa pháo vẫn nổ rộn rã, xen lẫn tiếng súng nổ nhiều hơn mọi năm, tiếng súng nổ nhiều nhất ở ven thành phố. Dân chúng hoàn toàn không biết là Việt Cộng tổng tấn công bị các đơn vị đồn trú bên ngoài đẩy lui. Bốn giờ sáng Ba tôi dậy pha trà, súng vẫn nổ nhiếu mà không dứt, mở radio nghe tin tức, mới biết là Việt Cộng tấn công vào các thành phố Miền Nam. Lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu kêu gọi quân nhân đang ăn tết với gia đình, phải trình diện ở những đơn vị gần nhất. Tất cả gia đình đều hé cửa nhìn ra đường, chỉ thấy xe tuần tiểu của quân đội thỉnh thoảng gắn loa phóng thanh, lệnh giới nghiêm 24 giờ trên toàn thành phố. Tất cả phải đóng kín cửa không được ra đường. Các quân nhân ở xa về ăn tết ra đường đón xe tuần tiểu để được chở vào Quân Vụ Thị Trấn. Sáng mồng một, đài phát thanh địa phương báo cho biết là Quân đội đã đẩy lui các cuộc tấn công vào thành phố. Chỉ biết được tin tức qua đài phát thanh. Người dân Đà Nẵng yên tâm ăn tết không bị quấy phá bởi lực lượng bên kia. Chừng 9 giờ sáng mọi người ra đứng trước cửa nói chuyện với hàng xóm, khuôn mặt họ đều ngơ ngác. Nói chuyện về tình hình chiến sự chỉ đoán già đoán non chứ quả thật không ai biết gì cả. Tối mồng một tết nghe phong phanh có mấy người trong xóm trước đây đi nhảy núi, đã thấy xác của họ ở xã Hòa Cường. Chuyện thật hư không ai biết, mọi chuyện đều bị xé to. Tối cả nhà quay quần chung quanh chiếc radio để nghe BBC và VOA, lúc nầy mới biết rỏ các tỉnh, thành phố ở Miền Nam đều bị tấn công. Nghe lén đài phát thanh Hà Nội thì họ bảo quân Cách Mạng đã chiếm được Miền Nam, dân chúng Miền Nam đón tiếp niềm nở. Sau nầy mới rõ, các cán binh Miền Bắc tin vào lời tuyên truyền trên radio, trên truyền đơn, dân chúng sẽ đón tiếp các anh nên họ tưởng thật. Khi vào thành phố họ mới biết chẳng có ai đón tiếp họ. Ai thấy họ cũng đều sợ hãi, cũng đều trốn tránh. Thú thật người dân lúc đó rất hoang mang không thể tin được đình chiến mà lại bị quân Bắc Việt tấn công. Ở Đà Nẵng chỉ nghe súng nổ trong ngày mồng một tết, khuya mồng một tiếng súng nghe xa xa nghĩa là chiến sự đang ở các vùng quê. Như vậy quân đội đã làm chủ được tình hình. Đó là một cái tết đã làm điêu đứng toàn dân, phe Cộng Sản xé bỏ hiệp định đình chiến. Từ cái chuyện Tết Mậu Thân, tôi bắt đầu ngao ngán chế độ Công Sản, tôi không tin những gì họ tuyên truyền trước đây. Tôi nghĩ nếu chế độ nầy họ thắng trong cuộc chiến thì dân chúng sẽ khổ biết mấy. Chỉ có một hiệp đình đình chiến trong 3 ngày tết để dân chúng nghỉ ngơi mà họ trắng trợn vi phạm. Thì làm sao họ tôn trọng những thứ khác. Sau khi chiếm được Miền Nam thì mới tỏ rõ bộ mặt nham hiểm thật sự của họ. Những ngày sau đó thành phố Huế vẫn còn phe Giải Phóng chiếm đóng, chiến sự vẫn còn gay gắt. Gần một tháng quân đội Miền Nam mới thực sự chiếm lại Huế.

Nói đến tết mà không đề cập tới tết Mậu Thân ở Huế là một thiếu sót lớn. Mặc dù tôi không ở Huế để chứng kiến cái cảnh tan nát mà người dân Huế phải gánh chịu. Thế nhưng mỗi ngày tôi phải mở đài BBC và VOA để nghe chiến sự ở Huế. Đà Nẵng và Huế chỉ cách nhau vào khoản 80 cây số theo đường chim bay (100 cây sô tính theo đường quốc lộ), thế mà Huế lại gánh tất cả những hãi hùng thật tội nghiệp. Những nơi bị Việt Cộng chiếm đóng xẩy ra biết bao tai ương, số người bị họ giết nhiều vô kể. Đổ lỗi cho cá nhân nầy, cá nhân kia gây nên, tôi không đồng ý, vì cá nhân không thể tàn bạo như vậy, giết hại bà con ruột thịt của mình. Chỉ có quyết định của đảng Cộng Sản. Tôi không đề cập đến chuyện nầy, điều mà tôi muốn nói ra trong hồi ký nầy là tang thương ụp lên đầu những người dân vô tội, nhà nào cũng có người là nạn nhân của cuộc tấn công tết Mậu Thân. Gần đây sau bốn mươi bảy năm những người Cộng Sản im tiếng, thì bổng nhiên có một người ngụy tạo ra một tài liệu bảo rằng những nạn nhân tết Mậu Thân đều do máy bay Mỹ giết hại. Khi quật những nấm mồ tập thể, tất cả những nạn nhân bị cột tay chung với nhau, đầu bị vỡ sọ. Như vậy họ dùng cuốc xẻng đập vào đầu, không thấy một vết đạn nào. Lại nghe nói một ông đạo diễn dàn dựng một cuốn phim về tết Mậu Thân quy tội cho Mỹ Và quân đội Cộng Hòa. Còn cán binh Bắc Việt vô tôi. Việc làm nầy đi ngược lại sự thật đã trở thành hiển nhiên, mà họ tán tận lương tâm thêu dệt ra để tránh tội. Họ quên nghĩ rằng, những vùng của họ chiếm đóng làm sao có lính Cộng Hòa vào bắt đồng đội của mình đem ra giết. Cho nên vải thưa không thể che mắt thánh. Chuyện của họ làm người dân
Huế đều biết rỏ, không chối cải được. Người Mỹ trước đây quá mệt mõi “Cuộc Chiến Việt Nam”, họ không muốn khui lên đống tro tàn sợ đau lòng dân chúng Mỹ. Những năm gần đây, sự việc đã trở nên nguội lạnh, đây chính những Quân Nhân Mỹ tham chiến tại Việt Nam bắt đầu lên tiếng. Họ cho rằng QLVNCH là một quân lực hùng mạnh nhưng phải thua vì thiếu vũ khí và đạn dược. Chính nước Mỹ gây ra oan khiên nầy. Song song đó thì bà Giáo Sư Orgar Dror phân khoa lịch sử Đại học Texas A&M (một người Do Thái gốc Nga) Bà dịch quyển sách “:GIẢI KHĂN SÔ CHO HUẾ” Ra tiếng Anh với nhan đề “MOURNING HEADBAND FOR HUE” Nguyên bản chính của Nhà Văn Nhã Ca, tố cáo những tội ác của quân Bắc Việt gây ra tang thương cho Huế. Chính chị Nhã Ca đã có mặt ở Huế lúc đó, Chi là một nhân chứng sống, chị viết với một tấm lòng dành cho Huế, không thêu dệt hay bịa đặt. Cuộc ra mắt sách tại Đại Học UC Berkeley, California. Đưiợc sinh viên Mỹ hoan hô nhiệt liệt.

Sau khi Huế được Quân Đội Cộng Hòa chiếm lại, chừng một tháng sau, tôi có dịp ra Huế. Cầu Trường Tiền sụp, nhà cửa tiêu điều, đường phố vắng người. Chỉ có xe quân đội tuần tiểu trên đường phố. Nhìn Huế, tôi có cảm tưởng như Huế mắc phải cơn trọng bịnh chưa kịp hồi phục, sống trong uể oải, nhìn thấy người đi đường mặt buồn thiu. Huế tang thương như vậy đó, thật tôi nghiệp. Đi đâu cũng thấy vết tích chiến tranh, số người chết nhiều quá, nhiều hơn ngày Kinh thành Huế thất thủ trong tháng năm ta , khi vua Hàm Nghi khởi nghĩa cuộc binh biến bất thành. Sau đó quân Pháp tràn vào gặp ai giết đó, bất kể người có tội hay không. Huế nơi nào cũng có máu đổ. Sau nầy người dân Huế nhà nào cũng lập đàn cúng cô hồn trong ngày Kinh Thành thất thủ.Sau nầy đêm giao thừa người dân Huế cũng lập đàn cúng tế cho những vong hồn bị Việt Cộng giết trong tết Mậu Thân. Số người bị giết chết trong tết Mậu Thân nhiều hơn số người bị Pháp giết trong ngày Kinh Đô thất thủ.

Khi ra đơn vị, tôi trình diện Trung Đoàn 51 Biệt Lập, đồn trú tại Quảng Nam, vào khoảng hai mươi tháng chạp, nghĩa là chỉ còn 10 ngày nữa tới tết. Đây là cái tết đầu tiên của tôi ở quân đội. Năm thằng sĩ quan ở chung một phòng. Người lính phụ trách câu-lạc-bô, đêm giao thừa mang tới cho chúng tôi 2 lít rượu đế và 5 lon thịt ba lát, bảo rằng Đại Úy Đại Đội Trưởng bảo mang đến cho các ông uống rượu mừng xuân. Năm đứa trải chiếu ngồi xuống sàn nhà bắt đầu uống rượu. Thú thật đây là cái tết buồn nhất trong đời tôi, chúng tôi ngồi uống rượu mà không nói một lời, mỗi đứa mang một tâm trạng khác nhau. Nhớ nhà, nhớ người yêu, nhớ bạn bè còn bên ngoài, nhớ quán cà phê… Uống hết hai lít rượu định dọn dẹp đi nằm thì mấy người lính ở Trung Đội của tôi trông coi, mang rượu vào nhập cuộc, lúc nầy đông người chúng tôi mới cảm thấy hứng chí. Cuộc rượu cho đến sáng mồng một mới tan hàng. Suốt ngày mồng một chúng tôi ngủ li bì.

Sau 1975, tôi sống ở Sài Gòn. Có một năm tôi về Đà Nẵng ăn tết. Chiều 28 tháng chạp, Ba tôi và tôi ra chợ hoa tìm một cành mai. Tôi muốn mua một cành mai lớn, Ba tôi thì bảo mai lớn mắc tiền trong lúc kinh tế khó khăn, nên mua một cành nhỏ cho đỡ tốn kém. Tôi đồng ý vì nghĩ lại mọi người đang chật vật mà mình phung phí như vậy cũng khó coi. Tất cả hoa hồng và hoa cúc Ba tôi trồng nở rực rỡ nên cái tết năm đó thật vui cửa vui nhà. Mồng bốn tết tôi chuẩn bị vào lại Sài Gòn thì Công An mời lên Phường làm việc vì họ nghi tôi thuộc diện sĩ quan trốn học tập. Tôi đi theo người Công An khu vực lên phường, trình bày các giấy tờ trình diện cho họ xem, tôi bị thương được cho về địa phương học tập tại chỗ. Ông trưởng Công An phường bảo tôi để giấy tờ ở đây để họ xác minh. Tôi thấy không xong nên tìm người giúp đở. Cũng may thằng cháu gọi tôi bằng cậu bảo với tôi là rõ ràng tụi nầy muốn làm tiền, cậu đưa một ít tiền con đi lấy giấy tờ về cho cậu. Quả nhiên một lúc thằng cháu mang giấy tờ về cho tôi. Từ đó, tôi không bao giờ về Đà Nẵng ăn tết nữa. Ở Sài Gòn những ngày tết đến, tôi nhớ nhà quay quắt thế nhưng nghĩ lại cái cảnh làm tiền trắng trợn, bắt nạt dân chúng của Công An địa phương, tôi đành phải từ bỏ ý định trở về. Một điều lạ là các cán bộ ở ngoài Bắc vào, họ đi thăm nhà các người quen họ mặc đồ veston dân sự, nhưng trên ngực họ đeo đầy huy chương. Chỉ thấy ở Đà Nẵng có hiện tượng nầy, còn ở Sài Gòn tôi không thấy. Hình như họ muốn khoe cho mọi người biết chiến công của họ đạt được. Tôi còn nhớ lối ăn nói của những người nầy, họ khoe khoang khoác lác tô bóng chế độ, mà không có ai dám cãi lại họ. Họ thể hiện cái ngu dốt nên tạo ra trò hề cho người nghe. Những người dân Miền Nam họ rất ngán ngẩm loại người nầy.

Ở Sài Gòn mỗi năm tôi đều nấu bánh tét để biếu cho công nhân làm trong cơ sở của tôi, và cũng để ở nhà khi có khách đến thăm. Tôi nhớ có một năm ngay trong ngày mồng một tất cả đồ ăn trong nhà nấu để đãi khách đều hết sạch. Các công nhân tụ tới nhà tôi chơi cả ngày, đánh bài, ăn uống… Sau khi thăm bạn bè về nhà, Vú Hai gọi tôi ra sau bếp báo cho biết không còn đồ ăn, tôi phải chở bà ra chợ Bà Chiểu mua thêm thức ăn nấu cho ngày mai. Tôi nói với Bà Vú để cho các em tự do muốn ăn gì cứ việc lấy, vui vẻ đừng nói gì phiền các em. Tết năm đó nhà tôi đông vui. Theo thông lệ các em giúp việc trong cơ sở của tôi mỗi năm được lảnh 2 đòn bánh tét, hai ký thịt heo, và một số tiền thưởng cuối năm. Những năm khốn khó đó, thịt heo rất hiếm, phải mua chợ đen. Thú thật làm ăn tại Sài Gòn trong lúc tranh tối tranh sáng cũng kiếm ăn được. Nhưng bù lại phải đút lót, biếu xén cho cán bộ, phải chống chọi đủ mọi thứ. Nhiều khi tết đến mà ngân hàng không còn tiền chi trả. Chúng tôi phải vay mượn để trang trải cho nên tiền lãi tính ra rất khả quan, nhưng đến khi ngân hàng trả cho mình thì tròm trèm vừa đủ vốn. Làm ăn vay mượn phải tính bằng vàng, mà vàng thì lên giá hàng ngày. Có những cơ sở không đủ vốn nên đi vay mượn thì phải phá sản, không cách nào hoàn vốn lại cho chủ nợ. Làm ăn tư nhân ở Sài Gòn, mỗi năm đều phải quà tết cho cán bộ. Đó là một tệ nạn rất thối tha cho chế độ.

Thực tình mà nói, mười lăm năm sống trong nước, tôi trãi qua cay đắng, vinh nhục. Nhưng rồi mọi chuyện cũng trôi qua. Ở ngay trên quê hương mình mà mỗi lần đến tết không dám về thăm nhà, nghĩ cũng buồn thật. Sáng mồng một tết, tôi chở hai con đi chùa, Chùa chúng tôi đi ở Cống Bà Xếp, gần ga Hòa Hưng, Sài Gòn. Chùa do một vị Trụ Trì người Miền Trung (hình như là Bình Định)trông coi. Vì chùa nhỏ ở trong một con hẽm sâu nên người đi viếng chùa đầu năm cũng không nhiều. Thầy rất quý mến tôi. Đến chùa nầy tôi nhớ lại chùa Nại Hiên của tôi, mỗi năm đi với Ba tôi, cùng ngồi trên bàn với mấy bác bạn với Ba tôi trong làng, uống nước trà, nói chuyện râm rang. Khi về lại nhà thì quá nửa đêm, bao giờ Ba cũng bảo tôi vào nhà trước để “đập đất”. Mặc dù thức khuya, nhưng bao giờ Ba tôi cũng dậy sớm pha trà cúng đầu năm. Cái đêm ba mươi trầm lặng, thế mà mỗi khi xa nhà nhớ lại thấy nó lâng lâng, lòng bỗng dưng cồn cào quay quắt. Cho đến bây giờ hơn hai mươi lăm năm xa xứ lòng tôi càng quặn đau thêm. Nếu có ai hỏi tôi, đêm 30 tết ở Đà Nẵng có cái gì khác với đêm 30 tết ở Sài Gòn trước đây hay Hải Ngoại bây giờ? Tôi sẽ không trả lời được. Có những điều chỉ biết cảm nhận nhưng không thể mô tả bằng ngôn ngữ, trường hợp nầy cũng vậy.

Tôi đến Mỹ năm 1990. Năm đó tôi sống ở Philadelphia thuộc tiểu bang Pennsylvania. Đêm 30 tết tôi có đi dự đón giao thừa ở nhà thờ gần nhà, mặc dù chúng tôi không phải là giáo dân. Tôi cảm thấy lẻ loi, những người tham dự rất vui. Hay là tâm trạng của người mới hội nhập chưa thích ứng với cuộc sống nơi đây, nhưng sau nầy tôi có một thời gian sống ở Oakland gần San Jose, California, thành phố người Việt đông, thế mà tôi vẫn không tìm thấy cái không khí như bên quê nhà. Mới biết quê hương đã ăn sâu, thấm đẫm trong lòng chúng tôi. Không có bất kỳ nơi nào giống và cũng không có nơi nào bằng quê tôi. Có thể nơi đây thừa mứa vật chất, giàu sang, tiện nghi đầy đủ. Những cái đó không bù đắp được cái trống rổng trong lòng tôi, những thiếu thốn nghèo nàn, những bữa ăn trong ngày tết đơn giản đạm bạc, những trẻ con xúng xính trong bộ áo quần mới rộng rinh trừ hao khi lớn lên chút đỉnh có thể mặc được. Tôi vẫn thấy mọi thứ trên quê hương nghèo nàn của tôi mang một vẻ đẹp tuyệt vời, thắm động nghĩa tình mà không nơi nào thay thế được. Sau nầy tôi định cư ngụ nhiều chổ khác nhau, nhiều tiểu bang khác nhau. Dù có bận rộn đêm 30 tết tôi vẫn chở các con đi lễ chùa, vì đó là cách tốt nhất còn gìn giử lại được một chút gì đó cho quê hương.

Giống như Ba tôi ngày xưa, sau khi cúng giao thừa tôi ngồi một mình uống trà. Chính lúc nầy là lúc nhớ nhà. Theo thói quen đầu năm tôi thường làm vài câu thơ mà người xưa hay bảo là khai bút:

“những câu thơ khiến ta chùng bước
lời ru quen đẩm nát lòng nhau
một thuở nhớ hoài thành mỏi mệt
cuối năm trời lạnh thêm nỗi sầu”

* NHỚ NGƯỜI, CHIỀU CUỐI NĂM
Trong thi tập “TÁT CẠN ĐỜI SÔNG”

Hoặc:

“trời lạnh, đêm tàn, một mình uống rượu
một mình ngồi giữa đêm ba mươi
tìm quanh không thấy một bóng người
lòng rũ, mắt đục mờ sương khói.”

* ĐÊM BA MƯƠI, UỐNG RƯỢU
Trong thi tập “TÁT CẠN ĐỜI SÔNG”

Bây giờ đã hơn bốn mươi năm từ Miền Nam rơi vào tay Cộng Sản. Những người Việt dồn dập đến đinh cư rải rác trên các đất nước khác nhau. Họ hội nhập hoàn toàn vào những nơi mà họ định cư, thế nhưng họ không quên được ngày tết trên quê hương. Gia đình nào cũng có vài cái bánh chưng hay vài đòn bánh tét, ăn để đỡ nhớ hay ăn để nhớ lại cảnh tết trên quê mình. Dù bây giờ việc trở về nó không khó khăn như trước đây. Thế nhưng trở về cũng cảm thấy xa lạ. Có lẽ vì xa nhau quá lâu cái tình nó cũng vơi đi ít nhiều. Đêm ba mươi nó không trầm lặng như ngày xưa, mọi người đổ ra đường chật ních, chùa hay nhà thờ không chen chân lọt bởi lẽ người thực tâm đi cúng Phật, lạy Chúa thì ít, mà người đi đến các nơi đó để phô bày thời trang, trai gái chọc ghẹo nhau thì nhiều. Sau một đêm 30 tết, cây cỏ ở chùa trụi lũi vì cái chuyện hái lộc đầu năm. Tôi là người hăng hái trở về ăn tết ở quê nhà nhiều nhất, thế mà khi trở về chứng kiến cái cảnh đón tết như vậy, xô bồ, thiếu văn hóa. Tôi sợ, ngao ngán và không cảm thấy thích thú. Tôi trở thành kẻ xa lạ ngay cả trên quên hương mình. Tôi đau vì những cái trân trọng nhất bị người ta lợi dụng, biến nó trở thành một trò chơi, giành giựt nhau ngay những chổ tôn nghiêm nhất. Xem trên internet cảnh hái lộc đầu năm tại các chùa danh tiếng ở Miền Bắc ta phải kinh hồn, chen lấn nhau, giành giựt nhau những hoa quả cúng Phật, biến bàn thờ trang nghiêm của Phật thành một bãi chiến trường, đồ đạc lăn lóc, vung vãi từ bàn thờ ra đến sân chùa.

Hôm nay là ngày đầu năm, tôi viết lại hồi ức nầy để tưởng nhớ, để suy ngẫm. Những điều hay cũng có, những điều không hay cũng nhiều. Tất cả đều rơi vào thời kỳ quá vãng. Dù hay dù dở nó đều gợi lại cho tôi một chút kỹ niệm vui buồn. Khi bắt đầu lớn lên chiến trường cũng bắt đầu sôi động, những cái tết trong lo âu, trong sợ hãi, trong chết chóc. Rồi tới thời kỳ quân đội Bắc Việt chiếm Miền Nam, ăn những cái tết nghèo nàn thiếu thốn, gia đình ly tán. Cho đến năm 1990 mới thực sự có tết đúng nghĩa, vì đất nước mở cửa có sự đầu tư của nước ngoài. Người dân được nới lỏng, cũng trong thời điểm nầy tôi bắt đầu rời khỏi đất nước.Tôi mong rằng từ nay về sau đất nước tôi không bị những thế lực đè lên đầu nhân dân, khiến những bất hạnh cứ đeo mãi, người dân không ngóc đầu lên nổi./

Giọt Mực Loang

Trong lớp tôi thuở ấy có hai người con gái vừa học giỏi mà cũng vừa đẹp. Những thằng học cùng lớp không có đứa nào dám hó hé lại gần, đừng nói chi cái chuyện “cua” họ. Hà người Bắc tính tình hiền lành dễ thương. Loan người Huế tính tình chanh chua, khó ưa nhưng rất giỏi Việt văn. Trong lớp học hai người con gái nầy như hai thái cực, có những hiềm khích. Nói cho ngay chúng tôi chỉ thấy thái độ của Loan tỏ vẻ ganh tị hiện lên hành động và trên nét mặt. Còn Hà tỏ vẻ nhu mì nhưng sẵn sàng đáp trả nếu Loan xâm phạm đến. Chính hai người nầy làm cho bọn con gái trong lớp chia làm hai phe. Phe nói tiếng Huế theo Loan, phe nói tiếng Bắc theo Hà. Mấy bà Quảng Nam đứng trung gian. Mỗi lần đến giờ ra chơi, hai phe tụ nhau hai góc, nói xấu nhau, chì chiết nhau. Tụi con trai chúng tôi chọc đầu nầy, thọc đầu kia cho hai bên càng hiềm khích nhau hơn, lấy làm thích thú. Cho nên mấy thằng hay đi ngang qua nghe lóm, ít thì nói cho nhiều, vẽ rắn thêm chân, câu chuyện trở thành trầm trọng khi chúng nó học lại cho phe bên kia biết. Cứ vậy hai bên càng ngày càng trầm trọng. Lúc đầu còn nguýt háy nhau trong bóng tối, về sau công khai công kích nhau. Bài luận của Loan được thầy đọc cho cả lớp nghe là mấy bà Bắc Kỳ ghi lại những chỗ không đồng ý. Thế là tranh cãi nhau, mạ lỵ nhau một cách ranh mãnh. Lúc đầu Thầy dạy Việt Văn thích thú vì có sự tranh cãi rất sống động, làm cho giờ học sôi nổi. Sau thầy nhận thấy sự tranh cãi có phần gay gắt, mạ lỵ, Thầy ra dấu “stop” không được tiếp tục làm sứt mẻ không khí học tập. Từ đó Thầy không đọc bài của Loan nữa.
Hà ở cùng một đường với tôi nên thỉnh thoảng đến nhà rủ tôi đi học. Hà hay hỏi tôi có biết phe Huế nói gì không? Có nghe động tịnh gì phe bên kia không? Tôi hỏi lại Hà: “Sao bạn quan tâm những thứ ấy làm gì? Để thời giờ lo học.” Hà vừa đi vừa suy nghĩ một lúc mới trả lời với tôi: “Nhiều khi Hà nghĩ thật vô lý,. Tại sao phải mất thì giờ nhiều như vậy? Thế nhưng phe Huế bên kia ép Hà quá, chịu không nỗi.” Tôi nhìn Hà thấy tội nghiệp. Tôi nói với Hà đừng để ý, đừng nghe ngóng tự nhiên sẽ cảm thấy thanh thản. Nói cho Hà yên lòng chứ sự thật cũng khó, làm sao mà không nghe mấy cái giọng Huế chanh chua nhức đầu, xoáy vào tai như mũi khoan, mấy bà Bắc Kỳ không chịu được nên hai bên không bên nào chịu thua. Cái hồi gay cấn nhất là lúc Hà có bồ là một ông thiếu úy người Bắc, thỉnh thoảng đứng đón Hà ở cổng trường. Ông thiếu úy nầy cũng bảnh trai, xứng đôi với Hà. Đây là cơ hội mấy bà Huế trề môi chế giễu, trù ẻo cho ông nầy ra trận chết phứt đi cho rảnh mắt. Lời trù ẻo của mấy bà Huế nầy linh thiêng thật, không thấy ông Thiếu Úy tới đón Hà như trước, nghe tin ông ấy tử trận. Tôi có hỏi khi Hà chờ tôi để cùng đi học, Hà không trả lời nhưng tự nhiên bật khóc. Trên đoạn đường tới trường, tôi hối hận đã khơi lại sự đau đớn của Hà. Từ đó không bao giờ tôi đụng chạm đến chuyện nầy. Chừng vài tháng sau tự nhiên Hà nói với tôi là người yêu của Hà chết thật, lời thú nhận nầy gây cho tôi xúc động, tôi cảm thấy thương hại cho Hà. Tuổi mới lớn bắt đầu có người tình thì nửa chừng gãy đỗ. Chuyện nầy tôi không hề hé môi cho ai trong lớp biết.
Sắp đến hè, đứa nào cũng bận rộn học thi. Tình trạng ganh nghét giữa hai phe con gái Bắc và Huế cũng có phần lắng dịu. Sau kỳ thi tú tài năm đó mỗi người mỗi ngã. Năm cuối cùng lớp có tổ chức một cuộc tất niên, chị trưởng lớp nhờ tôi đứng ra làm trung gian cho Loan và Hà bắt tay nhau trong buổi tiệc tất niên đó. Tôi đại diện cho lớp cám ơn quý thầy đã dạy dỗ chúng tôi và lời bày tỏ cùng các bạn: “Thưa các bạn, như vậy sau bữa tiệc nầy chúng ta chia tay nhau vĩnh viễn, mỗi người mỗi ngã trên đường đời, thành công hay thất bại đó là số phận của mỗi người. Tuy nhiên chúng ta cũng nên nói với nhau lời cầu chúc tốt lành nhất, hoa mỹ nhất. Tôi mong rằng các bạn hãy bỏ lại sau lưng mình những tị hiềm, những ganh ghét, vì cơ hội gặp lại nhau rất hiếm. Tôi xin đề nghị chị Loan và chị Hà bước lên trên bục bắt tay nhau lần cuối. Tôi nghĩ hành động đẹp nầy của hai chị sẽ để lại dấu ấn vĩnh viễn trong lòng của những bạn cùng lớp trước khi chia tay…” Hà và Loan e thẹn bước lên bục giảng bắt tay nhau, tự nhiên hai người bỏ tay ra ôm nhau khóc, làm cho các chị trong lớp đều khóc sướt mướt. Các thầy rất ngạc nhiên không hiểu chuyện gì đã xẩy ra cho hai người. Đó là niên học đáng nhớ nhất trong đời học sinh chúng tôi. Sau khi thi tú tài bạn bè ít có dịp gặp lại.
Chúng tôi những thằng bạn học cũ phần đông vào lính, mà lính thì biết khi nào mới gặp lại nhau. Nói vậy chứ thỉnh thoảng về phép đi uống cà phê cũng gặp được vài thằng bạn cũ, từ đó hỏi thăm biết được thằng nầy thằng khác, có đứa chết trận, có đứa bị thương. Đứa nào cũng có vẻ hiên ngang với bộ đồ lính trên người. Còn bạn gái ít khi gặp lại nhưng cũng biết tin, phần đông các chị có chồng là lính nên cũng đa đoan với cuộc chiến mặc dù không trực tiếp ngoài chiến trường. Một lần tôi về phép thăm thằng bạn cũ làm thông dịch viên sở Mỹ tại Đà Nẵng. Thằng bạn hỏi tôi mầy còn nhớ con Loan không? Loan hiện làm ở đây. Tôi trả lời nhớ chứ, mầy gọi Loan qua đây chơi được không? Hắn chạy đi gọi Loan. Tôi ngồi trong phòng xem báo thì Loan vào. Tôi ngước lên nhìn, thú thật tôi không ngờ rằng Loan bệ rạc như vậy. Tôi đứng dậy bắt tay Loan, bàn tay của Loan không mềm mại, có vẻ cứng cáp. Tôi hỏi Loan có chồng con gì chưa? Loan lắc đầu, trong nét mặt có chút gì cay đắng. Loan nói với tôi nhờ bạn giới thiệu cho mình một ông lính, không cần quan tước gì cả. Tôi ngạc nhiên nghĩ trong bụng sĩ quan bà còn chê huống chi là lính. Tôi hỏi lại: “Loan có gì không vui phải không? Sao đắng cay quá vậy.” Loan lắc đầu không nói. Ngồi nói chuyện với tôi một hồi, Loan chào để trở về phòng làm việc. Thằng bạn nói với tôi về Loan: “Gia đình Loan có một căn nhà cho Đại Hàn thuê, không biết sao Loan có thai với thằng Đại Hàn thuê nhà. Ông bà già phải gởi Loan ra Huế sinh đẻ. Khi đứa con được ba tuổi mới đem về nuôi. Gia đình bảo rằng đứa nhỏ là con của bà chị bà con ở Huế, chồng chết Loan xin về làm con nuôi.” Tự nhiên tôi thấy thương hại cho Loan, hèn chi khi nói chuyện với tôi Loan có vẻ không vui.
Một lần tôi về phép, đi uống cà phê với mấy thằng bạn cũ. Một thằng nào trong bọn nói với chúng tôi là con Hà Bắc Kỳ lấy thằng Quang. Tất cả mọi người đều trố mắt nhìn vì một sự nghịch lý mà không ai có thể ngờ. Hà học rất giỏi thi đậu dễ dàng tú tài I và tú tài II, còn ông nội Quang của chúng tôi thi mãi không đậu. Hồi đó hắn nổi tiếng học dốt nhất trong lớp, thi tú tài I năm lần bảy lược vẫn không qua, sau phải đi lính chuyên viên Không Quân. Không biết làm sao hắn cua được con Hà nghĩ cũng lạ thật. Ngoài chuyện học giỏi, Hà cũng là một trong những con gái đẹp trong lớp. Ít ra cũng lấy được một người tương xứng. Mấy đứa ngồi uống cà phê bữa đó cứ tiếc thầm mãi. Chuyện số mạng cay nghiệt như vậy dù không tin cũng phải công nhận đã xẩy ra với Hà. Tôi nghĩ hay là Hà đã từng có người yêu là sĩ quan tác chiến, bị tử thương ngoài chiến trường nên sợ sẽ trở thành quả phụ, để yên thân Hà phải lấy một tấm chồng ngày đêm hú hí với vợ tới già, không sợ nửa đường gãy gánh. Thú thật chúng tôi chỉ đoán già đoán non chứ hoàn toàn không biết gì về cuộc sống của hai người. Tình yêu khó nói thật. Gia đình Hà đã dọn đi nơi khác từ lâu nên không còn gặp Hà như trước đây. Khi chia tay năm cuối cùng, đi về cùng đường Hà cho tôi biết nếu đậu kỳ nầy Hà sẽ đi Sài Gòn thi vào trường Phú Thọ để học kỹ sư điện. Tôi nghĩ ước mơ của Hà sẽ thành công dễ dàng vì Hà là học sinh giỏi. Tôi không biết khi lấy Quang, Hà đã đậu kỹ sư chưa?
Đó là cuộc đời của hai người bạn gái vừa đẹp mà cũng học giỏi, vậy mà có chút gì cản trở không suông sẻ trên đường đời. Còn bọn con trai chúng tôi, khi ra trường chừng hơn một năm sau bị chi phối bởi lệnh Tổng Động Viên. Một mẻ lưới oan nghiệt không ai thoát ra được, thỉnh thoảng được tin có thằng tử trận. Đứa nào về thành phố thì đến nhà thắp cho bạn mình một cây nhang hay tiễn bạn ra nghĩa trang. Khi ra về tìm một quán nhậu, hay quơ đại một chai rượu đế về nhà ngồi uống một mình. Cố xua đuổi nỗi buồn, cố quên những bất hạnh mà những đứa bạn lần lược nằm xuống. Tâm trạng của chúng tôi lúc nào cũng lo sợ, không biết đến bao giờ sẽ tới phiên mình. Giọt mực nhỏ xuống trang giấy không đọng lại một chỗ mà nó loang rộng làm mờ cuộc đời của chúng tôi. Tôi nghĩ những người bạn gái cũ, chắc các chị cũng không thua gì chúng tôi. Ai cũng phải lấy chồng, mà chồng của các chị cũng không thể thoát ra khỏi vòng cuộc chiến, cho nên đôi khi ra phố trông thấy các chị chít khăn tang trên đầu là biết ngay các chị có tang chồng. Bạn trai hay bạn gái trong thời chinh chiến đều mang nỗi lòng lo sợ như nhau, đau khổ giống nhau.
Rồi tới 30 tháng 4 năm 1975. Tưởng rằng hòa bình mà mọi người chờ đợi sẽ tốt hơn, cuộc sống sẽ mang tới cho chúng ta niềm vui, không trông thấy cảnh chết chóc. Thế nhưng mọi chuyện không như vậy. Tất cả chúng tôi đều vào tù, những người vợ chắt chiu đi nuôi chồng mà đời sống của họ vô cùng thảm thiết. Những tiểu thư ngày xưa nuôi những ước mơ cao sang, chỉ vài năm sau trông thấy họ te tua tội nghiệp. Mấy thắng bạn học tập trở về, trông thấy họ bệ rạc như những ông cụ non, thân hình ốm o thiếu ăn. Toàn cảnh Miền Nam lúc ấy sống trong cơ cực. Không ai giúp được ai. Tôi về Đà Nẵng nhắn mấy thằng bạn cũ tới nhà uống với nhau ly rượu thì bị Công An đến gây khó dễ. Một người bạn từ Sài Gòn về thăm bạn bè, vào kể lại cho tôi nghe là anh ấy tập trung một số bạn cũ ngồi uống rượu. Anh đi ra nhà sau đi tiểu thì trông thấy mấy ông Công An rình rập bên ngoài nghe lén. Anh sợ quá nhảy rào chạy thoát thân. Ngày mai anh nghe người nhà báo cho biết là tất cả những người ngồi nhậu đều bị bắt. Từ đó ở Sài Gòn tôi ít về thăm quê nhà. Nhìn thấy gia đình nào cũng xác xơ, lòng người rệu rã, những cán bộ thì hống hách chèn ép dân chúng. Ai sống tại Đà Nẵng thời ấy cảm thấy ê chề ngao ngán, nhưng không dám hé răng.
Đến thập niên 90, có sự ban giao với Hoa Kỳ đất nước mở cửa người dân được nới lỏng. Rồi chương trình HO cho những người tù cải tạo ra đi, đời sống dân chúng còn ở lại được thoải mái đôi chút. Đất nước xem như được khởi sắc cho đến bây giờ. Tôi ra đi năm 1990, nghĩa là tôi có 15 năm sống trong nước dưới chế độ Cộng Sản, tôi biết và hiểu tường tận dân tình lúc ấy. Qua bên nầy rồi nhìn lại, thật khủng khiếp. Tôi không hiểu một chế độ như vậy mà tại sao cho đến bây giờ vẫn còn tồn tại? Những người có lương tri, có hiểu biết làm sao chấp nhận một cuộc sống bị nhà cầm quyền tước đoạt hết như vậy? Mới hay áp lực aka, tù đày đã làm dân chúng khiếp sợ và răm rắp vâng lời. Thôi chuyện đất nước dài quá, nói mãi không hết được. Tôi trở lại chuyện của chúng tôi. Giọt mực nhỏ xuống loang mãi trong đời của những thằng học sinh chúng tôi. Câu hát ngày xưa trong thời tiểu học mà ai ai cũng biết: “Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau…” Thế hệ chúng tôi, tổ quốc chối từ. Người ta cần những người không có kiến thức, nhưng biết trung thành, biết quỵ lụy. Vì vậy tất cả những người Miền Nam đều bị loại ra khỏi các cơ quan lớn nhỏ của chính quyền. Cũng may cái phao cứu chúng tôi đúng lúc là được định cư ở Hoa Kỳ.
Cách đây 10 năm, trong một lần ra mắt sách của một người bạn tại North Carolina, thì một người trong Ban Tổ Chức đến cho tôi biết là có một bà đứng bên ngoài cần gặp tôi. Tôi ra thì gặp Loan. Tôi rất ngạc nhiên không biết tại sao Loan biết tôi ở đây? Loan giới thiệu người chồng, anh đến bắt tay tôi. Nhìn Loan với khuôn mặt vui tươi rạng rỡ, tôi biết họ đang hạnh phúc. Vợ chồng Loan đến Mỹ năm 1991 cùng với các con. Tôi không dám hỏi Loan nhiều, nhất là đứa con Đại Hàn của Loan. Sau nầy khi liên lạc với nhau bằng điện thoại, Loan mới cho biết anh Nghĩa đồng ý cho Loan mang theo đứa con ngoại hôn dị chủng đó. Tôi rất mừng cho Loan. Trong một lần điện thoại nói chuyên, Loan hỏi tôi có ai trong lớp lúc đó biết chuyện Loan có bầu không? Tôi nói thẳng thừng ai cũng biết hết và ai cũng thương cho Loan lúc ấy kể cả Hà. Loan yên lặng một hồi rồi nói với tôi là mình ân hận chuyện trẻ con lúc ấy. Không biết lý do gì mà mình thù Hà đến như vậy, có lẽ mình ganh ghét vì Hà học giỏi hơn mình. Đến ngày chia tay hai đứa ôm nhau khóc, mình mới biết mọi chuyện đều do lỗi ở mình gây ra, Hà hoàn toàn vô tội. Ước gì bây giờ gặp lại Hà mình sẽ xin lỗi và thú nhận hết chuyện nầy, mình nghĩ chắc Hà phải cười thôi. Tôi nói với Loan là hồi đó đi học về cùng đường, Hà cũng nói cho tôi biết là Hà muốn làm hòa với nhau, nhưng sợ Loan không đồng ý thì quê lắm, nên giữ thái độ im lặng. Mà thật ra nhiều lần tôi muốn nói với Loan về chuyện giải hòa, nhưng lần nào trông thấy bộ mặt hầm hầm của Loan tôi không nói ra được. Loan hét trong phôn, sao bạn không nói ra lúc đó? Mình cũng đang chờ chuyện giảng hòa từ lâu. Tôi cười như vậy hai bạn đều đáng thương hết. Thời đi học ai cũng vấp phải những sai lầm, bây giờ đứa nào cũng già nhìn lại thấy vừa ân hận mà cũng vừa dễ thương. Tôi hỏi Loan có biết Hà kết hôn với Quang không? Loan bảo biết, mình rất ngạc nhiên và thương Hà hết sức. Bây giờ bạn biết Hà ở đâu không? Từ khi lấy chồng không ai biết Hà đang ở đâu.
Trong lần ra mắt tập thơ của tôi năm ngói tại Wesminster. Tôi ngồi ký tặng sách nên không trông thấy mặt người đưa tập thơ cho tôi ký. Người đó nói với tôi nhờ anh để tên Vũ Thị Băng Hà. Tôi giật mình ngước lên, vội vàng đứng dậy nắm chặt tay Hà. Sao bạn biệt tăm không nghe tin tức gì về bạn, hơn 46 năm rồi phải không? Hà cúi đầu nhỏ nhẹ nói với tôi, chuyện của mình không vui, nên mình tránh hết bạn bè. Tôi hỏi Quang đâu? Hà lắc đầu. Khách ra vào đông đảo nên tôi không nói chuyện được, Hà hẹn sáng mai đến khách sạn đón tôi đi uống cà phê rồi nói chuyện nhiều hơn. Tôi nhìn Hà trở về chỗ ngồi, rồi tiếp tục ký sách cho người khác.

Đúng 9 giờ sáng hôm sau, Hà lái xe đến đón tôi tại khách sạn. Ngồi trong xe nhìn Hà, tôi nhận thấy Hà trông vẫn còn trẻ so với số tuổi. Chúng tôi bây giờ trên 60 hết rồi, tôi nhớ tôi thuộc thành phần nhỏ tuổi trong lớp mà đã 64 thì Hà hoặc bằng tôi, hoặc hơn tôi. Đến tiệm cà phê Hà nói trước là bữa nay Hà xin trả tiền cà phê để khỏi phải dành nhau. Tôi nói với Hà là thỉnh thoảng tôi nói chuyện với Loan. Tôi hỏi kháy Hà có còn nhớ Loan không? Hà cười, đó là nhân vật mình nhớ suốt đời, bây giờ Loan ra sao? Tôi cho Hà biết tình hình của Loan hiện thời và Loan rất hối hận về chuyện xích mích với Hà khi còn đi học. Ước gì bây giờ Loan gặp lại Hà. Tôi thấy Hà xoay tròn ly cà phê trên bàn nói với tôi, lúc đó một phần cũng tại mình, mình có thái độ khinh thường mọi người, không cần thân thiện với ai cả, vì ỷ lại mình học giỏi. Tội nghiệp Loan ra đời vấp ngã cũng như hoàn cảnh của mình thôi. Bây giờ đứa nào cũng tỉnh người. Vậy là hai bạn đều lãnh phần lỗi về mình một cách chân thật. Nếu có Loan ở đây chắc Loan cảm động lắm.
Ngồi suy nghĩ một hồi, Hà kể cho tôi nghe về gia đình. Ông Bà già của Hà dọn nhà đi Sài Gòn làm ăn sau khi Hà đậu tú tài. Nhà ở Quận Tư Sài Gòn. Một hôm Hà đi phố gặp Quang, lúc đó Quang đã đi lính Không Quân. Quang rủ Hà vào quán cà phê ngồi nói chuyện. Hà xem Quang như một người bạn nên uống cà phê xong Quang chở giùm Hà về nhà bằng xe Honda. Từ lúc đó Quang thỉnh thoảng ghé nhà chơi. Một hôm Quang đến không có Hà ở nhà, Quang khóc lóc với ông bà già là Quang yêu Hà. Nếu không lấy được Hà thì Quang sẽ tự tử. Về nghe ông bà già kể lại, mình hết hồn, tưởng rằng chuyện như đùa, gặp Quang mình sẽ cự tuyệt. Quang thường đến nhà trong lúc mình đi học, nên tỉ tê với ông bà già mãi về chuyện muốn cưới Hà. Ông bà già xuôi lòng, chỉ có mình là không biết chuyện nầy. Một hôm ăn cơm tối xong, ông già đưa chuyện của Quang ra nói với mình, mình cự tuyệt thì ông già làm dữ. Ông bảo rằng mấy thằng sĩ quan mà mầy quen toàn là tác chiến, ông nhất định không gả. Quang dù lính trơn nhưng an toàn sống với vợ con. Từ đó mình khóc hết nước mắt cũng không lay chuyển được ông bà già. Mình phải đành lấy Quang là vì vậy. Sống với Quang mình mang nhiều mặc cảm quá, trong đầu lúc nào cũng khinh bỉ Quang. Đến khi mình sinh đứa con đầu lòng xong thì tức nước vỡ bờ, hai đứa càng đố kị nhau không thể hàn gắn được đành chia tay. Thú thật Quang không muốn nhưng mình nhứt định dứt khoát với nhau. Mình tiếp tục đi học đến khi ra trường và tự mình nuôi con. Từ chuyện lấy Quang, mình học được một bài học lớn trong đời. Vợ chồng khi đã khinh nhau thì không bao giờ sống chung với nhau được. Mình hối tiếc đã không quyết liệt từ lúc đầu để bây giờ phải phải bẽ bàng, nhưng tất cả đều do số mạng phải không? Tôi thành thật hỏi Hà :”Có lẽ Quang học dốt quá nên Hà mang ấn tượng nầy trong đầu?”. Hà cũng trả lời với tôi thẳng thắn: “Hà không quan tâm điều đó. Nhưng khi sống với nhau Quang hé lộ bản chất keo kiệt, ích kỷ và kiến thức thấp hèn của mình. Bao giờ cũng lớn lối với vợ con. Hà không chịu được nên phải đổ vỡ thôi”.
Mình nghe nói sau một năm ly dị, Quang lấy vợ khác và hiện giờ còn ở Việt Nam. Còn mình sau khi mất Sài Gòn vài năm thì mình gặp anh Hoàng học tập về, bị vợ bỏ. Hai đứa hiểu hoàn cảnh của nhau và tự nguyện đến với nhau. Mình và anh Hoàng có thêm hai đứa con nữa, như vậy một đứa con riêng của mình, cộng với hai đứa con chung với anh Hoàng và thêm hai đứa con của anh Hoàng với người vợ trước đều được qua Mỹ. Vài năm sau mình bảo lãnh Bố Mẹ mình qua, cũng nhờ vậy vợ chồng mình mới rãnh tay đi cày, các cháu do ông bà chăm sóc. Đời sống bây giờ của mình đã ổn định, các cháu đều ra trường. Tôi nói lời chúc mừng với Hà, bắt đầu bây giờ bạn không còn lo nghĩ, không còn vất vả. Như vậy bạn xem như đã thành công trong cuộc sống. Tôi với Hà kể cho nhau nghe mấy người bạn mà chúng tôi đã quen biết nhau khi ngồi trên ghế nhà trường, khi nói chuyện chúng tôi mới kiểm chứng lại số người bị vấp ngã trong cuộc sống nhiều hơn số người có một cưộc sống trôi chảy. Tất cả không ít thì nhiều đều do chiến tranh gây nên. Tôi cho Hà số phôn của Loan trước khi chúng tôi chia tay nhau. Hà cho biết đứa con trai lớn của Hà với Quang hỏi ý kiến là muốn bảo lãnh cho Quang qua định cư? Hà trả lời là tùy thuộc sự định đoạt của con, mẹ không ý kiến chuyện nầy. Trước khi bảo lãnh phải cân nhắc kỹ càng vì trách nhiệm rất nặng nề. Bây giờ thì con của Hà không đề cập đền chuyện nầy, mỗi tháng gửi cho Quang một ít tiền. Qua đây tuổi già cũng chẳng làm được gì lại phiền con cái.
Lần vừa rồi về Việt Nam, gặp lại các bạn cũ tôi đều kể lại chuyện có gặp Hà và Loan. Các bạn rất vui khi biết được bây giờ hai bạn ấy đã có cuộc sống ổn định. Chuyện cũ trên ghế nhà trường thuở xưa ai cũng đều hối tiếc, thế nhưng vẫn còn đọng lại một chút dễ thương, trẻ người non dạ, cứ nuôi trong lòng chút tự ái hão huyền không ai chịu dừng lại. Trong bạn bè của chúng tôi, bây giờ ai cũng có con cháu đầy đàn nên nhìn lại chuyện cũ ai cũng tự trách mình. Tại sao khi Hà và Loan xích mích mình không đứng ra ngăn cản mà cứ để sự việc lún sâu? Không phải Hà và Loan thẹn khi đề cập lại chuyện đó, mà chính tất cả bạn bè đều thẹn vì ích kỷ, vì tị hiềm nên nhìn sự việc dửng dưng, không ai lên tiếng ngăn cản để mở ra một lối thoát cho hai người. Gần năm mươi năm sau, hai người tìm lại nhau qua điện thoại. Dù sao họ cũng nói lên được sự ân hận của họ cứ ấp ủ trong lòng , bây giờ mới thoát được.

Người Khách
Trên Quê Mình

Tôi từ Sài Gòn về hôm nay thì ngày mai đám giỗ má tôi. Thằng em út tôi đề nghị sáng hôm sau dậy sớm để vào thăm mộ má trước, tới chiều mới làm mâm cơm đám giỗ má sau. Tôi quên không hỏi nó bây giờ má chôn ở đâu? Vì trước đây tất cả mồ mả được qui hoạch chôn vô một chổ, chứ không có nhiều nghĩa địa như ngày xưa. Tối hôm đó tôi đi chơi với mấy thằng bạn tới khuya mới về rồi đi ngủ, còn mọi chuyện thằng em tôi lo tất cả.

Sáng dậy sớm uống một ly cà phê, rồi nó chở tôi trên chiếc xe honda của nó. Tôi chỉ hỏi đường đi có xa không? Nó bảo là đi chừng một tiếng đồng hồ. Rồi hai anh em cứ thế mà đi. Hơn hai mươi năm không về Đà Nẵng, tôi không còn nhớ đường xá nhất là trong thời kỳ tốc độ xây dựng chóng mặt, nên mọi nơi chốn đều lạ lẫm với tôi. Tôi nhớ thằng em chở tôi qua cầu Trịnh Minh Thế, rồi nhắm hướng chùa Non Nước. Qua khỏi chùa Non Nước thì tôi không còn biết nơi chốn nó đi tới, vì hai bên đường nhà cửa san sát, nó không còn là đồng quê. Ngày xưa nơi đây là đồng không mông quạnh là vùng oanh kích tự do. Đơn vị của tôi thường đi hành quân trên vùng nầy, nhưng bây giờ nó đã trở thành một thị trấn khá tấp nập. Đúng là vật đổi sao dời.

Thằng em tôi ngừng xe lại một quán Mì Quảng bên đường, nó nói là anh em mình vào ăn một tô mì rồi đi tiếp. Nó sực nhớ là tôi ở Mỹ về nên nó hỏi: “Mà anh có ăn được không? Đây là quán bình dân, ăn cốt cho no chứ không ngon”. Tôi gật đầu, ngầm bảo với nó là ăn được. Tôi nhớ ngày xưa còn nhỏ, nhà nghèo đâu dễ gì ăn được một tô mì dù là mì bình dân như bây giờ. Một tô mì phải độn thêm vào hai chén cơm, một muỗng nước mắm mặn. Nó không còn hương vị của mì, thế nhưng khi ăn xong vẫn còn thèm thuồng. Bà chủ quán mang ra hai tô mì, rồi bà nhìn chăm chăm vào mặt tôi như soi mói một cái gì. Có lẽ bà thấy tôi trắng trẻo mập mạp, nên bà nghi tôi không phải dân ở đây. Tôi cúi đầu hì hụp ăn như không cần biết mọi vật chung quanh mình. Tô mì rất thân quen với con mắt của tôi mặc dù mấy mươi năm mới thấy lại. Cũng vài con tôm bạc, vài lát thịt mỡ, vài cọng hành, một ít đậu phụng rang và nửa cái bánh tráng nướng. Chế biến đơn giản nhưng mùi vị y chang như thời xa xưa mà tôi đã từng nếm qua nhiều lần. Mấy chục năm trên đầu lưỡi của tôi đã tiếp nhận biết bao thứ đậm đặc gia vị, tôi nghĩ rằng cách nấu nướng đơn giản của vùng quê mình sẽ không được ngon miệng. Thế nhưng tô mì nầy đã làm cho tôi giật mình cảm thấy đã tìm về được nét “đậm đà bản sắc dân tộc” (mà người trong nước hay dùng từ nầy để chỉ những phong tục, tập quán, lễ nghi v.v…mang tính riêng của quê hương). Tôi ăn ngon lành như vừa mới khám phá ra món lạ. Thằng em ngồi bên cạnh thấy tôi ăn nó gật gù thích thú.

Khi ăn xong ngồi uống nước, tôi hỏi bà chủ quán về địa danh vùng nầy. Bà cho biết đây là xã Hòa Lân, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Bà hỏi tôi đã từng đi qua vùng nầy lần nào chưa? Tôi trả lời với bà trong thời chiến tranh tôi có đi lại vùng nầy vài ba lần. Tôi hỏi bà xã Hòa Lân có một cái chùa cách đây bao xa? Bà chỉ tay vào phía trong cách chừng sáu bảy trăm mét. Có lẽ bà tự hỏi tại sao ở đây tôi biết có một cái chùa? Phải là người thân quen với vùng nầy. Chính vì thế bà đọc được trên nét mặt của tôi có chút gì thân thiết, nên bà trả lời rất cặn kẽ và đượm một tí cảm tình. Tôi nhớ lại năm 1972, trong một cuộc
hành quân tại vùng nầy, trung đội của tôi khám phá được một căn hầm y tế gần cái chùa của xã Hòa Lân. Dưới hầm có một nam bác sĩ và một nữ y tá. Thường thường khi phát hiện được một căn hầm thì chúng tôi cột mấy thỏi chất nổ TNT thả xuống theo đường thông hơi rồi giật sập, để tránh trường hợp mở đường máu tẩu thoát. Thế nhưng hôm đó tôi lại không cho lính làm vậy. Sau khi bố trí lính nằm chung quanh hầm chỉ chừa một khoảng để tác xạ, rồi kêu gọi những người dưới hầm lên đầu hàng, nếu không lên chúng tôi buộc lòng phải phá sập hầm. Chúng tôi thấy từ dưới hầm chui lên hai người, một nam và một nữ, họ cho biết là dưới hầm không còn ai. Hai người đến gần tôi và yêu cầu tôi cho họ gặp người chỉ huy cuộc hành quân. Tôi nói với họ là người chỉ huy trên máy bay trực thăng, chỉ có tôi trực tiếp tại đây, anh cần gì? Anh chỉ xin một điều là đừng bắn anh. Tôi cười vỗ vai anh, không có ai làm gì anh hết, yên tâm. Anh nhìn tôi với một sự nghi ngờ không biết tôi có thực quyền che chở cho anh không? Anh cho tôi biết anh là bác sĩ và người con gái là y tá, hai người mới đến vùng nầy. Người bác sĩ trạc bằng tuổi tôi lúc đó, người Miền Bắc, khuôn mặt rất tuấn tú. Chỉ có nước da trắng xanh có lẽ vì ban ngày phải nằm dưới hầm. Tôi mời anh hút thuốc để trấn an sự sợ hãi. Có lẽ người ta tuyên truyền rằng chúng tôi là những con người khát máu, lòng dạ lang sói, không một chút tình người. Chỉ biết chém giết. Một điều may mắn cho hai người là hôm đó chúng tôi không phá sập căn hầm, cho nên hai người mới được sống sót.

Ngồi chờ máy bay ở sân chùa, anh thấy anh em chúng tôi nói cười vui vẻ không có một chút gì ghê gớm, trên khuôn mặt hồn nhiên. Dần dần sự sợ hãi cũng mất đi, anh thành thật trả lời những gì tôi hỏi. Thật tình thì tôi chỉ hỏi những vấn đề sinh sống ở Miền Bắc vì hiếu kỳ muốn biết, chứ không có tính cách khai thác. Tôi biết lúc ấy anh có cái nhìn khác về chúng tôi. Thì té ra chúng tôi cũng là những con người như anh vậy. Chiến tranh thật kinh khủng, không những chém giết nhau mà còn dối trá, lừa lọc. Nhét vào đầu những cái xấu xa, những hận thù. Để khi anh em gặp nhau ngỡ ngàng nghi kỵ. Không biết anh Bác Sĩ đó có còn sống sau cuộc chiến tranh khốc liệt, tương tàn nầy không? Mong rằng anh đọc được những dòng chữ nầy.

Chúng tôi trả tiền rồi lên xe đi tiếp. Thằng em bây giờ mới nói cho tôi biết là Má chôn ở Cẩm Hải. Tôi giật mình. Sao lại có sự trùng hợp lạ kỳ nầy vậy. Địa danh nầy tôi không thể nào quên được. Ngày 01 tháng 6 năm 1972, tôi mất một bàn chân tại Cẩm Hải trong cuộc chiến. Bây giờ má tôi lại được chôn nơi nầy. Ôi, những oan nghiệt cứ đeo mãi theo tôi thế nầy. Tôi muốn quên đi tất cả, thế mà cứ dây mơ rể má cột chặt tôi vào một nơi chốn đã làn tan nát đời tôi. Tôi bước xuống xe nhìn chung quanh, tôi không còn nhận ra một dấu vết nào của cái vùng mà ngày xưa tôi đã dẩm nát. Căn cứ Đại Hàn để lại cho Trung Đoàn 51 cũng không còn dấu vết, chỉ có mồ mã bạt ngàn. Nơi đây ngày xưa buổi sáng chúng tôi dẫn lính ra tập thể dục, rồi tắm biển. Những buổi chiều tôi hay đi một mình trên bãi hoặc ngồi nhìn sóng vỗ. Tôi thích tiếng sóng vì âm vang của nó nghe vừa êm tai mà cũng vừa như áp đảo. Tôi không hiểu tại sao người ta lại dùng một bãi biển đẹp như vậy làm nghĩa địa. Thật uổng phí mất một thắng cảnh.

Chúng tôi vào thăm mộ má, tôi rất hài lòng với ngôi mộ được xây dựng đơn giản nhưng rất uy nghi. Nó nói với tôi là ở đây cũng không được chắc chắn, có thể sau nầy người ta trưng dụng đất đai, lại dời mã đi nơi khác. Vì vậy không dám xây một cách hoành tráng được. Tôi bảo là không cần thiết phải làm như vậy, như thế nầy là đủ quá rồi. Trong nghĩa trang nầy dễ nhận ra được một điều là mồ mã nào xây dựng to lớn đẹp đẽ là có bàn tay của Việt Kiều. Đúng vậy, tôi đi xem mấy tấm bia người đứng tên xây dựng đang ở Mỹ, Pháp, Canada, Úc v.v…Thôi thì cũng nở mặt nở mày cho người sống cũng như người chết còn ở lại Việt Nam. Tôi nghĩ rằng họ cố gắng xây dựng mồ yên mã đẹp cho thân nhân vì sau đời họ con cái cháu chắt không còn trở về để lo cho ông bà như họ được.

Nhìn nghĩa địa chúng ta liên tưởng đến đời sống của cõi dương nầy. Âm, dương cũng không cách biệt nhau lắm, có kẻ giàu người nghèo. Có nhiều ngôi mộ nguy nga lộng lẫy, được xây dựng chắc chắc, chạm trổ công phu. Nhưng cạnh đó cũng có những nấm mộ vun đắp sơ sài, không hương không khói. Nằm ở giữa huyệt lạnh mà cũng không thoát được cảnh nghèo khó. Tội nghiệp cho những linh hồn bị cái cảnh dương thế chi phối nặng nề. Ai nói nằm xuống đất là hết đâu? Không cần phải nhìn đâu xa, nhìn nghĩa trang Cẩm Hải nầy cho ta liên tưởng đến một xã hội bên ngoài. Kẻ thì quá giàu còn người thì quá nghèo. Sự chênh lệch quá đổi làm cho ta phải lặng người, thương cho số phận hẩm hiu của những kiếp người bất hạnh đeo đuổi họ từ dương thế đến cõi âm.

Tôi lấy ba cây hương đến trước mộ má tôi khấn rằng: “Thưa Má, hôm nay con lại về trúng vào ngày giỗ Má nên con vội vàng vào thăm Má. Nơi Má nằm chính là nơi con gửi lại một bàn chân trong cuộc chiến, thương con Má cứ ôm nó vào lòng như ngày xưa Má ôm con vậy. Nếu nhớ con Má có thể vuốt ve nó vì chính nó là thân xác của con. Má không còn sợ cô đơn vì nó là da thịt xương máu của con đang cận kề bên má. Má phù hộ cho gia đình con có đầy đủ sức khỏe, ăn nên làm ra để có đủ điều kiện về thăm Má thường xuyên”. Tôi không biết Má tôi có nghe lời tôi khấn nguyện không? Nhưng tôi cảm thấy trong lời khấn nguyện thành thật của tôi, có chút chua xót, cay đắng.

Một người đàn ông đi tới và tự giới thiệu với tôi, ông là người chăm sóc những ngôi mộ nầy, ông gìn giữ cẩn thận nên mới được hoàn hảo như ngày hôm nay. Chứ không thì tụi chăn trâu đập phá. Ông xin tôi một số tiền thù lao mà ông đã chăm sóc bấy lâu nay. Thằng em tôi chưng hửng vì nó thường vào thắp nhang cho Má mà có thấy ai đâu, bây giờ lại gặp tình trạng khó xử như thế nầy. Nó hỏi ông đó là phải trả cho ông bao nhiêu? Ông nói một tràng không ngượng ngập, sượng sùng gì cả: “Ông cho tôi tiền nhiều thì tôi giữ cẩn thận, còn cho tôi tiền ít thì cái mộ nầy sẽ bị hư hại. Tùy theo mức độ tiền nhiều hay ít rồi tôi sẽ tự liệu”. Thằng em tôi thấy vậy, rút đưa cho ông năm chục ngàn. Ông chần chừ chê ít không chịu lấy. Nó phải rút thêm ba chục ngàn nữa, ông mới chịu đi. Sau khi ông đi thì cái đám chăn trâu không biết ở đâu bu lại cả chục thằng, lần đầu thì xin đồ cúng để ăn, sau thì xin tiền. Chúng nó nói thẳng vào mặt thằng em tôi, nếu không cho tiền thì lần sau vào sẽ thấy cái mã nầy tanh bành. Cái thằng cha vừa rồi đâu có làm gì, hắn ở đâu đâu thỉnh thoảng tới hù dọa mấy ông cho tiền ổng, còn tụi tôi ở đây hằng ngày thì làm lơ, đâu có được. Chúng nó đánh trúng vào tâm lý sợ sệt của anh em tôi, thằng em tôi rút cho mỗi thằng mười ngàn, rồi hối tôi lên xe chạy ngay chứ chần chờ sẽ có người khác đến làm phiền thêm.

Tôi ra khỏi nghĩa trang lòng đầy bối rối, không ngờ những chuyện nhỏ nhặt nầy để lại
cho tôi một mối suy tư về lòng dạ con người, không có một chút liêm sỉ, một chút đạo
đức nào nữa hết sao? Lâu quá rồi xa quê hương, trên xứ người tôi chưa bao giờ gặp
những tình huống làm tiền trắng trợn như vậy. Về chứng kiến những sự thật phủ phàng
trong lòng tôi ít nhiều đổ vỡ. Thằng em ngồi phía trước xe xoay ngang mặt, nói với tôi:
“Hơi sức đâu mà anh để ý mấy cái chuyện vụn vặt nầy. Ở đây có nhiều chuyện làm tiền
trắng trợn hơn nữa. Làm lớn thì ăn lớn, làm nhỏ thì ăn nhỏ. Không cần biết người khác
sống chết ra sao, miễn sao tiền bạc vô đầy túi”.

Thằng em chở tôi ghé vào Hội An đi vòng vòng cho biết, thăm lại thành phố nầy ngày xưa tụi tôi hay la cà mấy cái tiệm cà phê những ngày không đi hành quân. Các tiệm cà phê Chiều ở đường bờ sông, hoặc cà phê Phượng ở phía trước cổng Tiểu Khu là những quán mà chúng tôi hay ngồi nhất. Thành phố vẫn không thay đổi mấy, hình như người ta muốn giữ lại những cấu trúc thời xa xưa. Ở nước ngoài mình quen mắt với đường xá, nhà cửa đồ sộ. Về nhìn lại Hội An thấy cái gì cũng nhỏ, nhà cửa thấp lè tè nhưng rất dễ thương. Một thành phố từ đầu trên đến xóm dưới đều biết nhau, quen nhau. Không những quen biết thôi mà còn hiểu tường tận gốc gác của nhau nữa. Có lẽ đó là cái đặc thù nhất của Hội An mà dù có đi khắp thế giới tìm một thành phố mà những con người gắn bó, thân thiết như vậy cũng thật hiếm hoi.

Tôi nhớ hồi còn đi học thỉnh thoảng tôi hay vào Hội An chơi với mấy ông bạn “thi sĩ” của tôi: Hạ Đình Thao, Lê Văn Trung, Lê Anh Huy, Kiều Uyên v.v… Đi xuống gần Cẩm Thanh để ăn mì Bà Đợi hay qua cầu Cẩm Phô để ăn chè. Tối về thì vào chùa Phước Kiến ngủ với Thái Tú Hòa (em ruột nhà thơ Thái Tú Hạp). Thấy tôi đến bao giờ Hòa cũng gọi Cẩm (cô em gái của Hòa) mang cái tô ra bà Cảnh mua một tô cao lầu cho tôi và không quên thêm một chén cơm nguội. Tuyệt vời, không có cái gì ngon bằng. Cho đến bây giờ hơn bốn mươi năm tôi vẫn còn nhớ như mới ngày nào. Tội nghiệp tụi tôi đứa nào cũng nghèo xơ xác, mình có thể nhịn ăn nhưng khi gặp bạn bè thì đãi bạn một cách hào phóng. Hào phóng ở đây có nghĩa là ăn một tô mì hay uống một ly cà phê chẳng hạn. Chứ làm gì có tiền đãi nhau thịnh soạn được, nhà đứa nào cũng nghèo. Mấy ông nầy ra Đà Nẵng tôi đãi một món đặc sản là đậu phụng chiên với nước mắm. Nước mắm khi khô bám vào hạt đậu, vừa dòn vừa mặn, để ăn với cơm. Ngày nào cũng vậy, chẳng có ai khiếu nại về chuyện ăn uống, để dành tiền đi uống cà phê Diệp Hải Dung.
***
Buổi trưa anh em tôi về lại Đà Nẵng để lo đám giỗ. Tôi có mời vài người bạn đến ăn đám giỗ má tôi. Lâu quá, dễ chừng gần hai mươi năm không gặp lại nhau. Bạn bè người nào cũng quá nhiều thay đổi, từ con người đến cuộc sống, tụi tôi bắt đầu bước vào tuổi già. Thế mà khi ngồi lại nói chuyện với nhau như hồi còn trẻ. Tôi kể cho tụi nó nghe về những gì mà tôi đã gặp sáng nay, tôi thấy trên khuôn mặt chúng nó không có một chút ngạc nhiên. Như vậy, chuyện như thế nầy cũng thường xẩy ra và ai sống tại quê nhà cũng thường gặp. Đời sống khó khăn, con người sinh ra nhiều biến thái.

Sau khi dùng cơm xong, chúng tôi rủ nhau đi uống cà phê. Tôi không nhận ra một chút gì cái thành phố mà tôi đã sinh ra, lớn lên và trưởng thành ở đó. Bây giờ nó mang một bộ mặt khác sang trọng và lịch lãm hơn. Những con đường rộng rãi và dân cư đông đúc. Một vài người hỏi tôi nghĩ gì về những thay đổi vội vàng của Đà Nẵng. Tôi trầm tư biết trả lời sao đây? Hơn 30 năm rồi, quê hương nhiều mất mác quá. Tôi thấy hình như mọi người cố gắng chạy đua cho kịp, thể hiện cho người ta biết mình có tiền có của, mạnh ai nấy xây nhà. Những hình thù nhà cửa thật nham nhở lố lăng, thể hiện một cái thứ trưởng giả học làm sang. Tôi không biết người ngoại quốc đánh giá cách xây dựng nầy ra sao. Chứ còn tôi không chịu được, vừa cỗ của thời Louis nhưng cũng vừa hiện đại của thế kỷ nầy. Nó giống như râu ông nọ cắm cằm bà kia. Không biết vài chục năm sau, thế hệ con cháu chúng ta đánh giá lối kiến trúc nầy thế nào. Chứ riêng cá nhân tôi nhận thấy vừa hợm hĩnh nhưng cũng vừa tội nghiệp. (Có thể nhận định của tôi sai lầm, vì con mắt của tôi quá trần tục, không có đầu óc mỹ thuật. Cái nhìn có thể sai lạc).

Tụi tôi không còn cái tuổi ngồi hằng giờ ở mấy quán cà phê thuở trước như: Lộng Ngọc, Hạ, Ngọc Lan, Diệp Hải Dung, Thạch Thảo, Star, Danube v.v…để say sưa nghe nhạc. Một thằng bạn dẫn tụi tôi đến một quán cà phê thật yên tĩnh để dễ dàng nói chuyện. Một thằng bạn khác hỏi tôi: “Cái gì ở Đà Nẵng đã gây cho mầy “ấn tượng” nhiều nhất, khi xa nhà?”. Tôi trả lời không chút đắng đo: “Xóm Chuối”. Chúng nó cười ồ lên tưởng rằng tôi nói đùa. Ai sống ở Đà Nẵng cũng đều biết Xóm Chuối là nơi tập trung mấy cô gái làng chơi, nằm phía sau bệnh viện Toàn Khoa. Nhưng tôi cũng có một kỷ niệm sâu đậm ở đó. Tôi có một cô bồ học ở trường Bồ Đề, nhà ở trong con hẽm đường Trần Bình Trọng, con hẽm nầy ăn thông qua đường Trần Tế Xương (đường nầy có nhà in Trúc Mai). Thường thường thì cô bạn tôi theo đường Trần Tế Xương đi ra đường Yersin cho gần. Tụi tôi thường hẹn nhau ở góc Yersin (bên hông bệnh viện) và cũng gần đường vô Xóm Chuối. (Hẹn xa xa vì sợ gia đình cô ta biết) vì vậy gặp bao nhiêu chuyện phiền phức. Mấy người đàng hoàng đi ngang qua thấy tôi đứng chỗ đó thì nghĩ là tôi tìm gái làng chơi. Còn mấy cô gái làng chơi nghĩ rằng tôi đang đi tìm họ, cho nên họ chạy ra níu kéo tôi. Một lần hẹn ở đó tôi tởm tới già và cũng nhớ suốt đời cái địa danh nầy. Khi cô bạn của tôi ra ngồi trên yên sau xe, tôi mới bắt đầu càm ràm. Tôi cho rằng cô ta chơi tôi, hạ nhục tôi. Chứ không biết cái chỗ “hang hùm” ở đó sao mà lại hẹn nhau chỗ ấy? Cô ta ngồi phía sau ôm bụng cười ngất nga ngất ngẻo, còn tôi thì tức lộn ruột. Sau nầy cô ta mới nói cho tôi biết là cô ta không biết nơi đó là ổ gái mãi dâm. Tội nghiệp cho cô bạn học trò ngây thơ của tôi.

Chúng tôi kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện trên đời. Phần đông các bạn trai thuộc thành phần lính tráng của Miền Nam, còn các bạn gái có chồng cũng đi lính. Nên đời sống các bạn sau nầy về kinh tế rất eo hẹp. Chúng tôi rơi vào thế hệ đứng giữa cuộc chiến khốc liệt nhất, cấp bậc không cao, phần đông bỏ thây tại chiến trường. Nếu còn sống sót cũng không đủ tiêu chuẩn đi qua Mỹ theo diện HO. Vì vậy sau khi học tập trở về đều sống lây lất, làm những công việc nặng nhọc sống qua ngày. Nhìn anh em đó tuổi đời không nhiều nhưng tinh thần lẫn thể xác già cổi trước tuổi. Lâu ngày không gặp nhau, anh em nói mãi không hết chuyện. Khi tiệm cà phê báo cho biết đến giờ đóng cửa, chúng tôi mới chia tay ra về.

Những ngày còn lại, thỉnh thoảng tôi đến thăm một vài người bạn. Buổi chiều tôi rủ vài người về nhà uống rượu. Chỉ có những bữa rượu anh em mới thổ lộ hết tâm tình của mình. Có một điều lạ là trước đây tôi ít uống rượu, tửu lượng của tôi một chai bia hay một ly nhỏ rượu đủ làm cho tôi say. Thế mà tôi không ngờ rằng về quê lần nầy tôi đã hạ mấy thằng bạn nát rượu. Đã làm cho nhiều người ngạc nhiên mà tôi cũng không ngờ rằng mình uống không thua gì chúng nó. Có lẽ vì vui quá, anh em lâu ngày không ngồi với nhau, về lại quê hương trong nhiều năm xa cách v.v…nhiều yếu tố làm cho tôi cảm thấy thoái mái. Vì vậy mà tôi uống được nhiều.

Cái nhìn của tôi về quê nhà có thể rất khiếm diện và vội vàng. Có thể làm cho nhiều người không đồng ý. Nhưng tôi biết làm sao hơn khi mà một thực thể nó đã như vậy, tôi nói lên với tất cả tấm lòng dành cho quê hương mình. Có một điều mà cho đến bây giờ vẫn không nghĩ ra được mọi người nhìn tôi với con mắt xa lạ, cách biệt trong lúc thâm tâm của tôi muốn hòa đồng, muốn thân thiện. Có một cái gì đó muốn đẩy tôi ra xa ngoài vòng tay của quê hương tôi. Sau khi trở lại Mỹ, sau nhiều đêm suy nghĩ tôi mới tìm ra được một giải trình cho mình. Có lẽ phần đông mang một mặc cảm thua thiệt vì nghèo khó, nhìn mấy ông bà Việt Kiều tiêu tiền hào phóng họ cảm thấy cách xa với họ. Cho nên họ nhìn những người trở về như một loại “cá mè một lứa”. Họ đâu biết rằng có người trước khi về họ đã dành dụm bao nhiêu năm, cũng cày sâu cuốc bẩm, cũng lao tâm lao lực mới có được tiền. Vì biết bà con bên quê nhà làm ăn khó khăn nên họ phải “gánh” cho đỡ bớt gánh nặng khi phải tiếp họ. Những thành phần thuộc tư bản trong nước bây giờ, cách vung tiền của họ mới khiếp. Các “đại gia” nầy ra tay thì các “hảo hán” có máu mặt của Việt Kiều đành phải lép vế.

Dù gì chăng nữa tôi vẫn thấy những ánh mắt nhìn tôi không còn thân thiện, coi tôi không phải là người dân đã sinh ra và lớn lên trên quê hương. Cái nhìn và cách đối đãi của họ với tôi như một người khách. Cách hành xử nầy làm cho tôi thấm đau như có ai đó nhổ toẹt vào mặt mình. Chúng tôi không có tội gì hết, khi xa quê hương chúng tôi đau lắm vì nơi đây chôn nhau cắt rún, cha mẹ anh em đang hiện diện ở đây và rất nhiều, rất nhiều cái lý do khác không dễ gì dứt bỏ ra được. Thế nhưng trong hoàn cảnh bắt buộc phải rời xa đất nước. Đó là điều đau lòng cho tất cả những người đang xa xứ. Trong những ngày trở về, tôi ít đi đâu vì tôi mang một mặc cảm xa lạ, nên suốt ngày quanh quẩn trong nhà. Để tìm lại những thân thiện, những tình cảm mà tôi tưởng chừng như bị đánh mất ngay cả những người ruột thịt với mình. Tôi không muốn làm một người khách lạ./

Giọt Mực Loang

Trong lớp tôi thuở ấy có hai người con gái vừa học giỏi mà cũng vừa đẹp. Những thằng học cùng lớp không có đứa nào dám hó hé lại gần, đừng nói chi cái chuyện “cua”họ. Hà người Bắc tính tình hiền lành dễ thương. Loan người Huế tính tình chanh chua, khó ưa nhưng rất giỏi Việt văn. Trong lớp học hai người con gái nầy như hai thái cực, có những hiềm khích. Nói cho ngay chúng tôi chỉ thấy thái độ của Loan tỏ vẻ ganh tị hiện lên hành động và trên nét mặt. Còn Hà tỏ vẻ nhu mì nhưng sẵn sàng đáp trả nếu Loan xâm phạm đến. Chính hai người nầy làm cho bọn con gái trong lớp chia làm hai phe. Phe nói tiếng Huế theo Loan, phe nói tiếng Bắc theo Hà. Mấy bà Quảng Nam đứng trung gian. Mỗi lần đến giờ ra chơi, hai phe tụ nhau hai góc, nói xấu nhau, trì chiết nhau. Tụi con trai chúng tôi chọc đầu nầy, thọc đầu kia cho hai bên càng hiềm khích nhau hơn, lấy làm thích thú. Cho nên mấy thằng hay đi ngang qua nghe lóm, ít thì nói cho nhiều, vẽ rắn thêm chân, câu chuyện trở thành trầm trọng khi chúng nó học lại cho phe bên kia biết. Cứ vậy hai bên càng ngày càng trầm trọng. Lúc đầu còn nguýt háy nhau trong bóng tối, về sau công khai công kích nhau. Bài luận của Loan được thầy đọc cho cả lớp nghe là mấy bà Bắc Kỳ ghi lại những chỗ không đồng ý. Thế là tranh cãi nhau, mạ lỵ nhau một cách ranh mãnh. Lúc đầu Thầy dạy Việt Văn thích thú vì có sự tranh cãi rất sống động, làm cho giờ học sôi nổi. Sau thầy nhận thấy sự tranh cãi có phần gay gắt, mạ lỵ Thầy ra dấu “stop” không được tiếp tục làm sứt mẻ không khí học tập. Từ đó Thầy không đọc bài của Loan nữa.
Hà ở cùng một đường với tôi nên thỉnh thoảng đến nhà rủ tôi đi học. Hà hay hỏi tôi có biết phe Huế nói gì không? Có nghe động tịnh gì phe bên kia không? Tôi hỏi lại Hà: “Sao bạn quan tâm những thứ ấy làm gì? Để thời giờ lo học.” Hà vừa đi vừa suy nghĩ một lúc mới trả lời với tôi: “Nhiều khi Hà nghĩ thật vô lý,. Tại sao phải mất thì giờ nhiều như vậy? Thế nhưng phe Huế bên kia ép Hà quá, chịu không nỗi.” Tôi nhìn Hà thấy tội nghiệp. Tôi nói với Hà đừng để ý, đừng nghe ngóng tự nhiên sẽ cảm thấy thanh thản. Nói cho Hà yên lòng chứ sự thật cũng khó, làm sao mà không nghe mấy cái giọng Huế chanh chua nhức đầu, xoáy vào tai như mũi khoan, mấy bà Bắc Kỳ không chịu được nên hai bên không bên nào chịu thua. Cái hồi gay cấn nhất là lúc Hà có bồ là một ông thiếu úy người Bắc, thỉnh thoảng đứng đón Hà ở cổng trường. Ông thiếu úy nầy cũng bảnh trai, xứng đôi với Hà. Đây là cơ hội mấy bà Huế trề môi chế giễu, trù ẻo cho ông nầy ra trận chết phứt đi cho rảnh mắt. Lời trù ẻo của mấy bà Huế nầy linh thiên thật, không thấy ông Thiếu Úy tới đón Hà như trước, nghe tin ông ấy tử trận. Tôi có hỏi khi Hà chờ tôi để cùng đi học, Hà không trả lời nhưng tự nhiên bật khóc. Trên đoạn đường tới trường, tôi hối hận đã khơi lại sự đau đớn của Hà. Từ đó không bao giờ tôi đụng chạm đến chuyện nầy. Chừng vài tháng sau tự nhiên Hà nói với tôi là người yêu của Hà chết thật, lời thú nhận nầy gây cho tôi xúc động, tôi cảm thấy thương hại cho Hà. Tuổi mới lớn bắt đầu có người tình thì nửa chừng gãy đỗ. Chuyện nầy tôi không hề hé môi cho ai trong lớp biết.
Sắp đến hè, đứa nào cũng bận rộn học thi. Tình trạng ganh nghét giữa hai phe con gái Bắc và Huế cũng có phần lắng dịu. Sau kỳ thi tú tài năm đó mỗi người mỗi ngã. Năm cuối cùng lớp có tổ chức một cuộc tất niên, chị trưởng lớp nhờ tôi đứng ra làm trung gian cho Loan và Hà bắt tay nhau trong buổi tiệc tất niên đó. Tôi đại diện cho lớp cám ơn quý thầy đã dạy dỗ chúng tôi và lời bày tỏ cùng các bạn: “Thưa các bạn, như vậy sau bữa tiệc nầy chúng ta chia tay nhau vĩnh viễn, mỗi người mỗi ngã trên đường đời, thành công hay thất bại đó là số phận của mỗi người. Tuy nhiên chúng ta cũng nên nói với nhau lời cầu chúc tốt lành nhất, hoa mỹ nhất. Tôi mong rằng các bạn hãy bỏ lại sau lưng mình những tị hiềm, những ganh ghét, vì cơ hội gặp lại nhau rất hiếm. Tôi xin đề nghị chị Loan và chị Hà bước lên trên bục bắt tay nhau lần cuối. Tôi nghĩ hành động đẹp nầy của hai chị sẽ để lại dấu ấn vĩnh viễn trong lòng của những bạn cùng lớp trước khi chia tay..” Hà và Loan e thẹn bước lên bục giảng bắt tay nhau, tự nhiên hai người bỏ tay ra ôm nhau khóc , làm cho các chị trong lớp đều khóc sướt mướt. Các thầy rất ngạc nhiên không hiểu chuyện gì đã xẩy ra cho hai người. Đó là niên học đáng nhớ nhất trong đời học sinh chúng tôi. Sau khi thi tú tài bạn bè ít có dịp gặp lại.
Chúng tôi những thằng bạn học cũ phần đông vào lính, mà lính thì biết khi nào mới gặp lại nhau. Nói vậy chứ thỉnh thoảng về phép đi uống cà phê cũng gặp được vài thằng bạn cũ, từ đó hỏi thăm biết được thằng nầy thằng khác, có đứa chết trận, có đứa bị thương. Đứa nào cũng có vẻ hiên ngang với bộ đồ lính trên người. Còn bạn gái ít khi gặp lại nhưng cũng biết tin, phần đông các chị có chồng là l;ính nên cũng đa đoan với cuộc chiến mặc dù không trực tiếp ngoài chiến trường. Một lần tôi về phép thăm thằng bạn cũ làm thông dịch viên sở Mỹ tại Đà Nẵng. Thằng bạn hỏi tôi mầy còn nhớ con Loan không? Loan hiện làm ở đây. Tôi trả lời nhớ chứ, mầy gọi Loan qua đây chơi được không? Hắn chạy đi gọi Loan. Tôi ngồi trong phòng xem báo thì Loan vào. Tôi ngước lên nhìn, thú thật tôi không ngờ rằng Loan bệ rạc như vậy. Tôi đứng dậy bắt tay Loan, bàn tay của Loan không mềm mại, có vẻ cứng cáp. Tôi hỏi Loan có chồng con gì chưa? Loan lắc đầu, trong nét mặt có chút gì cay đắng. Loan nói với tôi nhờ bạn giới thiệu cho mình một ông lính, không cần quan tước gì cả. Tôi ngạc nhiên nghĩ trong bụng sĩ quan bà còn chê huống chi là lính. Tôi hỏi lại: “Loan có gì không vui phải không? Sao đắng cay quá vậy.” Loan lắc đầu không nói. Ngồi nói chuyện với tôi một hồi, Loan chào để trở về phòng làm việc. Thằng bạn nói với tôi về Loan: “Gia đình Loan có một căn nhà cho Đại Hàn thuê, không biết sao Loan có thai với thằng Đại Hàn thuê nhà. Ông bà già phải gởi Loan ra Huế sinh đẻ. Khi đứa con được ba tuổi mới đem về nuôi. Gia đình bảo rằng đứa nhỏ là con của bà chị bà con ở Huế, chồng chết Loan xin về làm con nuôi.” Tự nhiên tôi thấy thương hại cho Loan, hèn chi khi nói chuyện với tôi Loan có vẻ không vui.
Một lần tôi về phép, đi uống cà phê với mấy thằng bạn cũ. Một thằng nào trong bọn nói với chúng tôi là con Hà Bắc Kỳ lấy thằng Quang. Tất cả mọi người đều trố mắt nhìn vì một sự nghịch lý mà không ai có thể ngờ. Hà học rất giỏi thi đậu dễ dàng tú tài I và tú tài II, còn ông nội Quang của chúng tôi thi mãi không đậu. Hồi đó hắn nổi tiếng học dốt nhất trong lớp, thi tú tài I năm lần bảy lược vẫn không qua, sau phải đi lính chuyên viên Không Quân. Không biết làm sao hắn cua được con Hà nghĩ cũng lạ thật. Ngoài chuyện học giỏi, Hà cũng là một trong những con gái đẹp trong lớp. Ít ra cũng lấy được một người tương xứng. Mấy đứa ngồi uống cà phê bữa đó cứ tiếc thầm mãi. Chuyện số mạng cay nghiệt như vậy dù không tin cũng phải công nhận đã xẩy ra với Hà. Tôi nghĩ hay là Hà đã từng có người yêu là sĩ quan tác chiến, bị tử thương ngoài chiến trường nên sợ sẽ trở thành quả phụ, để yên thân Hà phải lấy một tấm chồng ngày đêm hú hí với vợ tới già, không sợ nửa đường gãy gánh. Thú thật chúng tôi chỉ đoán già đoán non chứ hoàn toàn không biết gì về cuộc sống của hai người. Tình yêu khó nói thật. Gia đình Hà đã dọn đi nơi khác từ lâu nên không còn gặp Hà như trước đây. Khi chia tay năm cuối cùng, đi về cùng đường Hà cho tôi biết nếu đậu kỳ nầy Hà sẽ đi Sài Gòn thi vào trường Phú Thọ để học kỹ sư điện. Tôi nghĩ ước mơ của Hà sẽ thành công dễ dàng vì Hà là học sinh giỏi. Tôi không biết khi lấy Quang, Hà đã đậu kỹ sư chưa?
Đó là cuộc đời của hai người bạn gái vừa đẹp mà cũng học giỏi, vậy mà có chút gì cản trở không suông sẻ trên đường đời. Còn bọn con trai chúng tôi, khi ra trường chừng hơn một năm sau bị chi phối bởi lệnh Tổng Động Viên. Một mẻ lưới oan nghiệt không ai thoát ra được, thỉnh thoảng được tin có thằng tử trận. Đứa nào về thành phố thì đến nhà thắp cho bạn mình một cây nhang hay tiễn bạn ra nghĩa trang. Khi ra về tìm một quán nhậu, hay quơ đại một chai rượu đế về nhà ngồi uống một mình. Cố xua đuổi nỗi buồn, cố quên những bất hạnh mà những đứa bạn lần lược nằm xuống. Tâm trạng của chúng tôi lúc nào cũng lo sợ, không biết đến bao giờ sẽ tới phiên mình. Giọt mực nhỏ xuống trang giấy không đọng lại một chỗ mà nó loang rộng làm mờ cuộc đời của chúng tôi. Tôi nghĩ những người bạn gái cũ, chắc các chị cũng không thua gì chúng tôi. Ai cũng phải lấy chồng, mà chồng của các chị cũng không thể thoát ra khỏi vòng cuộc chiến, cho nên đôi khi ra phố trông thấy các chị chít khăn tang trên đầu là biết ngay các chị có tang chồng. Bạn trai hay bạn gái trong thời chinh chiến đều mang nỗi lòng lo sợ như nhau, đau khổ giống nhau.
Rồi tới 30 tháng 4 năm 1975. Tưởng rằng hòa bình mà mọi người chờ đợi sẽ tốt hơn, cuộc sống sẽ mang tới cho chúng ta niềm vui, không trông thấy cảnh chết choc. Thế nhưng mọi chuyện không như vậy. Tất cả chúng tôi đều vào tù, những người vợ chắt chiu đi nuôi chồng mà đời sống của họ vô cùng thảm thiết. Những tiểu thư ngày xưa nuôi những ước mơ cao sang, chỉ vài năm sau trông thấy họ te tua tội nghiệp. Mấy thắng bạn học tập trở về, trông thấy họ bệ rạc như những ông cụ non, thân hình ốm o thiếu ăn. Toàn cảnh Miền Nam lúc ấy sống trong cơ cực. Không ai giúp được ai. Tôi về Đà Nẵng nhắn mấy thằng bạn cũ tới nhà uống với nhau ly rượu thì bị Công An đến gây khó dễ. Một người bạn từ Sài Gòn về thăm bạn bè, vào kể lại cho tôi nghe là anh ấy tập trung một số bạn cũ ngồi uống rượu. Anh đi ra nhà sau đi tiểu thì trông thấy mấy ông Công An rình rập bên ngoài nghe lén. Anh sợ quá nhảy rào chạy thoát thân. Ngày mai anh nghe người nhà báo cho biết là tất cả những người ngồi nhậu đều bị bắt. Từ đó ở Sài Gòn tôi ít về thăm quê nhà. Nhìn thấy gia đình nào cũng xác xơ, lòng người rịu rã, những cán bộ thì hống hách chèn ép dân chúng. Ai sống tại Đà Nẵng thời ấy cảm thấy ê chề ngao ngán, nhưng không dám hé răng.
Đến thập niên 90, có sự ban giao với Hoa Kỳ đất nước mở cửa người dân được nới lỏng. Rồi chương trình HO cho những người tù cải tạo ra đi, đời sống dân chúng còn ở lại được thoải mái đôi chút. Đất nước xem như được khởi sắc cho đến bây giờ. Tôi ra đi năm 1990, nghĩa là tôi có 15 năm sống trong nước dưới chế độ Cộng Sản, tôi biết và hiểu tường tận dân tình lúc ấy. Qua bên nầy rồi nhìn lại, thật khủng khiếp. Tôi không hiểu một chế độ như vậy mà tại sao cho đến bây giờ vẫn còn tồn tại? Những người có lương tri, có hiểu biết làm sao chấp nhận một cuộc sống bị nhà cầm quyền tước đoạt hết như vậy? Mới hay áp lực aka, tù đày đã làm dân chúng khiếp sợ và răm rắp vâng lời. Thôi chuyện đất nước dài quá, nói mãi không hết được. Tôi trở lại chuyện của chúng tôi. Giọt mực nhỏ xuống loang mãi trong đời của những thằng học sinh chúng tôi. Câu hát ngày xưa trong thời tiểu học mà ai ai cũng biết: “Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau…” Thế hệ chúng tôi, tổ quốc chối từ. Người ta cần những người không có kiến thức, nhưng biết trung thành, biết quỵ lụy. Vì vậy tất cả những người Miền Nam đều bị loại ra khỏi các cơ quan lớn nhỏ của chính quyền. Cũng may cái phao cứu chúng tôi đúng l;úc là được định cư ở Hoa Kỳ.

Tình Đã Ngủ Say

Khi người đụng trái tim ta
là bao nhiêu mộng vỡ òa theo nhau
khi tình ta mãi lún sâu
là lòng người nhạt sắc màu yêu thương
PXS

Từ khi chúng tôi chia tay nhau cho đến bây giờ đã gần 40 năm rồi, hơn một nửa đời người. Nhưng mỗi lần nghĩ tới Sách tôi đều cảm thấy đau nhói, không phải vì tôi còn “yêu” Sách, mọi chuyện đối với tôi nó đã chết theo thời gian. Không ai còn chung tình vớ vẩn như vậy, tất cả chúng tôi mỗi người đếu có một cuộc sống riêng, con cháu đầy đàn, hồn ai nấy giữ. Thế nhưng mỗi lần gặp lại tự nhiên tôi cảm thấy ray rứt, nhìn Sách thật tội nghiệp với một cuộc sống kham khổ, hạnh phúc bị tước đoạt, con người héo hon trong u uất. Tôi tự hỏi Sách chịu đựng một hoàn cảnh sống như thế nầy cho đến bao giờ? Chúng tôi đã từng đến với nhau, đã từng gặp gỡ sau những ngày dài khi chia tay. Chúng tôi vẫn giữ với nhau ở một vị thế mà không bị xé rào hay sự đòi hỏi làm chúng tôi mờ mắt. Chúng tôi quý mến nhân cách của nhau mặc dù không cần thiết như vậy. Thế nhưng cái đó đã thể hiện ý thức tôn trọng, một rào cản chắc chắn chúng tôi không nên vượt qua để vi phạm. Cuộc đời của đứa nào cũng te tua bầm giập, còn gì đâu để còn phải giữ gìn.

Tôi nhớ năm 1976, sau khi tôi lấy vợ được vài tháng thì Sách từ Đà Nẵng vào Sài Gòn thăm tôi. Lúc nầy người chồng đầu tiên của Sách vừa mới mất (tại mặt trận Pleiku 1975) trước ngày hòa bình chừng hai tháng. Tôi ngạc nhiên là Sách cùng đi với Ngọc Bích, người bạn gái của tôi sau nầy. Ngọc Bích có một người anh trai là bạn cùng khóa Không Quân với chồng của Sách. Vì thế Ngọc Bích và Sách quen nhau bởi dây mơ rễ má như vậy, chứ một người ở Đà Nẵng và một người ở Sài Gòn làm sao quen nhau. Tôi mời hai người ra ngoài quán café để dễ dàng nói chuyện, vì trong sở làm việc của tôi ồn ào, người ra kẻ vào nhiều gây trở ngại trò chuyện của chúng tôi. Đây là lần đầu tiên tôi gặp lại Sách kể từ ngày Sách đến thăm tôi tại Tổng Y Viện Duy Tân Đà Nẵng mùa hè 1972, khi tôi bi thương từ mặt trận được trực thăng chở về.

Trong suốt câu chuyện tôi không hỏi gì về cái chết chồng của Sách, vì tôi không muốn cho Sách hiểu lầm rằng tôi quan tâm vì để thỏa mãn lòng tự ái. Tôi chỉ ngồi nghe hết chuyện nầy tới chuyện khác mà trong những câu chuyện, Sách tin tưởng rằng người chồng vẫn còn sống, có thể bị bắt học tập cải tạo đâu đó, hoặc đang sống tại nước ngoài chưa tiện liên lạc được với vợ con. Tôi cũng mừng thầm mong rằng sự tin tưởng của Sách là sự thật, một ngày nào đó gia đình Sách được đoàn tụ dù ở bên nầy hay bên kia đất nước. Ngồi nói chuyện, tôi chú ý từng hành động, từng cử chỉ của Sách. Sách không còn như xưa. Cái liến thoắng lanh lẹ, cái trì chiết đanh đá mà sau khi có chồng, va chạm với cuộc sống thật ngoài đời, đã dạy cho Sách những kinh nghiệm chống chọi. Tôi không ngạc nhiên điều đó, cái ngạc nhiên nhất của tôi là được Sách dài dòng kể lể về cái hạnh phúc trước đây đã sống với chồng con, cái hạnh phúc ngắn ngủi nhưng rất tuyệt vời nầy đã làm vết thương cũ của tôi dậy lên và cảm thấy nhức nhối. Cũng bắt đầu từ đó tôi khinh Sách, nhìn Sách với con mắt không mấy thiện cảm. Đúng ra khi gặp lại tôi, một người tình đầu đời của Sách, Sách phải tỏ ra có một chút hối tiếc, một chút đau đớn, vì khi chia tay nhau, tôi không có một lầm lỗi nào với Sách, thì không lẽ gì Sách kể những chuyện hạnh phúc để trả thù tôi. Cái ấn tượng gặp gỡ lúc ban đầu, đã làm cho tôi có thái độ phủi tay lánh mặt. Không cần phải nhớ đến trước đây mình có một con “bồ” đang sống trong kham khổ hiện thời, Có ai đó bên quê nhà nhắc tới Sách, tôi tìm cách tảng lờ như không biết. Bởi vì tôi không thể chấp nhận một người tình trước đây đi lấy chồng, và khi gặp lại nhau không có một câu hỏi han nào về cuộc sống của tôi, chỉ ba hoa kể về cái hạnh phúc đã trôi qua của mình. Đó là một loại người vong tình, không có đầu óc và tôi không cần phải nhớ tới làm gì cho uổng công.

Có một năm vợ chồng tôi về Đà Nẵng ăn Tết, khi tôi đến thăm cậu mợ bà con bên ngoại thì mợ Tâm khuyên tôi cố gắng đến thăm Sách. Mồng ba Tết để vợ ở nhà, tôi một mình đến thăm Sách theo sự yêu cầu của bà mợ. Trong câu chuyện trao đổi tôi có nói với Sách là nếu có tái giá hãy tìm một người đàn ông rộng lượng, vững vàng trong cuộc sống có thể cưu mang thêm hai đứa con, để chúng nó có cơ hội học hành. Tôi bảo với Sách là bây giờ phải hy sinh cuộc đời mình cho con, hãy gạt ra ngoài tai những lời tán tỉnh bóng bẩy, phải tìm một người đàn ông biết thương yêu con của vợ như con ruột của mình. Còn nếu không thì nên sống độc thân buôn bán nuôi con. Thế nhưng vài năm sau tôi nghe Sách tái giá, lấy một người chồng nghèo. Mang hai đứa con về quê ở Túy Loan giao cho bên nôi. Tự nhiên trong lòng tôi thấy xót xa, một việc làm điên rồ, mờ mắt thiếu suy xét. Cái ấn tượng không tốt về con người nông nổi của Sách lại càng làm cho tôi thất vọng. Tội nghiệp cho hai đứa bé đã mất cha, bây giờ coi như thêm một lần mất mẹ. Từ câu chuyện nầy tôi suy luận viễn vông, một con người như vậy thì làm sao đòi hỏi họ chung tình với ai. Mang đầu óc không thiện cảm, tôi nhìn Sách cay nghiệt hơn và thú thật trong lòng tôi càng khinh Sách hơn.

Tôi nhớ một lần ở Huế, Sách từ Đà Nẵng ra thăm tôi. Chúng tôi ở với nhau trong một căn phòng nhỏ hơn một tuần lễ. Tôi có hỏi Sách lý do tại sao ra thăm tôi mà không báo trước, Sách làm thinh không nói dù tôi đã gặn hỏi nhiều lần. Sau đó thì Thê (vợ của Đức, bạn tôi) là bà con với Sách ra Huế tìm, tôi mới biết Sách giận gia đình nên bỏ nhà ra đi. Giận về chuyện gì thì tôi cũng chưa hề nghe Sách nói. Tôi bảo là Sách nên ra về với Thê, vì tôi không muốn mang tiếng dụ dỗ con gái gây ra sự hiểu lầm cho gia đình Sách, mặc dù chúng tôi chưa hề vi phạm, giữ sự trong trắng, tôi tôn trọng đời con gái của Sách. Nhưng có ai biết điều đó, khi mà đôi tình nhân sống chung với nhau ngày nầy qua ngày khác, mà không xẩy ra điều đáng tiếc? Cái khắt khe giáo dục của gia đình, cái ý thức trách nhiệm nặng nề về tinh thần, đã thắng sự đòi hỏi nhục dục của tôi. Tôi trở thành một người thánh thiện.

Sách về Đà Nẵng chừng vài tháng thì tôi nghe tin Sách sắp lấy chồng. Thú thật nghe tin nầy tôi rất bàng hoàng, tôi muốn gặp Sách để hỏi cho ra lẽ. Và khi đó tôi tiếc là không phá đời con gái của Sách cho thỏa mãn lòng tự ái của tôi. Lạy trời, cũng may mà tôi không làm điều đó, chứ nếu đã xẩy ra thì chắc tôi ân hận suốt đời. Cho đến bây giờ Sách vẫn còn kính trong tôi về chuyện nầy, hơn ai hết Sách biết tôi không muốn phá hoại đời con gái của Sách. Khi về Đà Nẵng tôi gặp Sách vài lần, tôi không thèm hỏi về chuyện lấy chồng của Sách. Tôi xem như đó là một chuyện không đáng cho tôi quan tâm, và từ đó tôi tránh gặp mặt dù tôi đã nhiều lần về lại Đà Nẵng thăm nhà. Tối một mình đi uống café thiếu Sách bên cạnh, tôi cũng cảm thấy buồn và cô đơn, nhưng tôi không thể làm gì hơn khi người ta muốn quên đi dĩ vãng, muốn quên sự hiện diện của tôi. Trong lúc nầy ở Huế tôi cũng có một người bạn gái cao ráo và đẹp hơn Sách, học trường Bồ Đề Thành Nội. Lúc đó tôi nghĩ có một ngày nào đó tôi phải đứng trước một sự chọn lựa giữa Sách và Nguyện, thế nhưng không ngờ rằng chính tôi là người bị gạt ra trước cuộc sống tình cảm của Sách. Tôi rất bực bội nhưng nghĩ cho cùng, cũng giúp cho tôi một lối thoát mà không mang tiếng phụ tình với Sách. Sau nầy, tôi cũng quyết định chia tay với Nguyện.

Ngày tôi bị thương nằm điều trị ở Tổng Y Viện Duy Tân thì Sách có đến thăm. Lúc đó Sách vừa mới sinh đứa con đầu lòng. Tôi thấy Sách khóc mà ngược lại tôi rất dửng dưng. Tôi cho rằng giọt nước mắt của Sách là vui mừng đã tránh được một tai họa. Nhiều đêm nằm nghĩ về Sách, tôi tự hỏi tại sao tôi nặng nợ với Sách nhiều vậy. Về phương diện thẩm mỹ thì nhan sắc của Sách không so bằng những cô bạn gái của tôi trước hoặc sau Sách, về phương diện tình cảm thì Sách là người hời hợt, không thâm trầm và phụ tình một cách trắng trợn, thế nhưng để lại trong đời tôi nhiều vết chém nhất mà vết sẹo nào cũng sâu và đau. Mỗi khi nghĩ lại thấy nó nhức nhối khó chịu nhất. Có lẽ Sách và tôi đến với nhau lâu dài, có nhiều kỷ niệm khó quên. Chính vì lẽ nầy nên gây ra chấn động ầm ỹ trong lòng tôi mỗi khi nghĩ tới. Tôi chuẩn bị đi Sài Gòn, thì Đức đến nhà cho tôi biết là chồng của Sách bị tử thương trên mặt trận Pleiku, và Sách chuẩn bị mang hai đứa con nhỏ về Đà Nẵng. Nghe tin nầy, thú thật lòng tôi không có chút xúc động vì từ bao nhiêu năm nay tôi gạt Sách ra hẳn mọi suy nghĩ của tôi. Tôi cho đây là chuyện thị phi không cần phải quan tâm tới. Thế nhưng khi ngồi trên máy bay tự nhiên hình ảnh Sách hiện lên trong đầu: Một người đàn bà góa bụa còn rất trẻ với hai đứa con thơ, nhào ra cuộc đời đầy sóng gió, đầy nhiễu nhương như vậy, thì làm sao chen lấn trong cuộc sống nầy cho nổi.

Tôi quên đi sự phản bôi của Sách, quên đi sự lọc lừa và trí trá thuở nào. Tự nhiên những thứ nầy xóa mất trong tiềm thức của tôi. Đọng lại trong lòng tôi là sự thương hại, tôi thầm cầu nguyện cho Sách vượt qua tất cả để sống trong bình yên, ổn định tâm hồn để nuôi con khôn lớn. Tôi không còn trách móc ai cả, tôi cho đây là một sự nhầm lẫn của tuổi trẻ mà không ai biết trước được. Tôi và Sách cũng chỉ là nạn nhân của chiến tranh, tôi bị thương trong cuộc chiến và vẫn còn hiện diện trên đời, mặc dù mất một phần thân thể. Còn chồng của Sách xem như xóa sổ vĩnh viễn trong cuộc sống. Hơn ai hết tôi hoàn toàn thông cảm cho cái đau rưng rức trong người của Sách phải gánh chịu. Cho đến bây giờ, khi tôi ngồi viết lại dòng hồi ký nầy, tôi xem Sách vẫn là người tình thuở nào, một người bạn thân thiết và là một người em gái đáng thương nhất của tôi.

Vài năm sau đó, tôi có dịp về Đà Nẵng thăm nhà. Tôi nhờ Đức, một người bạn cùng xóm thân thiết nhau từ nhỏ, chở tôi bằng xe honda lên Nam Ô thăm gia đình Sách. Chúng tôi đến bất thần vào bữa cơm trưa, bữa cơm thật đạm bạc. Cơm ghế khoai, một tô canh rau và vài con cá mặn. Vợ chồng con cái ngồi quanh mâm cơm hì hụp thật tôi nghiệp. Tôi nhìn Châu, người chồng của Sách sau nầy, thua tôi chừng vài tuổi, một thanh niên dễ coi và hiền hậu. Tôi yên tâm là Sách có thêm một gia đình cũng tạm ổn, mặc dù sự hối tiếc và trách móc của tôi về Sách vẫn còn mang trong đầu, chưa xóa được. Vài ngày sau, tôi có mời vợ chồng Sách ra nhà hàng dùng cơm, tôi thấy họ xứng đôi và tôi nghĩ chắc họ được hạnh phúc. Nhưng khi dùng cơm ngồi đối diện với Châu, tôi nhận ra một điều là Châu mang một mặc cảm vì nghèo, vì thua thiệt. Chính vì cái nghèo, cái thua thiệt đó mà phải lấy một người đàn bà có con, vợ mình là gái “nạ dòng”. Những điều nầy thì làm sao Sách biết được, Sách là một loại người chỉ biết hình thức, suy nghĩ hời hợt, không biết sâu thẩm trong lòng của chồng mình. Trong đầu óc của Châu khi sống với vợ có tôn trọng vợ không? Mà vợ chồng sống với nhau lâu dài, chỉ giây phút nào đó nhá lên ý nghĩ thua thiệt của mình, tại sao mình là thằng con trai lớn lên lại lấy một người đàn bà có con. Ngồi nói chuyện nhưng tôi nghĩ miên man, tôi nghiệp cho hai người sống trong một hoàn cảnh u uất, không ai chịu bày tỏ sự thật của lòng mình. Tôi là đàn ông nên tôi hiểu tâm trạng của Châu, cái u uẩn trong lòng mà không ai biết được. Đến một lúc nào đó không còn chịu đựng được, sợi dây tình lận đận kia sẽ bung ra. Khi còn ở Sài Gòn, tôi có gặp Thanh (em gái của Sách), có kể cho tôi nghe về chuyện gia đình Thanh không thích người chồng trước của Sách, chính Sách chọn lựa chứ không có gia đình xía vào chuyện nầy. Hình như trong ngày cưới có một chuyện gì đó xẩy ra đáng tiếc cho Sách, (tôi chỉ nghe Thanh kể mà không chú ý lắm, một phần cũng lâu ngày quá rồi nên chi loáng thoáng nhớ lại). Và người chồng sau nầy cũng không được gia đình đồng ý, nhưng không có cách nào ngăn cản lại được. Hơn nữa con gái mình cũng lỡ thời, nên không còn con đường nào khác chọn lựa. Thanh có nói thêm (hình như là để an ủi tôi chăng?) gia đình em thích anh hơn.

Tôi qua California thăm người chị bà con mới từ Úc qua. Chị cho tôi biết là vừa rồi có về Việt Nam thăm nhà, chị mới nghe tin Sách đã ly dị với người chồng sau, chị hỏi tôi có biết tin nầy chưa? Tôi lắc đầu. Không biết tại sao tôi không ngạc nhiên về chuyện nầy. Từ lâu tôi nghĩ rằng Sách sẽ không được hạnh phúc với người chồng sau nầy. Tôi có cảm giác như vậy, còn lý do vì sao tôi mang ý nghĩ nầy thì quả thật khó giải thích. Tôi nghĩ trong đầu Sách sẽ khổ hơn, sẽ gặp rắc rối hơn khi tiếp tục sống với nhau. Thà như vậy, đường ai nấy đi để giải thoát những bế tắc cho nhau mà không nói ra được. Sách đúng là người đàn bà cao số. Sau khi nghe tin tức không may của Sách về chuyện gia đình, tự nhiên tôi thấy thương Sách hơn. Suốt một cuộc đời lao đao với chuyện chồng con, chỉ có nước mắt âm thầm trong đêm, khóc cho người chồng nầy rồi khóc cho người chồng khác. Gần cuối cuộc đời sống trong lẻ loi cô quạnh. Đời một người đàn bà chỉ có một lần có quyền được chọn lựa, sơ sẩy xem như đi đong không thể trở lại. Sách nằm trong trường hợp nầy. Nói thế không phải vì Sách không chọn tôi nên mới gặp những trường hợp đáng tiếc xẩy ra. Biết đâu khi chọn tôi trường hợp xẩy ra còn thê thảm hơn thì sao? Cuộc đời dài lắm và cũng ngắn ngủi lắm, làm sao biết được chuyện gì sẽ xẩy ra.

Tôi đi Mỹ (1990) không có cơ hội gặp được Sách. Hình như tôi có gửi cho Sách một vài lần tiền nhờ người quen mang về. Nhưng sau đó thì bặt tin, tôi không liên lạc được do mất địa chỉ vì tôi dọn nhà đi nhiều lần. Gần hai mươi năm sau tôi mới có dịp gặp lại Sách khi tôi trở về Việt Nam thăm nhà vào dịp tết 2008. Không biết ai báo tin cho Sách tôi mới về. Một buổi tối sau khi dùng cơm với gia đình xong, tôi ngồi ở phòng khách xem tivi, thì đứa em vào báo có một chị bạn tìm tôi. Tôi nhìn ra ngoài hiên, ánh đèn mờ quá tôi không nhận ra Sách, mà thú thật Sách đổi khác nhiều quá. Bao nhiêu tai ương ụp xuống đời một người đàn bà, cộng với sự nghèo khổ, chăm lo cho gia đình và các con, đã làm cho Sách héo hon, tiều tụy. Sách khép nép nhìn tôi, trong một giây phút bất thần tôi không nhận ra được. Sau đó thì Sách cười tôi mới nhận ra. Nụ cười của Sách rạng rỡ tôi không bao giờ quên được. Vì mới gặp nhau chúng tôi chỉ trao đổi những thăm hỏi, khi đụng tới chuyện gia đình thì Sách bảo là buồn lắm để khi khác sẽ kể cho tôi nghe. Quả thật Sách không biết ở Mỹ, tôi đã biết về chuyện ly dị của Sách trước đây mấy năm.

Trong thời gian vào dịp Tết, tôi cũng bận rộn nhiều chuyện. Lâu ngày mới về nên phải đi thăm bà con chỗ nầy chỗ kia, đi thăm bạn bè. Thì giờ đi thăm thì không tốn mấy, nhưng sau khi gặp nhau thì uống với nhau vài ly rượu, sa đà vào chuyện nầy không còn thì giờ đâu để làm chuyện khác. Tôi có gặp Sách vài lần ngắn ngủi, những lần gặp nhau tôi chú ý tới một điều là Sách đã thay đổi tính tình rất nhiều. Đăm chiêu và nói chuyện cay đắng hơn. Có lẽ những đau đớn về chuyện đổ vỡ gia đình, đã cho Sách những bài học muộn màng về tình người, sâu sắc trong cuộc sống, thận trong trong giao tiếp. Đúng ra bài học nầy Sách phải biết trước đây vài chục năm, thì chắc rằng đã cứu vớt cuộc đời của Sách sau nầy. Không bị lún sâu trong những quyết định bồng bột, non nớt, để phải trượt chân trên đường đời một cách thê thảm như vậy. Mà cũng chính sự đau khổ nầy cho Sách nếm qua cái mùi “bội bạc” của người khác dán lên đầu mình, nặng hơn ngàn cân mà mình phải gánh chịu. Cái gì của Sách đối đãi với tôi ngày trước, bây giờ Sách nhận lấy cái hậu quả đau đớn gấp trăm lần mà tôi đã chịu. Những lọc lừa, dối trá, mà trước đây Sách đã dùng để đối xử với tôi, bây giờ người ta cũng dùng “chiêu” nầy để đối xử với Sách mà tàn nhẩn hơn, khốc liệt hơn. Ngày đó tôi yêu Sách thật, nhưng song song với Sách tôi cũng có người yêu khác. Mất Sách tôi cũng buồn nhưng tôi có Nguyện. Tuổi trẻ chuyện bồ bịch đến hay đi cũng bình thường, buồn một thời gian rồi quên ngay.

Một buổi tối tôi mời vợ chồng Đức và Sách đi ăn cơm và sau đó đi uống cà phê. Tôi ngồi nghe Sách kể về lý do ly dị với người chồng sau. Một lý do đơn giản là Châu đi chơi đâu đó, gặp một người đàn bà khác. Sau một thời gian ngắn thì Châu tuyên bố chia tay với Sách, về sống với người đàn bà kia. Sách nói với tôi là rất ngạc nhiên về chuyện nầy vì vội vàng và nhanh chóng quá. Thế nhưng khi nghe xong chuyện, tôi không ngạc nhiên. Chuyện Châu quyết định bỏ Sách cho đến thời điểm đó thì đã quá muộn, đúng ra chuyện nầy đã xẩy ra sớm hơn. Sách không nhìn rõ để thấy chuyện nầy. Lấy Sách nhưng lòng của Châu bao giờ cũng nhìn đi nơi khác, trông chờ có cơ hội sẽ buông tay với Sách ngay. Từ lâu nhìn Châu tôi đã thấy được chuyện nầy. Nhưng thôi đây chỉ là dự đoán của tôi, tôi mong rằng không đúng. Tuy nhiên Sách phải hiểu rõ một điều thực tế. Một người con trai khi lớn lên lấy vợ, ai cũng mong rằng người vợ của mình còn trong trắng. Nếu người vợ không dành cho chồng cánh hoa tươi rói đó thì người chồng có cảm giác mình bị cắm sừng. Huống gì đây người vợ đã có vài mặt con thì trong lòng họ cảm thấy bị thiệt thòi biết mấy. Châu ở vùng quê mùa, đầu óc không thoáng lắm, còn quan niệm lỗi thời và còn bị ràng buộc bởi gia đình cổ hủ. Tôi nghĩ khi Sách về làm dâu nhà nầy đã nghe tiếng chì tiếng bấc về chuyện nầy. Sở dĩ hai người có con với nhau nên nhẹ bớt đi cái chuyện xỉa xói của gia đình.

Đúng ra Châu nên có tấm lòng bao dung, hiểu được hoàn cảnh đau thương của vợ, mình lấy họ tức là mình đã cứu vớt cuộc đời của họ, phải sống với nhau bằng tình thương yêu. Nếu thấy rằng lòng mình không rộng lượng như vậy, thì từ đầu mình nên rút lui, để đừng gây thêm đau khổ cho mình và cho người khác. Sách thì không chịu hiểu cái điều thâm sâu bí hiểm đó, nên đau khổ và trách móc đủ thứ.

Trước khi tôi rời Đà Nẵng, Sách đến thăm tôi lần cuối. Có lẽ là lần đầu tiên tôi mới nghe Sách nhận xét về tôi. Sách nói trong nghẹn ngào: “Cuối cùng rồi em mới thấy được, không có ai yêu thương em bằng anh”. Tôi nhìn Sách và thầm nghĩ rằng: “Anh cũng không được như vậy, chỉ có chính em mới thương em”. Đến một cái tuổi nhìn cuộc đời trải qua những bon chen, danh lợi. Những tranh giành, hơn thua. Rồi đến một lúc nào đó ta thấy tất cả chỉ là trò hề. Chỉ còn đọng lại chút tình còn sống lại trong lòng. Hãy sống với nhau bằng thủy chung, chân thật. Tôi biết Sách cay đắng với đoạn đường đã trải qua, những nghiệt ngã giáng xuống đời một cách cay nghiệt, cũng bởi vì khi còn trẻ không trân trọng sự chân thật, chạy đua để nắm bắt được danh lợi, nên phải trả một giá rất đắt bằng chính cuộc đời của mình. Không ai có đủ quyền năng can thiệp được những chuyện nầy, nên khi nhận thức được thì đã muộn màng. Trước khi lên taxi ra về, Sách chạy đến ôm tôi, tôi cúi xuống hôn lên trán Sách rồi Sách lầm lũi lên xe. Đức và Thê đứng nhìn cảnh nầy cũng ngậm ngùi, rưng nước mắt. Tôi biết Sách khi lên xe sẽ khóc, nhưng biết làm sao hơn khi chính mình định đoạt cuộc sống của mình, thì mình phải lãnh hậu quả của sự quyết định đó.

Thăm Bạn

mười mấy năm xa lơ xa lắc
bạn phương đông, ta mãi trời tây
sáng chiều ngóng cổ về bản xứ
chỉ thấy quê mờ trong khói mây

tưởng chừng đời tối tăm mù mịt
mắt lem nhem khó đi tìm đường
tưởng chừng như đồi cao lũng thấp
gậy trúc mò theo bước chân vương

ta bước thấp bước cao tìm tới
bạn ung dung đời, nơi cao thâm
gặp nhau mừng quýnh quên chân quỵ
rượu cạn tình giữa chốn Phương Lâm

bạn sống như một tay hiền sĩ
gò lưng nằm hát giữa rừng già
thú tiêu dao đời như canh bạc
bạn tha hương, chính trên quê nhà

tuổi trẻ tàn theo đời khói lửa
chinh chiến nào không đốt ngày mai
bạn về giủ sạch tàn y cũ
như tiền nhân tìm mãi cổ lai

lục lại thăng trầm trong ký ức
đời nay còn thiếu những tay chơi
thì thôi về dựng căn nhà lá
để mai kia gượng sống với đời

thăm bạn một lần rồi đi mãi
ly rượu tràn môi một tiếng khà
bạn đãi ta, trải tình ra chiếu
lòng bạn, lòng ta, thấy xót xa

bữa nay, ta đã say cùng bạn
húp vội vàng chén cháo đưa cay
tiển đưa nhau chi bằng tri kỷ
hẹn một ngày sau trở lại chốn nầy.

Trên Đồi Hoa

ta khóc Kiều một đoạn đời
truân chuyên đổ xuống, nghẹn lời trách than
ta khóc em chuyện bẻ bàng
chôn vùi giữa chốn hồng nhan mịt mờ
ta còn đây một vần thơ
tặng nhau chỉ để bên bờ nhớ nhau

chuyện xưa như nước qua cầu
thì thôi xin giữ lấy câu ân tình
làm chim muông dậy bình minh
hót cho nhau khúc tận tình nhớ thương
em về tô lại phấn hương
xóa tan đi khúc đoạn trường năm xưa

lòng ta trãi rộng cho vừa
ôm em vào mộng, đong đưa vỗ về
thơ ta đọng chút tái tê
ru em ngủ giữa bến mê đời nầy
em nằm yên gác đôi tay
trên đồi hoa mộng cỏ cây lặng lờ

Cơn Hồng Thủy Của Người

như người vừa tỉnh dậy
nhìn cuộc sống hỗn mang
bao nhiêu niềm khao khát
chẻ xuống đòi lẩm than

người đi vào tuyệt lộ
thịt da cháy niền tin
mặt sạm đầy tủi nhục
mắt đục ờ điêu linh

trên vai oằn nỗi khổ
đè xuống từng oan khiên
lưng cong vòng khiếp nhược
xin một chút bình yên

đời như cơn bão dữ
tình như đám mạy bay
siết vào thân củi mục
giữa căn phần đoa đày

đứng trên triền khát vọng
cơn hồng thủy trào dâng
trời nghìn sao biến mất
đất mờ mịt lặng câm

thắp lên từng ngọn lửa
ngời sáng chốn nhân gian
giữa sơn cùng thủy tận
soi mặt tận tim gan

Nước Mắt Em

khi dòng nước mắt em
rơi xuống từng giọt nhỏ
ta lặng người đứng ngó
sao lòng thấy quặn đau

như chân bước qua cầu
quẩn quanh nhìn nước chảy
chim non còn bay nhảy
trên khóm trúc vui đùa

nước mắt em chợt vừa
lăn trên đồi hoa mộng
gió đong đưa lồng lộng
ngây ngất trái tim ta

em ngủ trong tay ngà
hay em vừa thức dậy
nước mắt em còn chảy
chờ khăn ta lau khô

đứng trong cõi hư vô
em hiện thân thánh thể
qua một thời dâu bể
em chính người, ta yêu

trong đôi mắt đăm chiêu
bóng em vờn trong gió
tay ta lùa trên cỏ
tìm một chút bình yên

mang trong người nỗi niềm
chợt vui như ngày hội
thì em ơi đừng hỏi
đi về đâu bây giờ

hãy sống như còn thơ
che đi dòng nước mắt
thoa phấn hương lên mặt
che đi chút buồn riêng

em, cô gái ngoan hiền
mà lòng đang mở rộng
để ta vào trú ẩn
hạnh phúc tỏa quanh đây.

Phan Xuân Sinh

Phan Nhự Thức

Phan Nhu Thuc

Bài Tình Buồn

Người qua nhà tôi, mỗi ngày bốn bận
Nón nghiêng che nên chẳng thấy tôi buồn
Ngày bốn bận nhớ thương, tôi đúng hẹn
Đứng đợi chờ nón trắng với tay thon

Mười ngón tay thon của người con gái
Mười đắn đo suy tính chuyện ân tình
Tôi nhìn thấy tay người chưa nhẫn cưới
Vẫn ngại ngùng khi trao gởi thư xanh

Tờ thư ấy xanh xanh màu nước biển
Xanh như màu áo ấm của người yêu
Nằm trong sách vẫn thơm mùi ước hẹn
Ngát tình thơ vừa nhớ sáng thương chiều

Người vẫn thế áo học trò vẫn trắng
Guốc thời trang kiêu hãnh bốn mùa cao
Bàn chân thon e dè trên biển cát
Đêm chờn vờn tình ái rộn chiêm bao

Tôi cơm áo, bây giờ xa sách vở
Tuổi phiêu bồng rơi rớt một mùa xuân
Thơ tình ái thôi bướm vàng cánh vỗ
Còn tâm hồn: một gốc rạ cô đơn

Bài Tình Buồn

Người qua nhà tôi, mỗi ngày bốn bận
Nón nghiêng che nên chẳng thấy tôi buồn
Ngày bốn bận nhớ thương, tôi đúng hẹn
Đứng đợi chờ nón trắng với tay thon

Mười ngón tay thon của người con gái
Mười đắn đo suy tính chuyện ân tình
Tôi nhìn thấy tay người chưa nhẫn cưới
Vẫn ngại ngùng khi trao gởi thư xanh

Tờ thư ấy xanh xanh màu nước biển
Xanh như màu áo ấm của người yêu
Nằm trong sách vẫn thơm mùi ước hẹn
Ngát tình thơ vừa nhớ sáng thương chiều

Người vẫn thế áo học trò vẫn trắng
Guốc thời trang kiêu hãnh bốn mùa cao
Bàn chân thon e dè trên biển cát
Đêm chờn vờn tình ái rộn chiêm bao

Tôi cơm áo, bây giờ xa sách vở
Tuổi phiêu bồng rơi rớt một mùa xuân
Thơ tình ái thôi bướm vàng cánh vỗ
Còn tâm hồn: một gốc rạ cô đơn

Quảng Ngãi

nắng Quảng Ngãi tôi về không mũ đội
trời tháng năm gió núi hạ Lào bay
thành phố ấy buồn như người xế tuổi
cuộc sống quanh năm khổ luống đất cày

từng kỷ niệm bây giờ lên tiếng gọi
giọng thổi buồn đêm sông Vệ không trăng
cát Trà Khúc theo sầu bồi lấy tuổi
tôi cúi đầu đời sống lạnh như băng

đất mẹ đó đã đau bầm kháng chiến
giờ thân già bão lụt lại hành hung
trong đời sống bấp bênh ngày tháng lụn
tôi nhìn em đau xót nói không cùng

đêm Nghĩa Hưng trời mịt mờ lửa đạn
chiều Ba Gia xác chết chật đường làng
ôi kiếp sống bơi quanh bờ hữu hạn
tìm tương lai trong hiện tại kinh hoàng

quen thanh bạch từ khi còn tấm bé
biết gì đâu lừa đảo bán buôn lường
với tuổi đó chưa đáp đền cha mẹ
nói làm chi đến món nợ quê hương

lũ em nhỏ mỗi lần không học phí
trường đuổi về nằm khóc đợi trông anh
(tôi bỏ học lang thang cùng phố thị
thả đời trôi nên năm tháng lênh đênh)

tôi đánh mất tình yêu từ dạo đó
và lớn khôn từng nỗi xót xa này
bán chữ nghĩa như rau khoai ngoài chợ
vẫn đói nghèo bạn hữu mãi cho say

tôi khôn lớn từ ruộng đồng Quảng Ngãi
lấy đau thương làm sữa mớm thơ mình
thành phố ấy với những gì còn lại
tôi ấp vào lòng đôi mắt lệ lung linh

Tin Mừng Một Muà Xuân

Ngồi bó gối, Ta mời Ta hút thuốc
Đón giao thừa đốt cháy lụn ưu tư
Cuộc đời buồn có thói buồn quen thuộc
Búng tàn hoài, sợ để ngón tay dư.

Khi cô quạnh muốn vuốt ve nỗi nhớ
Ngón tình khô buồn thẹn bàn tay khô
Tàn thuốc hết, búng sầu đi không hết
Ta gõ lòng Ta lạnh đến hư vô.

Khi khổ quá muốn trở thành tàn thuốc
Nhờ tay ai thả xuống cõi vô cùng
Khi hờn tủi muốn được làm ngọn lửa
Đốt bài thơ cho cháy núi cháy rừng.

Khi thất chí muốn làm tên du thủ
Xách tình sầu xuống núi hát nghêu ngao
Cả thành quách bềnh bồng say tuý luý
Say cho tàn cho mạt kiếp phù du.

Khi kết cuộc muốn chạy tìm tráng sĩ
Ai mài gươm nghe nghiêng ngửa bệ rồng
Bởi thiên hạ thèm moi gan bạo chúa
Nên thơ Ta máu cuồn cuộn từng giòng

Khi bút cạn, gươm cùn, chim sa lưới
Dẫu văn chương cũng chỉ để ba hoa
Ta vẫn phải làm thơ cho phỉ chí
Dựng tửu lầu nghinh đón khách Kinh Kha.

Khi chiếc củ mì cần hơn lý tưởng
Thì hào hùng cũng chỉ tựa bóng ma
Ta vẫn phải làm thơ nuôi cuộc sống
Cuộc sống khô dần trong mỗi chúng ta.

Khi giao thừa đã khởi đầu năm mới
Loài hoa kia vừa nở nụ mùa xuân
Ngồi bó gối thêm tủi thân thêm tội
Bởi vì Ta thơ thân tặng mùa xuân

Cõi Tình Xuân

nhân danh thơ phục hồi ta và bạn
người bạn tình rong ruổi cõng trên lưng
theo vạt nắng đầu ngày vừa nguyên đán
em cựa mình da thịt bỗng vang lừng

bởi khắc khổ ta một đời khép kín
em co ro gío tạt cuối hiên buồn
những nhát cuốc, ngờ đâu, tay bịn rịn
đất bật lên từng đóa lệ trào tuôn

thôi hãy xếp khối tình sầu hữu hạn
hãy cùng ta tuý luý trận phong trần
đêm động phòng rượu tràn qua xứ bạn
một đường bay tình vút khỏi tay nâng

núm ngực hồng thở từng hơi thơm phức
buổi quay về hạnh ngộ cuối trời đêm
ta tóc bạc cũng nghe lòng hừng hực
trời còn xuân ta còn lửa tình, em.

Phan Nhự Thức

Phan Các Chiêu Hằng

Phan_Cc_Chiu_Hng_1(1)

Đường Về

Nàng nghiêng người nhìn ra bầu trời xanh ngắt bên ngoài khung cửa sổ nhỏ. Tiếng động cơ vẫn nổ đều rì rầm bên tai. Phía dưới kia, những rặng núi bắt đầu hiện rõ hình dáng. Phi cơ bắt đầu xuống thấp dần, bởi nàng có thể nhìn thấy những vách đá thẳng đứng không bị tuyết bao phủ. Nhìn thấy được cả chút màu xanh ẩn hiện đâu đó của những rừng cây thông nằm sâu trong thung lũng xa mịt mờ dưới kia, nơi lớp tuyết trắng như bông đã dần tan. Tháng bảy rồi còn gì. Nơi thành phố nàng vừa bỏ lại sau lưng, cái nắng nung người dữ dội đã bắt đầu từ mấy tháng trước. Mùa xuân và mùa hè không có biên giới nào rõ rệt. Nàng chợt nghe lòng mình quặn lên, hốt hoảng. Nàng cúi nhìn xuống đôi bàn tay của mình xếp lại nằm im thẳng thớm trên nền áo màu vỏ măng cũt tím sẫm. Chàng vẫn bảo, tính em đâu có ủ ê sầu não, mà sao quần áo cứ lựa màu buồn bã tối tăm. Chiếc nhẫn vàng trơ trụi nằm trên ngón tay áp út, thân quen như đã trở thành một bộ phận sống của cơ thể. Như tay chân. Như buồng phổi. Như trái tim. Vậy tôi đang làm gì ở đây, chiếm một chổ ngồi nhỏ nhoi khiêm nhường trong lòng phi cơ này, bay về một nơi chốn lạ? Phi cơ đang vùn vụt hướng tới trước, mà lòng tôi sao cứ giật lùi? Khung cảnh chung quanh rất đỗi bình thường. Người đàn bà bên cạnh vẫn ngủ ngon lành từ lúc phi cơ cất cánh. Đầu bà lúc ngoẹo qua bên phải, lúc ngoẹo qua bên trái, lúc lắc nhịp nhàng. Cô tiếp viên hàng không thỉnh thoảng qua ngang, ngó cười thân thiện. Vậy đó, mà sao trái tim tôi lại đập rộn ràng rối nhịp như những ngày xưa, khi bồn chồn ra vào lắng nghe tiếng chân chàng lao xao trên lối sỏi. Một thuở hẹn hò. Một thời yêu đương. Dùng chữ “một thời” chắc cũng không đúng, vì nó biểu hiệu cho những gì có bắt đầu và đoạn kết. Bắt đầu, dĩ nhiên là có. Còn đoạn kết, làm sao tôi biết được! Bởi tôi vẫn nghĩ chuyện kết thúc đã xảy ra bao năm về trước. Mà nếu thế, giờ này tôi đã chẳng ngồi đây để hồn trôi theo những tầng mây lênh đênh vô định. Rốt cuộc, có phải lâu nay tôi đã tữ lừa dối chính mình?
Nàng chớp mắt, nghĩ tới chàng, và tự dưng mỉm cười vu vơ. Nàng nhớ tới ngọn đồi con ở gần ngôi nhà cũ. Ngôi nhà có mảnh vườn giáp mé với bìa rừng, có dàn wisteria dây leo uốn éo ngoài sân sau vẫn nở từng chùm hoa tím thơm ngát vào mùa xuân. Mỗi lần chàng ghé qua, hai đứa hay dẫn nhau lên ngọn đồi sau nhà, nằm dài ra trên cỏ nói chuyện bâng quơ. Nàng gối đầu trên cánh tay chàng, nghe tiếng chim hót, nghe tiếng gió đùa, và nghe hạnh phúc lao xao len lỏi vào từng hốc kẹt trong trái tim hồn nhiên. Hồn nhiên? ừ, thì nàng mới mười bảy, mườn tám chi đó. Mà những ngày rong ruổi lang thang trên đồi dưới suối với chàng phải vào mùa hè. Vì trời ấm, xanh, và cao ngất mấy từng không.
Phía bên kia ngọn đồi là dòng suối nhỏ, nước trong veo, chảy róc rách không ngừng. Mùa xuân, tuyết tan, dòng suối rộn ràng linh động hơn. Mùa hè và mùa thu, nhịp nước trôi lặng lờ êm ả. Chàng nắm tay nàng đi dọc theo bên bờ, nàng tung tăng bước nhỏ, luôn co chân đá tung những hòn đá lăn lông lốc xuống ven suối, rồi cười hớn hở, hồn nhiên. Chàng gầm gừ hăm dọa:
– Em mà không hết lăng xăng, chắc anh phải đi mua sợi dây xích về cột chân em lại.
– Nàng chu môi, cười ngạo nghễ một cách dễ giận:
– Em thách đó. Anh không nghe người ta nói “when you love something, set it free…”? Anh đòi cột em lại là làm sai sách vở hết trơn.
– Cột lại không thôi thì nói làm gì. Với em thì chắc anh còn phải… đóng chuồng. Em tuổi con gà, phải không? Gà tre hay gà ác? Em thích sửng cổ cải cọ, chắc phải là gà lôi hay gà nòi. Con gà thì bị nhốt vô chuồng là đúng quá rồi chứ còn gì nữa.
Nàng nheo nheo mắt, làm bộ suy nghĩ:
– Em nhớ hình như em bị làm khai sanh… lộn. Đúng ra là em cầm tinh con khỉ, thích leo trèo và ăn… khô bò.
– Khỉ ăn chuối chứ làm gì có chuyện khỉ ăn khô bò?
Nàng cười khúc khích:
– Đây là khỉ… thành tinh mà anh.
Mùa thu, trời trở lạnh. Nàng không mò mẫm xuống suối nữa mà chịu nằm yên ngoan ngoãn trên đồi, gối đầu lên tay chàng, dĩ nhiên, và đếm lá vàng… rơi. Khung cảnh ảm đạm làm nàng buồn đi một chút, vì thảm cỏ đã bắt đầu tàn tạ héo hon và bầu trời đùn mây thấp xám nặng màu chì. Nàng hỏi chàng:
– Anh có nhớ cái chuyện ngắn “chiếc lá cuối cùng” bằng tiếng Anh hồi ở trung học không?
Chàng cười, lắc đầu:
– Anh già quá rồi, làm sao nhớ chuyện từ thời ở trung học. Với lại hồi đó anh chỉ tới trường để được… hoãn dịch, chứ đâu phải để thu thập kiến thức. Mà truyện đó đầu đuôi như thế nào?
Nàng nhìn chàng ngờ vực, nhưng vẫn hắng giọng kể:
– Thì cái chuyện viết về một con nhỏ bị bệnh nặng, nằm chèo queo trên giường suốt ngày ngó ra ngoài cửa sổ ngắm lá rụng. Con nhỏ in trí là khi cái lá vàng cuối cùng mà rụng đi, thì nó cũng chết. Có thằng cha họa sĩ hàng xóm nghe nói vậy lấy làm tội nghiệp cho con nhỏ, nên trời lạnh căm căm mà ban đêm thằng cha cũng lén mò ra ngoài để vẽ lên tường hình mấy cái lá vàng…
– Để làm chi vậy?
Chàng ngắt ngang, làm bộ ngớ ngẩn. Nàng cau mày, suỵt suỵt:
– Đừng hỏi lộn xộn làm em mất hứng, anh sao kỳ cục quá, em đang kể ngon trớn… ờ, để coi. Thì làm như vậy để con nhỏ đó tin là cây vẫn còn lá, thì nó chưa chết. Hình như tại thằng cha họa sĩ cứ mò ra ngoài ban đêm lạnh lẽo như vậy nên cuối cùng bị cảm lạnh tới sưng phổi, hui nhị tì… End of story.
Chàng la trời:
– Hình như?… Em kể chuyện gì kỳ vậy? Đoạn kết gay cấn vậy mà em chỉ nhớ là “hình như”?
Nàng cười:
– Ai biểu anh đi học mà không chịu để ý làm chi. Bài trả lại hết cho thầy cô. Phải chi anh nhớ, thì cần gì em kể cho nghe? Mà không nghe, đã không ấm ức bực bội la làng…
Chúa nhật, nàng lon ton theo chàng đi xem lễ vào buổi sángg. Nhà thờ cách đó không xa, chừng nửa dặm đường. Hai người đi bộ ngang qua con đường có những dãy nhà hai tầng cũ kỹ, vách ván, sơn những màu nhàn nhạt tương tự nhau. Nhà nào cũng có một khoảnh sân nhỏ trải sỏi hay trồng cỏ và vài bụi cây kiểng xác xơ, èo uột. Qua hết con đường, quẹo trái, là bầu trời như chợt đậm đà ra với màu xanh của những hàng cây khuynh diệp sừng sững cao trong công viên phía bên tay mặt. Giữa công viên là một cái hồ nhỏ xíu, nước xanh thẳm một màu rêu, luôn luôn có mấy chú vịt nhàn nhã lội bơi. Chàng trêu nàng, gọi là cái “ao tù”. Nàng sừng sộ:
– Đây là hồ… Tĩnh Tâm của người ta. Em hay ra đây ngồi ngắm mấy con vịt, mỗi lần có chuyện… suy nghĩ.
Chàng thừa biết điều đó, cũng như biết là nàng còn lẩm cẩm đến độ đặt tên cho những con vịt mà nàng… nhận diện được, nào là Vịt-cồ, Vịt-đẹt, Vịt-bầu… nên chàng bèn cười:
– Vậy sao không gọi là Hồ Vịt, nghe nó dễ hiểu hơn? Em sao mà rắc rối lắm chuyện.
Qua khỏi công viên là nhà thờ, với tường vôi trắng, nóc nhọn, và những bậc thềm đá hoa cương lấm chấm đen trắng như rắc bụi. Nàng là kẻ ngoại đạo, nhưng chăm chỉ đi nhà thờ, chăm chỉ đọc kinh làu làu một cách rất nghiêm trang thành khẩn. Nhưng không bao giờ chịu công nhận là vì chàng. Nàng lý luận:
– Em vừa đi chùa, vừa đi nhà thờ. Vừa “kính mừng Maria…” vừa “Nam mô A-di-đà…” Em lo xa như vậy, mai mốt chết không được Chúa cứu thì em cũng được Phật độ.
– Lỡ không ai thèm ra tay nghĩa hiệp vì thấy em … ba phải?
Nàng cười:
– Chúa, Phật đều là “người” tốt, sức mấy mà đành đoạn bỏ rơi em. Em là người nhiều đức tin lắm, anh đừng có giỡn mặt!
Chàng lắc đầu chịu thua, rồi mơ mộng chuyện tương lai xa vời:
– Mai mốt đất nước mình yên vui, anh sẽ đưa em về quê anh. Lúc đó em đỡ mất công hơn.
– Sao vậy hả anh?
– Tại vì quê anh có nhà thờ chính tòa và chùa nằm sát bên nhau, cách có cái hàng rào. Tha hồ cho em… chui rào qua lại. Gần đó lại có lò bánh mì ngon nổi tiếng lắm, nhỏ ơi. Em mê bánh mì, “nhất cử” mà tới … “tam tiện”!
Nàng cười khúc khích, ra chiều hài lòng với viễn ảnh tương lai. Mắt chàng bắt đầu đượm vẻ mơ màng:
– Nhất định phải đưa em đến thăm trường cũ của anh nữa. Ngôi trường đẹp đẽ và ngon lành nhất nhì nước Việt Nam Cộng Hòa đấy nhé, cô nhỏ. Trong khuôn viên trường có ba con đường chính chụm đầu lại vào nhau thành hình tam giác. Anh chỉ còn nhớ có hai tên, Đỗ Mai Lộ và Hoàng Hoa Lộ. Hoàng Hoa Lộ có tên như thế là vì dọc theo con đường này người ta trồng hai hàng cây muồng đen giao ngọn vào nhau. Cây muồng đen đẹp lắm em ạ. Có lá nhỏ lăn tăn và hoa vàng nở thành từng chùm rực rỡ vào mùa hè. Trường anh có một nơi gọi là vườn cây Mẫu, trồng đủ loại cây để dùng vảo việc thực tập khảo cứu như cây sao, cây vàng tâm…, có Đại Thánh Đường uy nghi nằm cạnh hồ sen thơ mộng dùng để họp hành hay trình diễn văn nghệ. Kế đó là vườn trúc đẹp tuyệt vời như trong tranh vẽ. Rồi anh sẽ đưa em qua cầu Trắng về phố chợ, đi uống cà phê và thưởng thức nhạc tình ở quán Ngọc Loan hay quán Anh Đào nằm bên bờ hồ. Ngày còn đi học thì bọn anh thích quán Anh Đào. Vào lính rồi, khi về phép thì anh mới có… can đảm để ghé quán Ngọc Loan. Mà chắc phải mình nên đi quán Ngọc Loan, em ạ, cho em có dịp ăn thử thịt… chó.
Nàng xanh mặt, kêu lên:
– Ghê! Quê của anh sao khủng khiếp vậy? Toàn dân… nhậu không hả? Quán thì bán thịt chó. Trường thì có đường tên Mai-Quế-Lộ.
Chàng nhăn mặt, sửa sai:
– Đỗ Mai Lộ, cô nhỏ ơi. Gì mà có Mai-Quế-Lộ trong đó! Ghê vậy thì thôi, không thèm dẫn em đi xem đồi trà hay đồn điền cả phê. Cho người quê mùa lục tỉnh khỏi có dịp nhìn hoa cà phê trắng…
Nàng xuống nước năn nỉ. Thôi nói cho em nghe về vườn trà với hoa cà phê đi. Kể cho em nghe về tháng ngày tuổi nhỏ khi anh theo mẹ đi hái trà trên những nương đồi chập chùng xanh ngắt. Tả làm sao cho em có thể hình dung được màu lục mơn mởn tươi tắn củ những đọt trà non vừa hái, những đọt trà chớm nẩy mầm với hai chiếc lá con bé xíu dễ thương khi mùa mưa tìm về làm đục mờ bầu trời cao nguyên bụi đỏ. Anh nói thêm cho em biết về những nụ hoa trà dại màu trắng điểm chấm tim tím nhỏ xíu mà bãng lãng mùi hương thơm ngát núi rừng. Những cảnh đó nghe thơ mộng hơn quán Ngọc Loan bán thịt chó của anh nhiều… Nàng thủ thỉ bên tai chàng, mắt sáng long lanh mở lớn đợi chờ.
Mùa đông về mang theo tuyết trắng phủ kín ngọn đồi và dòng suối sau nhà. Những chú vịt lang bạt ngoài hồ Tĩnh Tâm của nàng cũng biến đi đâu mất. Nàng không còn lang thang giang hồ vặt được nên dặn dò chàng:
– Anh đem mấy cái áo thun lại đây. Bây giờ em rảnh rồi. Em sẽ “trang trí” mấy cái áo cho anh, chớ áo gì chỉ có một màu nhìn hoài chán chết.
Chàng hốt hoảng:
– Em định vẽ gì lên đó? Em biết anh bị… dị ứng với hoa cỏ, thú vật, chim muông, mặt người kỳ dị…
– Anh đừng lo. Em chỉ vẽ hình lập thể và trừu tượng…
Chàng ngẩn người, không biết có nên tin lời nàng? Nhưng cãi làm chi cho mất vui. Vài cái áo thun mà đánh đổi một nụ cười. Mười đầu ngón tay của nàng có đến chín cái xoắn ốc “hoa tay”. Nàng vẽ vời rất khá, chàng biết điều đó, nhưng thà mất lòng trước, được lòng sau, nên chàng cẩn thận giao hẹn:
– Đừng cho màu gì nhiều “nữ tính” quá, nhớ nghe em…
Vẽ xong mấy cái áo được chàng gật gù khen thưởng nhiệt tình, nàng cười vui hớn hở. Mùa đông vẫn chưa qua hết. Nàng nhắc nhở:
– Hôm trước anh nói mới thâu một đống băng nhạc mới, muốn em kẻ chữ đề tựa. Lần tới anh nhớ mang lại. Bảo đãm không đẹp là không tính tiền.
Rồi nàng đề nghị:
– Hay là em may áo chemise cho anh nghe? Anh vẫn muốn có cái áo màu đen phải không?
Chàng lắc đầu phục lăn mớ tài vặt của nàng:
– Em biết may nữa?
Nàng tỉnh bơ:
– Em chưa may quần áo lần nào, nhưng thấy cũng dễ. Anh kiếm cái áo cũ cũ, đưa cho em tháo ra làm ni. Cái đó là quan trọng nhứt. Có ni rồi, cứ may cho mấy miếng vải rời dính lại… thành chùm với nhau chớ có khó khăn gì đâu?
Hai tuần sau, nàng khoe với chàng công trình vĩ đại của mình. Cái áo chemise đen nhìn cũng y như thật. Đường may thẳng. Cổ đứng. Nút đơm… cùng một bên. Nhưng rộng thùng thình. Nàng ngượng ngập giải thích:
– Em thấy cái áo anh đưa làm ni sao coi ốm nhom ốm nhách. Em nghĩ là anh phải mập hơn nên nới thêm cho anh vài phân.
Rồi phụng phịu:
– Em còn thêu tên hai đứa lên cổ áo. Thêu bằng chỉ đỏ đàng hoàng cho nó nổi. Chưa nghe anh khen tiếng nào!
Chàng vạch cổ áo ra ngắm nghía tên mình và tên nàng nằm cạnh bên nhau, trông có vẻ rất là chung sống hòa bình. Chàng mỉm cười, lòng chợt ấm áp không đâu. Vây mà em vẫn chưa thèm nói tiếng yêu ta. Quả là con người bướng bỉnh cứng đầu.

Ngày cưới, nàng làm bộ điệu hạnh, eo xèo một chút như trong bài hát. “khóc như cô thiếu nữ lúc bước đi về nhà chồng. Phút xe hoa khép kính tiễn nét trăng độ vừa tròn…” Chàng an ủi vỗ về:
– Bây giờ thì em luôn luôn có anh trong đời, home is where your heart is.
Nàng khóc nhiều hơn một chút nữa, thổn thức:
– Nhưng mà em còn nhỏ quá, em đâu có biết làm dâu. Hồi đó tới giờ má đâu có bắt em làm công chuyện nhà gì đâu. Em chỉ mới biết “dọc mùng” là cây bạc hà. Cái “môi” là cái dá múc canh.
Chàng kêu trời:
– Vậy sao em nhận lời lấy anh bây giờ. Mình chờ thêm vài năm nữa cũng đâu có sao.
Nàng lau vội nước mắt, nhìn chàng cười ngỏn ngoẻn:
– Nhưng mà em thích ở bên cạnh anh suốt ngày đêm, hết năm này qua năm nọ. Chờ lâu, phát mệt. Lỡ cô nào nhào vô là em… lúa.
Tuần trăng mật ở miền biển là chuỗi ngày đẹp như trong truyện thần thoại hoang đường. Tháng bảy là mùa thiên đường của nắng hồng, trời xanh và mây trắng. Tháng bảy quay cuồng mê đắm của những tấu khúc hân hoan. Màu cát trắng chói lòa như bốc hơi trong nắng nhiệt đới, bãi biển cạn với con dốc thật lài, chạy mãi tuốt ngoài khơi tít tắp. Hai người kéo nhau đi miết ra xa, khi không còn mấy ai quanh mình. Nàng ngụp lặn đùa giỡn theo nhịp sóng đẩy đưa, hai bàn tay mềm quấn quít bám siết trên vai chàng, trôi tuột xuống miền bụng phẳng phiu, tiếng cười nàng dòn tan như thủy tinh vỡ. Những giọt nước biển trong vắt mặn mà đẫm ướt mắt môi. Những nụ hôn nồng nàn cuống quít. Chàng thì thầm bên tai nàng, lời rì rào êm ái như gió đùa trên sóng. Nhỏ ơi, ta yêu em. Anh yêu em. Và nàng lại cười. Nụ cười tươi long lanh hạnh phúc. Buổi tối, trên balcon hiu hiu gió thoảng thơm ngát mùi hương ngọc lan, nàng nằm khoanh ngoan ngoãn trong vòng tay ấm áp của chàng, mặt hướng về biển tối mịt mờ ngoài xa. Hai người cùng im lặng lắng nghe những xúc cảm dịu dàng trôi nổi lênh đênh trên miền thịt da êm ái. Tiếng sóng vỗ về thì thầm lẫn trong tiếng những tàu lá dừa xào xạc đong đưa trong gió. Rồi chàng đưa tay chỉ bâng quơ ra ngoài trời bao la, thì thào với nàng:
– Em có thấy không? Có thấy là anh mang dâng tặng nguyên cả một bầu trời rộng và một góc biển riêng tư cho em để dành làm chút gia tài yêu thương cho ngày sau?…

Nàng hay nhớ lại những ngày tháng đó trong những lần ngồi chờ chàng về trước mâm cơm đã nguội lạnh. Nước mắt rơi xuống cũng mặn như nước biển năm nào, nhưng cõi trời xưa đã khép và lời biển xưa đã im lìm. Bầu trời xanh bao la giờ thu lại trong căn nhà nhỏ, chỉ chứa đủ những bước chân loanh quanh buồn bã của nàng. Bước âm thầm của những đêm lui tới ngóng chờ chàng về. Bước hối hả chạy đi lấy chiếc thau con để cho chàng ụa mửa thốc tháo trong cơn say. Bước nhẫn nhục đi tìm cái khăn ướt để lau mặt cho chàng tỉnh táo, pha cho chàng một ly nước chanh ít đường chua đến gắt cổ, se môi. Nước mắt nàng lại đầm đìa rơi xuống. Vài giọt lẻ loi đọng lại trên mặt chàng. Khuôn mặt xương với triền mũi thẳng và đôi mắt chan chứa yêu thương đã cuốn hút trái tim nàng năm nào. Đôi mắt giờ hằng những đường gân máu đỏ chạy dọc ngang như những vết chém thảng thốt gạch nát trên mảnh hồn buốt lạnh tê điếng của nàng.
Ngày hai người ly thân, người chị chồng tốt bụng đã an ủi:
– Thôi cũng may cho em. Nếu hai đứa có con với nhau thì còn khổ thêm. Ít nhất như vầy em còn rảnh tay tạo lập lại cuộc đời.
Bà cô ruột thì chép miệng:
– Phước đức đó, con ơi. Bỏ được cái thằng rượu chè say sưa như vậy là tốt lắm rồi. Tiếc làm chi…
Nàng dọn vào căn apartment một mình. Vừa loay hoay sắp xếp đồ đạc, vừa cố gắng… đếm những cái “may mắn” và “phước đức” của mình mà hình như những người chung quanh ai ai cũng nhận diện thật dễ dàng. Vậy mà sao nàng chỉ nhìn thấy thảm cỏ xanh trên đỉnh đồi con và dòng suối nhỏ hiền hòa sau ngôi nhà thời con gái. Khu rừng bạch dương với những thân cây màu trắng bạc điểm lấm tấm lá vàng vào mùa thu. Những con đường nhỏ đã tay đan tay đi qua cùng chàng. Những chuyến xe bus đã thả chàng xuống góc đường ở cuối ngõ nhà nàng. Những đêm trăng bàng bạc trải lụa ngà trên chăn chiếu thơm tho, tắm đẫm nồng nàn trên môi mắt. Sao trong tận cùng những góc thẳm của vòm trời ký ức, nàng chỉ nhớ được màu trùng dương xanh biếc và tiếng sóng rì rào thiết tha réo gọi. Và chỉ biết là từ đây và mãi mãi về sau, sẽ không bao giờ còn nữa những buổi sáng vừa mơ màng thức giấc, nằm khoanh tròn lười lĩnh trong vòng tay chàng ấp ủ, cùng lặn nhìn dòng nắng vàng rực rỡ hay những bông tuyết trắng xóa bay ngập trời phía bên kia vuông cửa sổ của một thời đằm ấm yêu thương.

Có đôi lần nàng nhìn thấy trong chiêm bao cảnh tượng này. Những bước chân nôn nao cuống quít trong lòng con đường hầm nối liền cửa phi cơ và tòa nhà. Nàng hiện ra ở cuối con đường hầm đó, bỡ ngỡ ngó quanh tìm kiếm. Và nhìn thấy chàng. Vẫn dáng cao và gầy. Cũng trong chiêm bao, chàng đứng tựa lưng bên cạnh bức tường ngăn bằng kiếng, cạnh gốc dừa kiểng thưa lá cao lêu khêu, bồn chồn đợi chờ. Chàng mặc quần xanh olive, màu nàng vẫn thích, áo chemise màu rêu nhạt lấm tấm những hình vuông tròn lẫn lộn nhỏ xíu màu đen và cà phê sữa. Giấc mơ luôn luôn nằm vào thời điểm của một ngày mùa đông. Nên chàng mặc thêm áo len dầy, sợi nhỏ đan vào nhau quấn quít, màu cặn rượu đậm đà. Trên vai chàng khoác hững hờ cái áo da màu đen. Nàng hơi hụt hẫng một chút, nhớ đến khu rừng và ngọn đồi ngày cũ, nơi đã bao nhiêu lần nàng nhìn thấy chàng trong áo khoác mùa đông màu đỏ ấm áp. Màu của lửa ngọn nồng nàn. Nhưng trong chiêm bao, rõ ràng chiếc áo da khoác trên vai chàng có màu đen tuyền, mịn màng, trơn láng, đã kề sát môi má nàng khi vòng tay chàng khép chặt quanh thân. Rồi hai đứa lơi tay ra để nhìn nhau cười nhẹ, nụ cười ngượng ngập, ấm áp… Nàng nhìn qua vai chàng, bên kia bức tường kiếng là phi đạo trải dài hun hút. Xa xa nữa là những núi đồi chập chùng tuyết phủ. Nàng nhớ lời chàng vẫn hát vào mùa hè năm xưa. “Rước em lên đồi, cỏ hoa ngập lối…”
Nhưng đó là trong chiêm bao. Giờ nàng đứng đây, ở cuối con đường hầm, đối diện với bức tường kiếng trong vắt cao sững sờ. Dĩ nhiên là chàng không có đó để đợi chờ, vì làm sao chàng biết được là nàng đang có mặt trong thành phố này, dù những lời nhắn gửi đã ngân vang bao lần trong đầu nàng. Em đã đến. Cuối cùng, em đã tìm đến đây, dù chỉ trong khoảnh khắc đủ để nhìn nhau rưng rưng ngậm ngùi. Nhưng có vội vàng ngắn ngủi đến đâu thì cũng là một câu trả lời mà anh thấu hiểu, phải không? Trước đây, bao lần chàng hỏi. Chưa bao giờ nàng hứa hẹn điều gì, mà chỉ lẳng lặng thở dài. Gặp nhau chi nữa, chỉ làm rối rắm đời nhau thôi anh. Chàng buồn rầu. Vậy mà có lần em nói khi đã chấn chỉnh lại đời mình thì anh cứ cất lời gọi tên, thì dù bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, em cũng sẽ quay về… Nàng im lặng, không biết trả lời sao với chàng. Không lẽ đổ thừa tại… định mệnh đã an bài, nên chuyện đôi lứa sum vầy thôi đành… hẹn kiếp sau? Hay nhắc nhở cho chàng biết, là em đâu có hứa dù đang “bất cứ với ai”, em cũng sẽ tìm về…
Lúc đứng chờ lấy xe, nàng sờ tay lên chiếc nhẫn vàng trơn, xoay xoay. Giờ này chắc chồng nàng đang chúi đầu vào chồng giấy tờ ở văn phòng, hay bận rộn trong buổi họp nào đó. Lảm sao biết được nàng đang đứng giữa thành phố lạ lẫm này, cách xa bao dặm đường và hàng hàng lớp lớp những dãy núi đồi chập chùng cao vòi vọi, đang lao đao lặn ngụp trong cõi mù sương vây khốn của riêng nàng? Nàng lục lọi trong sắc tay, kéo ra tấm bản đồ thành phố và mẩu giấy nhỏ ghi nguệch ngoạc số điện thoại và địa chỉ. Tên đường cũng là một con số. Con số đon cao nhất. Nàng mỉm cười, có thể hình dung ra được nụ cười nửa miệng tếu tếu trên khuôn mặt chàng. Đại loại, chàng có thể giễu một câu như:
– Chín nút, chưa bù. Dấu hiệu tốt. Em có thấy là đời anh luôn gặp may mắn không?
Bình thường, chắc nàng cũng “phang” cho chàng một câu:
– Cái đó còn tùy anh đang chơi bài gì. Chín nút hay chỉ là ngầm chín. Bù hay được ngầu hầm.
– Đường vào thành phố trơ trọi không một bóng cây. Hai bên là cánh đồng cỏ khô cháy vàng hoe như màu lúa chín, chạy dài ngút mắt. Rồi nối theo là những cơ xưởng, hàng quán, nhà phố. Cái nào cũng cũ kỹ với màu sắc ảm đạm như nhau. Khung cảnh đìu hiu buồn tẻ như những ý nghĩ chập chùng trong đầu nàng. Nàng rời xa lộ, rẽ vào con đường thẳng tắp hướng về miền Nam, chạy một đỗi xa. Những bảng tên đường mang số xuống thấp dần. Lại trở ngược về hướng đông. Những tên đường bây giờ hoàn toàn là tên của cây cối. Nàng cố tình tạo sự bận rộn cho trí óc mình bằng cách nghĩ vẩn vơ. Cái ủy ban, hội đồng nào đặt tên đường cho thành phố này đúng là nơi tụ họp của một nhóm người kém trí tưởng tượng và lười suy nghĩ. Số? tha hồ mà đếm. Cây? có cả một tự điển đầy. Cứ tự do tiếp tục xây cất, phá núi, mở đường. Nhảy thêm một con số, cộng thêm tên một loại cây, rồi thì nhét vào North, South, East, West là xong. Tiện việc sổ sách trăm bề.
Lúc đi những bước cuối cùng về hướng cửa bệnh viện, nàng mới bắt đầu cảm thấy hai chân mình run rẩy, luống cuống. Toàn thân nàng như chợt hóa băng, rờn rợn, lạnh toát. Nàng nhớ đến cú điện thoại bất ngờ chiều qua. Tiếng chuông vang rền lạnh lẽo như cứa mạnh vào không khí tĩnh mịch của ngôi nhà yên ắng. Nàng đang chuẩn bị làm cơm chiều, thì thà rau cải bày biện đầy trên mặt bàn. Giọng nói của người nữ y tá ngọt ngào, mềm mỏng. “Trước khi được đưa vào phòng mổ, ông ấy đã đọc số điện thoại và nhờ tôi làm giùm một đặc ân là tìm cách báo tin cho bà. Thương tích của ông có phần trầm trọng. Nếu được, chắc bà cũng nên cố gắng đến thăm một lần. Tôi chỉ dám đoán chừng bà là người quan trọng đối với ông ấy, dựa theo cách ông nhắc nhở dặn dò tôi mấy lần… “Nàng định hỏi, còn bà ấy đã biết tin chưa, nhưng kịp ngưng ngang. Dĩ nhiên là bà ấy phải được báo tin. Không biết vô tình hay cố ý mà đôi khi nàng vẫn quên đi cái chi tiết quan trọng đó, là chàng đã “đi thêm bước nửa”, cũng như nàng.
May là chồng nàng không có ở đó. Nên ít nhất nàng đã có được những giây phút riêng tư cần thiết để ngồi yên bàng hoàng với những cơn khóc run vai. Nàng thu người trong lòng ghế, chập chờn tưởng nhớ. Đã bao năm rồi hai người không gặp lại nhau. Mối liên lạc duy nhất là những cú điện thoại không hẹn trước vẫn làm nàng thẫn thờ luôn mấy ngày sau đó. Tại sao vẫn chia sẻ với em những biến cố, vẫn kể lể cho em nghe những vui buồn. Nàng hỏi. Chàng mềm giọng. Bởi vì nhìn quanh quất lại trong đời, em vẫn là một trong số người rất hiếm hoi đã thương yêu anh vô điều kiện mà anh luôn luôn có thể đặt trọn vẹn niềm tin. Chuyện anh đã vụng về để vuột mất em cũng đâu có thay đổi được những thứ tình cảm đó. Những lỗi lầm em đã tha thứ, phải không?… Khi dọn dẹp xong buổi ăn tối với chồng, nàng đã biết rằng sáng hôm sau, bằng mọi cách, nàng cũng sẽ ra phi trường để bay về thành phố của chàng. Nàng phải nhìn thấy chàng, dù chỉ một lần này thôi.
Nàng bước vào trong diện tích hẹp của những khung cửa kiếng tự động xoay vòng, đặt chân vào khu vực tiếp tân của bệnh viện. Nàng dừng lại một chút trước tấm bảng chỉ dẩn hướng đi đến thang máy. Hành lang dài thẳng tắp. Tường sơn màu xanh da trời dịu mắt, kẻ những đường vân màu vỏ trứng gà nhu nhã. Sàn gạch trắng được chùi lau cẩn thận, bóng loáng dưới ánh sáng của những hộp đèn từ trần nhà tỏa xuống lạnh lẽo.
Nàng ghé lại bàn của y tá trực. Vài người đang chụm đầu xì xào nói chuyện. Người nữ y tá có mái tóc vàng óng ả ngẩng đầu lên nhìn nàng, đôi mắt xanh biếc mở tròn, chờ đợi. Tự dưng nàng thấy lòng nhẹ nhõm khi nhận ra bảng tên trên ngực áo của cô là tên người đã điện thoại cho mình chiều qua. Nàng nở nụ cười ấm áp, tự giới thiệu mình. Cám ơn cô đã chịu khó báo tin chiều qua. Giờ thì tôi bằng xương bằng thịt đây. Vâng, tôi đã vội vàng đến bằng chuyến bay rời thành phố sớm nhất buổi sáng này. Mua được vé vào giờ chót trong mùa thiên hạ nghỉ hè du lịch đông đảo như vầy là tôi may mắn quá, phải không cô? Bây giờ thì xin cô làm ơn cho tôi biết số phòng của anh ấy.
Nàng thấy mấy cặp mắt hốt nhiên cùng quay lại một lúc, nhìn nàng đăm đăm thảng thốt. Những khóe nhìn đọng vũng xót thương.

Chỉ Là

là sương mỏng buổi chiều thu
là mường tượng khói của mù mịt xa
là mơ hồ vạt nắng tà
mà sao rất thật lệ ta khóc người.

Những Mùa Xưa

những mùa xưa lá đỗ
đã âm thầm về đâu
tháng mười qua bước nhỏ
nắng chìm dưới mưa mau

những mùa xưa vàng ngát
nụ hoa bên lối chờ
chiêm bao về đã lạc
đường quen bướm ngẩn ngơ

những mùa xưa tóc mướt
những mùa xưa tay mềm
những mùa xưa mắt biếc
xoay vòng giữa nhớ quên

chiều nay nhìn mưa xuống
ơ thờ bên lũng xa
những mùa xưa cõi tạm
ừ thôi, mùa xưa qua…

Xõa Tóc

Ngồi khoanh nhớ nắng hôm qua
Giọt nghiêng thềm cũ la đà tóc em
Nay về nắng đã ngủ quên
Nhạt nhoà dấu bụi in nền gạch hoa
Tóc xưa hương cũ la đà
Rộn ràng đâu tiếng chân qua một thời…

Thuyền Xưa

Ngày hay tin chị Thuyền ôm cầm sang… thuyền khác, tôi biết anh Long buồn ghê lắm, mặc dù thật ra cả nhà không ai lấy làm ngạc nhiên. Chẳng gì, chị Hiền đã kể cho mọi người trong gia đình nghe về lần gặp gỡ cuối cùng giữa anh Long và chị Thuyền trước đó không lâu. Cuộc hẹn hò “mặt đối mặt, tay… chẳng cầm tay” này do chị Thuyền đề xướng đã xảy ra ở nhà chị Hiền trên Gia Ðịnh, nơi anh Long đang ở nhờ trong thời gian mới bắt đầu đi làm việc. Chị Hiền chép miệng, rươm rướm nước mắt khi kể với má tôi:
– Má biết không, con Thuyền khóc dữ quá nên con cứ sợ nó lăn đùng ra xỉu bất tử. Thằng Long nhà mình thì cứ ngồi im rơ trên ghế salon như hóa đá, còn con Thuyền thì ngồi phệt dưới đất ôm chân nó mà năn nỉ ỉ ôi, van xin nó tha thứ. Con gái Huế nói chuyện hay thiệt, văn hoa bóng bẩy quá trời, câu nào câu nấy nghe muốn rụng rời tay chưn hết trơn làm hai mẹ con con núp đàng sau nhà bếp nghe lén mà cũng mủi lòng khóc bù lu bù loa. Vậy đó, mà thằng Long cứ im thin thít không thèm trả lời trả vốn tiếng nào. Con Thuyền nói cả nửa tiếng đồng hồ không dứt. Cuối cùng thằng Long chỉ buông ra có một câu duy nhất, thôi em về đi!…
Tôi say mê ngồi nghe, há hốc miệng sững sờ. Thôi em về đi? Dù “thôi” như trong bài hát “Thôi em đi về đi xa xôi rồi thăm nhau mà chi…”, hay là “Thôi em đừng nhắc nữa làm gì…”, hoặc “Thôi nín đi em lệ đẫm vai rồi buồn thương nhớ ơi…” với ba động từ nặng trĩu buồn-thương-nhớ đi một dọc lê thê theo nhau của ông nhạc sĩ chuyên viết nhạc thất tình Ðỗ Lễ, khi chữ “thôi” nằm ở đầu câu, trong hầu hết mọi trường hợp, không phải là dấu hiệu… khả quan. Nhất là khi hai người yêu nhau đang có chuyện lục đục trầm trọng như anh Long và chị Thuyền. Tôi hồi hộp hỏi chị Hiền, bất chấp tia nhìn đe dọa kiểu “con nít đừng bầy đặc lộn xộn” của má:
– Rồi sao nữa chị Hiền?
Chị Hiền thở dài não nuột, nhìn tôi hơi gắt gỏng:
– Thì còn làm sao nữa! Con Thuyền phải đứng dậy đi về chớ sao bây giờ?
Rồi chị quay sang má, tiếp tục kể lể:
– Thằng Long cứ ngồi im một chỗ không thèm màu mè đưa tiễn gì hết. Con Thuyền lủi thủi đi ra mở cửa rào một mình, vừa đi vừa khóc tức tưởi. Thấy cũng tội nghiệp!…
Tôi tròn mắt:
– Anh Long nhà mình coi vậy mà… ngon lành quá hén?
Chị Hiền bĩu môi, lắc đầu:
– Ngon lành cái con… khỉ mốc! Nó chỉ chờ con nhỏ kia đi khuất ngoài đầu đường là vô phòng nhào ra khóc như con nít bị ăn chổi lông gà!
Tôi lặng người ngơ ngác. Anh Long tài ba, chững chạc, hùng dũng của tôi mà lại khóc như con nít vì một người con gái? Ngàn năm tôi cũng không tưởng tượng được chuyện này. Nhưng dù cho tính chị Hiền hay vẽ rồng vẽ rắn đến đâu đi nữa, chắc chị không dám “đẩy cây” với má. Tôi lấm lét nhìn má, dò chừng xem phản ứng của bà trước tin động trời này. Nét mặt má vẫn trầm tỉnh hiền hòa như bao giờ. Bà chỉ nói một câu… xuôi xị:
– Chuyện vợ chồng là chuyện duyên số, con ơi. Chắc tại hai đứa nó có duyên mà không nợ nần gì nhau. Thì thôi, biết tánh con nhỏ kỳ cục như vậy trước khi tụi nó lấy nhau vẫn hơn. Chớ chờ lấy nhau rồi, con cái lùm đùm rồi bỏ nhau thì mới thiệt là khổ!…
Câu “thiên duyên tiền định” cũ mèm xưa rích được đem ra xài kèm theo lời phán xét thực tế nhưng phũ phàng của má như gáo nước lạnh dội xuống trái tim mới lớn còn nóng bỏng sôi nổi của tôi. Trái tim đang bừng bừng dậy sóng, đang nghiêng ngửa đảo điên vì chuyện tình yêu của… thiên hạ bỗng xìu xuống, eo xèo. Trong mắt của con nhỏ mới mười sáu tuổi đang lẫm đẫm tập tểnh làm thơ tình với rất nhiều… tưởng tượng như tôi, đoạn kết mối tình dễ thương và lãng mạn của anh Long và chị Thuyền là một chung cuộc lãng nhách, đáng lẽ không bao giờ được quyền xảy ra.

Tôi không đến độ đau khổ tuyệt vọng như anh Long, nhưng cũng ngơ ngẩn bàng hoàng mấy tháng trời. Cả Trúc nữa. Suốt ba năm trời, tháng nào hai chị em tôi cũng gò gẫm viết thư qua lại với chị Thuyền ít nhất là hai ba lần. Hai đứa cùng hăng hái bớt tiền ăn hàng vặt để dành mua tem thư. Chị Thuyền là người lớn duy nhất chịu khó viết thư “trao đổi tâm tình” với tôi cho nên tôi quí chị lắm. Trước chị, tôi chỉ thư từ qua lại với Hạnh, con nhỏ bạn thân người Bắc chơi với tôi từ ngày mới vô trường nữ tiểu học thị xã. Hai đứa học chung đến năm cuối cùng ở tiểu học, sau vụ Tết Mậu Thân kinh hoàng, thì ba Hạnh đột ngột được lệnh đổi về Sài gòn. Rồi sau đó Hạnh thi đậu vào trường Trưng Vương thơ mộng nằm gần sở thú, nơi mà nó vẫn cố thuyết phục tôi phải gọi là “thảo cầm viên” nghe cho nó nhẹ nhàng văn vẽ hơn, trong khi tôi “chôn vùi tuổi xuân” ở trường nữ trung học công lập trong thị xã. Thư từ trao đổi giữa tôi và Hạnh đề tài chung chung là những mẫu chuyện làng nhàng dính dáng đến học hành, trường lớp, than van về thầy cô nghiêm khắc và bài vở khô khan khó nhớ, hay bàn bạc lung tung xèng về quần áo, thời trang. Hạnh luôn “cập nhật tin tức”, cho tôi biết hiện nay ở Sài gòn người ta đang diện mốt gì, còn tôi thì biết để mà… quên. Chứ nhớ để làm gì bây giờ? Con gái tỉnh nhỏ như tôi, muôn đời ra đường nếu không mặc áo dài khi đi học thì cũng chỉ quần satin đen với áo bà ba bằng tơ lụa nội hóa. Thỉnh thoảng tôi và Hạnh nổi hứng làm một màn thề nguyền rất cảm động là hứa hẹn với nhau một ngày nào khi lớn lên, có chút đỉnh tiền túi và được phép đi xa một mình, hai đứa sẽ lặn lội đi tìm nhau để… sum vầy.
Tình bạn “bút đàm” của tôi nghèo nàn èo uột như vậy cho nên khi chị Thuyền trở thành người yêu của anh Long và… đi vào đời tôi, tôi và Trúc hoan nghinh bằng cả hai tay lẫn… hai chân. Hai đứa tôi tranh nhau hì hục viết thư làm thân với chị. Chị Thuyền hội đủ tất cả điều kiện để thỏa mãn cái tính mơ mộng lãng đãng của hai chị em tôi. Anh Long khoe chị hát rất hay, hay nổi tiếng trong trường đại học Khoa Học, nhất là với những tình khúc nhẹ nhàng mà ray rứt của Cung Tiến, những Hoài Cảm, Hương Xưa, Nguyệt Cầm… mà tôi đang yêu mê mết. Anh Long thì có ngón đàn guitar vô cùng bay bướm, ai nghe anh đàn nhạc cổ điển tây phương cũng ngẩn ngơ hồn. Anh là người đã đem chút “văn học nghệ thuật” giới thiệu vào đời con em gái tỉnh lẻ nhà quê, cho tôi biết Chopin qua Nocturne, Mozart qua Elvira Madigan, Beethoven qua Moonlight… Như vậy, anh Long và chị Thuyền đúng là đôi tình nhân… nghệ sĩ. Nghe lãng mạn làm sao! Thêm vào đó, chị Thuyền có dáng dấp rất ẻo lả dễ thương khi chị mặc áo dài. Anh Long chụp vô số hình chị đứng ngồi đủ kiểu trong chiếc áo dài dịu dàng tha thướt. Quỳ trên đồi cỏ xanh non. Thơ thẩn dưới rặng thông già. Nghiêng mình bên dòng suối nhỏ. Tôi và Trúc tha hồ vác hình chị đem khoe nhặng xì ngầu với lũ bạn nhà quê cùng lớp. Còn nữa, chị Thuyền là người Huế, nhà chị lại ở xa tít mù trên vùng núi đồi cao nguyên đất đỏ bụi mù, là… “giống người” hoàn toàn lạ lùng với tụi tôi. Bởi vậy cho nên đối với những kẻ “vọng ngoại” như tôi và Trúc, bao nhiêu hình ảnh có thật và tưởng tượng về chị bỗng mang đầy vẻ hoang đường và lãng mạn trong đó.
Dĩ nhiên tôi và Trúc không làm sao đoán biết được tình cảm chị Thuyền dành cho mình thật giả, nông sâu như thế nào. Nhưng những lá thư từ phương xa của chị luôn mang đến bao nhiêu niềm vui rộn ràng cho hai chị em tôi. Chị cũng tỏ ra chịu khó lấy lòng hai cô nhỏ có viễn ảnh trở thành em chồng tương lai của chị, viết thư riêng cho từng đứa, kể chuyện trời trăng mây nước dông dài. Thư chị viết trên giấy trắng không kẻ hàng, chữ viết tròn trĩnh thẳng thớm. Nhiều khi chị hấp tấp, viết tháu, những chữ “o” không bao giờ khép thành vòng tròn nghiêm chỉnh mà tôi thấy coi cũng hay hay. Những mẫu chuyện vụn vặt chị kể cho tụi tôi nghe bao giờ cũng ngộ nghĩnh và dễ thương. Sao tôi thấy cái gì liên can tới chị Thuyền cũng có vẻ hay ho đặc biệt hết. Tôi và Trúc thường hỏi nhau, hay có lẽ tụi mình cũng bắt chước anh Long, bị… mù quáng vì tình yêu? Từng lá thư của chị được tôi cẩn thận xếp lại theo thứ tự để đọc đi đọc lại như đọc tiểu thuyết.
Vì vậy mà hai chị em tôi cùng chia sẻ từng biến cố lớn nhỏ trong mối tình của chị Thuyền và anh Long. Ðầu mùa Hè, giọng thư chị ướt sủng nước mắt. Chị kể chuyện hôm anh Long về quê nghỉ hè trong khi chị còn phải ở lại trường thêm vài hôm để thi cho xong. Mặc dù anh đã dặn dò chị đừng ra bến xe đưa tiễn chỉ thêm buồn, chị đã lén tìm đến, đứng nép người sau góc tường bên cạnh bến xe để nhìn anh đi mà không dám đưa tay vẫy gọi. Tôi nghe lòng mình cũng quặn đau theo từng dòng chữ chị phơi trải tâm tình trên những trang giấy vô hồn. Tôi tưởng tượng ra vóc dáng nhỏ nhắn cô đơn của chị Thuyền đứng ủ rũ trong bầu trời xám lạnh với những giọt mưa phùn lác đác phất phơ bay. Buổi sáng Ðà Lạt chắc phải “lạnh lùng sương rơi heo may”. Còn anh Long chắc phải vai mang nặng hành lý và “chân bước phân vân lòng ngập ngừng”. Rồi chị Thuyền lủi thủi co ro một mình trở về nữ đại học xá sau khi chuyến xe đò cũ kỷ từ từ lăn bánh mang anh đi xa, chìm khuất trong màn sương trắng xóa mịt mờ. Tôi chỉ tưởng tượng bấy nhiêu đó thôi mà còn lòng đau thổn thức, mắt ứa lệ rưng rưng, thì trái tim hai người trong cuộc chắc phải… bầm dập tan nát đến dường nào. Qua đầu Thu, giọng thư chị Thuyền trở lại xôn xao ríu rít sau những lá thư buồn thảm của mùa hè. Chị và anh Long đều đã trở lại trường để bắt đầu cho niên học mới. Ðà Lạt dễ thương quá, tuyệt vời quá, Liên ơi, vì hôm nay chị đã gặp lại anh Long sau cả một mùa hè dài như trăm năm. Chị lao xao kể chuyện vui tái ngộ. Tôi nôn nao đọc thư, uống từng dòng chữ, lòng nhẹ hẫng lâng lâng.

Sau ngày anh chị cùng tốt nghiệp đại học, chị Thuyền trở về quê đi dạy. Tôi “ghen” với mấy cô học trò ngang tuổi tôi của chị, tự dưng cảm thấy như mình bắt đầu mất mát một cái gì. Ở Pleiku hay Ðà Lạt gì thì chị cũng xa tôi ngút ngàn, và với tôi thật ra chị vẫn còn là “người tình không chân dung” vì chưa lần nào gặp gỡ, vậy mà tôi mơ hồ cảm thấy một Thuyền của Pleiku không còn là một Thuyền của Ðà Lạt ngày nào. Thuyền với đôi tà áo dài thướt tha bay lượn trong bầu trời bãng lãng khói sương của Ðà Lạt nhất định phải nên thơ hơn là Thuyền với áo dài lấm tấm bùn lầy đất đỏ của Pleiku, và buồn nhất là “Thuyền của chị em tôi” đang sống giữa những người… xa lạ vì anh Long phải về Sài gòn tiếp tục lên cao học.
Hơn nửa năm sau, ba má tôi khăn gói theo anh Long ra mãi tận Pleiku gặp gia đình chị Thuyền để làm đám hỏi cho anh chị rồi… để đó, chờ anh Long học xong mới tính chuyện tiến hành đám cưới. Tôi và Trúc thì thấp thỏm trông ngóng chờ ngày anh Long cưới vợ để hai đứa được biết mùi đi máy bay coi ra thể nào. Trúc ăn cắp chữ nó mới đọc trong truyện Thằng Vũ của ông Duyên Anh đem ra áp dụng liền, ngày đêm hớn hở bàn với tôi, “đi máy bay cao tít trên trời chắc phải sướng… rêm mé đìu hiu, chị Liên hả?…”
Hai lần đám cưới trong gia đình tôi, của chị Hiền rồi đến anh Tùng, xe hơi còn chưa được xài đến thì đừng nói gì đến máy bay. Ngày chị Hiền lấy chồng, gia đình anh rễ tôi ở ngay sau lưng nhà tôi, cách nhau cái hàng rào xi măng cao không qua đầu người. Bình thường con cái hai nhà có thể bắt ghế trèo qua trèo lại như không. Dĩ nhiên là chị Hiền chưa bao giờ thú nhận là chị có từng làm chuyện này giống như đám em út của chị hay không. Gần sát bên như vậy, nhưng không thể đón đưa dâu theo kiểu “trèo tường khoét vách” nên ngày cưới của chị Hiền hai gia đình phải đánh một vòng… gần tròn, đi ra tới đầu ngõ, quẹo phải, đi dọc theo đường hẻm bên hông để qua nhà bên kia. Khúc đuôi của đoàn rước dâu còn dồn cục bên nhà trai thì khúc đầu đã vô tới cổng rào bên nhà gái. Chị Hiền chỉ sắp xếp hành lý sơ sài lấy có vì lỡ quên thứ gì thì cứ chạy ra sân sau réo lũ em đưa đồ qua bờ tường. Năm đầu tiên còn ở bên nhà chồng, chị Hiền đi làm dâu mà chiều chiều cứ tuôn về nhà cha mẹ để tụ tập ăn hàng vặt và tán dóc, cãi cọ với em út.
Ðến phiên anh Tùng đi lấy vợ thì nhà bà chị dâu ở bên cù lao nằm giữa sông, đối diện với chợ. Vậy là đoàn rước dâu đi bằng đò, áo xanh áo đỏ, dù hồng dù tím màu mè rực rỡ chói mắt cả một khúc sông. Chiếc xuồng chở đám con nít tụi tôi tròng trành suýt lật úp khi đi vào những con lạch nhỏ vì cả đám cứ xô đẩy lao nhao để chọc hái những trái ổi, trái mận chín hồng thơm tho hấp dẫn đong đưa trên mấy nhánh cây de ra hai bên bờ kinh.
Nghĩ tới đám cưới của anh Long và chị Thuyền, tôi cười thầm, chắc thời kỳ đám cưới “thủy quân lục chiến” bao gồm từ đường bộ đến đường sông trong gia đình đã chấm dứt, không còn cảnh đi bộ tà tà như đi hóng mát hay ngồi đò lênh đênh trên sông nước.

Ðôi khi, trong những lúc “trà dư tửu hậu”, tôi và Trúc hay đem chuyện anh Long và chị Thuyền ra mà mổ xẻ phân tích để chứng tỏ như mình cũng đã hiểu ít nhiều về chuyện yêu đương bồ bịch của người lớn. Trúc cho ý kiến:
– Dĩ nhiên là chị Thuyền phải thương anh Long nhiều lắm, chị Liên há? Anh mình học giỏi, đẹp trai, tài hoa, hiền lành, chung thủy, dễ thương…
Con nhỏ mới bước qua tuổi mười bốn, miệng còn hôi sữa, tập tành nói chuyện tình yêu như dân sơn đông mãi võ rao bán thuốc dán, thuốc tiêu, thuốc tể, cao đơn, hoàn tán…, chỉ còn thiếu hai chữ “mại dzô, mại dzô…”Tôi bật cười. Trúc phân trần:
– Vậy chớ không phải chị Thuyền là người “tấn công” anh Long trước hay sao?
Tôi suỵt suỵt:
– Anh Long mà nghe mày ăn nói kiểu đó thế nào cũng bị cú đầu vài cái.
Anh Long ghét tụi tôi dùng hai chữ “tấn công” này lắm, nói như vậy là ám chỉ chị Thuyền đã “chạy” theo anh, nghe… đại hạ giá con gái người ta quá! Anh hay bênh vực chị Thuyền đủ điều, tụi tôi đồng ý với nhau, ngay cả cái chuyện ai đã theo ai trước nào có mất mát thiệt thòi gì đâu mà anh cũng cố lấp liếm bào chữa cho chị. Có lẽ tại đầu óc anh có phần hơi… cổ lỗ sĩ. Cô Út của tôi đã quả quyết:
– Tao dám chắc thằng Long nhà này là hậu thân của Khổng Tử. Người đâu mà xưa như trái đất!
Từ đó mà anh Long mới có thêm cái tên gọi ở nhà là cụ đồ Long.

Mùa hè năm đó, cuối cùng tôi và Trúc cũng được gặp mặt “thần-tượng-từ-miền-cao-nguyên -đất-đỏ” là chị Thuyền. Nhân dịp nghỉ hè, hai đứa được ba má cho phép lên nhà chị Hiền ở chơi hai tuần lễ, gặp đúng dịp chị Thuyền từ Pleiku bay về thăm anh Long. Mấy anh chị em rủ nhau lên Ðường Sơn Quán ăn uống mừng ngày gặp gỡ. Chị Thuyền mặc áo dài màu vàng rực rỡ như nắng thu, quần satin trắng ống rộng mềm mại phất phơ. Dáng chị đẹp như tranh vẽ, đẹp hơn cả những tấm hình tôi đã được nhìn qua. Tóc chị suông, để dài quá vai, đường ngôi rẻ giữa thẳng tắp. Ngoài đời, nhan sắc chị cũng không thuộc vào hàng xuất sắc, nhưng chị có duyên và được trời phú cho đôi mắt sáng long lanh ướt mềm cộng thêm nụ cười e ấp dễ thương. Tôi có thể đoán được là chính đôi mắt như sao trời của chị đã làm ông anh tôi hụt chân, té nhào. Mắt em là nước hồ thu… Tôi đọc ở đâu đó câu ví von này. Nhìn vào mắt chị Thuyền buổi sáng hôm ấy, tôi hiểu ngay được sự so sánh thơ mộng này. Cả một bầu trời mây xanh nắng hồng rực rỡ như in bóng trong đôi mắt hồ thu của chị Thuyền ngày hôm đó.
Tôi ngồi cạnh chị và anh Long. Ghế ngồi là những gốc cây già cưa ra thành từng khoanh tròn, đặt quanh mấy cái bàn gỗ trong khoảng sân rộng với những tàn lá cao su xanh rì cao ngất ngưởng lao xao nhảy múa trên không. Tiếng xe cộ vùn vụt qua ngang ngoài xa lộ mơ hồ vọng lại âm thanh rầm rì dễ chịu nghe như tiếng ru. Buổi trưa thanh vắng tịnh yên với một chút gió thoáng qua rất nhẹ làm lung linh những giọt nắng chập chờn dọi trên nền đất phẳng phiu. Mà rồi cũng chẳng ai thèm để ý cảnh trí chung quanh vì mải mê nghe chị Thuyền nói chuyện. Chị Thuyền ở ngoài đời có lối nói chuyện ngọt ngào không khác mấy những lá thư chị viết, giọng chị nhẹ nhàng trầm bổng với bao nhiêu đề tài lý thú khác nhau. Chị quay sang hỏi Trúc về “danh lam thắng cảnh” của quê tôi. Trúc cười lúng túng:
– Quê em không có chỗ nào tên nghe hay như ở ngoài Huế của chị hết. Mấy cái tên ở ngoài đó nghe không cũng phát thèm. Trường Tiền, Hương Giang, Vỹ Dạ, Ðông Ba…
Chị Thuyền cười xòa:
– Chị đâu có biết Huế ra làm sao. Gia đình chị dọn vào Pleiku lâu lắm rồi.
Tôi dùng mớ kiến thức văn nghệ nghèo nàn của mình để “cứu bồ” Trúc:
– Thì Pleiku của chị cũng được ông Vũ Hữu Ðịnh với ông Phạm Duy làm thành… bất tử với “phố núi cao phố núi đầy sương…” đến đỗi anh khách lạ cũng phải đi lên đi xuống, đi tới đi lui… Còn Vĩnh Long, chị có nghe bản nhạc nào nói về Vĩnh Long thơ mộng chưa?
– Vậy quê em có gì thì cứ kể cho chị nghe…
Trúc nhíu mày suy nghĩ:
– Quê em có nhiều cầu lắm. Cầu Cái Cá, cầu Cái Côn, cầu Cái Cam… Nghe “cái mà” thấy ghê luôn.
Chị Thuyền bật cười, tiếng cười chị trong veo, ấm áp:
– Rồi gì nữa Trúc?
– Cầu Lộ, cầu Lầu, cầu Kinh Cụt, cầu Công Xi Heo, cầu Vòng, cầu Ông Me, cầu Bà Ðiều, cầu… đủ thứ giống!
Trúc kể lể một hơi dông dài nghe gần muốn đứt hơi, gom góp hết tên những cây cầu trong thị xã mà nó nhớ được để trả bài với chị Thuyền. Rồi nó nhìn lại nét mặt chị Thuyền càng lúc càng tỏ ra… kinh hải với những tên cầu nghe thật chẳng giống ai, con nhỏ bỗng sượng sùng ngưng ngang, ngồi thộn mặt ra ngó quanh bàn. Mọi người cùng phì cười trong khi chị Thuyền cố nói năng một cách đàng hoàng:
– Em nói đúng ghê. Quê em quả thật là nhiều sông nhiều cầu. Cứ y như là một Venice của Việt Nam!
Chị Thuyền quả thật là người khéo ăn khéo nói, vừa nhanh trí lại vừa lịch sự hết chỗ chê. Dù không biết Venice là cái quái đản gì, tròn méo ra sao và nằm ở xó nào trên năm châu lục địa, tôi chỉ lụp chụp nghe được cái tên ngoại quốc là khoái tỉ tê trong lòng. Ừ, thì Vơ-nít nghe cũng từa tựa như… Vĩnh Long, cùng bắt đầu bằng một chữ V, như vậy chắc chắn là có… bà con xa gần rồi. Anh Long chăm chú lắng nghe tụi tôi nói chuyện, cười tủm tỉm rồi lắc đầu làm bộ ra vẻ chán nản ê chề.

Hôm chị Hiền đột ngột về thăm nhà, tôi đoán chắc có chuyện gì không ổn, dựa theo cái vẻ đi đứng bồn chồn nóng nảy, mặt cau mày có của chị từ lúc bước chân vào nhà. Sau buổi cơm chiều, khi mấy chị em quây quần quanh bàn ăn chăm chú nhìn má dạy cách đổ rau câu sơn thủy, chị mới thì thầm kể lể với má:
– Vụ thằng Long với con Thuyền chắc là không xong đâu má à!…
Má tôi ngước lên nhìn chị Hiền, không giấu được sự ngạc nhiên:
– Sao vậy? Bộ tụi nó hục hặc gì hả?..
Chị Hiền thở ra:
– Anh Quang con có người bạn cũ cùng dạy một trường với con Thuyền, người ta biết Long là em con nên mới nói cho biết là con Thuyền đang cặp bồ với một anh chàng giáo sư cùng trường. Thành phố nhỏ xíu nên chuyện trong nhà chưa hay thì ngoài ngõ đã biết. Hôm tháng trước thằng Long bay ra ngoài đó gặp con Thuyền để hỏi rõ sự tình, con Thuyền thề sống thề chết là nó vẫn thương, vẫn chờ thằng Long. Thấy cũng tạm êm rồi…, ai dè đâu tuần trước bạn thân thằng Long làm việc ở ngoài Nha Trang lại gọi cho nó, nói gặp con Thuyền ở khách sạn với người đàn ông nào coi thân mật tình tứ lắm. Con Thuyền trông thấy nó là mặt mày xanh lè, hết đường chối cãi…
Má tôi buông người nặng nề xuống ghế, ngước mắt nhìn chị Hiền nhưng không nói được lời nào. Tôi bỗng thấy nghẹn thở và không muốn nghe tiếp những lời chị Hiền kể lể. Chưa yêu ai ngày nào mà tôi cảm thấy đau đớn như chính mình là người bị phụ tình. Chị Hiền ôm vai má tôi, nhẹ giọng vỗ về:
– Con về đây để nói cho má biết là thằng Long mới đánh điện tín ra Pleiku cho ba mẹ con Thuyền hôm qua để xin từ hôn.
Ðó là lý do chị Thuyền đã vội vã bay về Sài gòn để xin gặp mặt anh Long. Tôi bần thần suy nghĩ tới lui, nhưng không đoán được tại sao chị còn năn nỉ van xin anh Long tha thứ để làm gì. Mọi chuyện hình như đã đi quá xa, như những vòng bánh xe lăn đã đưa đến sát bên bờ vực thẳm mà không còn cách nào đứng dừng hay quay đầu trở lại.
Buổi tối, tôi và Trúc rút vào phòng sớm hơn thường lệ, thì thào bàn bạc về chuyện mới xảy ra. Hai đứa cùng ngẩn ngơ đau khổ như nhau. Tôi bỗng dưng nhớ đến mẫu giấy tập học trò lấm tấm vài vệt nâu loang lổ mà tôi và Trúc tình cờ nhìn thấy trong cái bóp da nhỏ của anh Long. Anh Long giải thích, đó là tờ giấy chị Thuyền đã gói ô mai tặng anh để làm quen. Trúc nghe qua, nhăn mặt kêu lên:
– Em đâu biết cụ đồ Long mà cũng biết ngậm ô mai cam thảo…
Tôi hả họng cười:
– Vậy chớ mày không nghe má thường hay nói sao, khi người ta thương nhau thì biểu ăn “bùa mê thuốc lú” gì cũng ăn, nói gì tới ba cái ô mai, xí muội, cánh chỉ, trần bì…
Ðó là chuyện vui trong quá khứ. Còn hiện tại thì mấy anh em tôi cay đắng cùng nhau ngậm… bồ hòn. Tôi và Trúc lục soạn moi móc ra hết những tờ thư cũ của chị Thuyền, ngồi lẩm nhẩm đọc lại từng dòng chữ như để tìm bất cứ dấu hiệu nào cho tụi tôi có thể đoán biết là một ngày nào đó chị sẽ hững hờ quay lưng. Dĩ nhiên là tôi không tìm thấy gì hết. Cho nên tôi tự an ủi là tình yêu một thời chị dành cho anh Long là điều có thật. Những giọt nước mắt chị nhỏ xuống với anh là những giọt nước mắt chân thành. Và có lẽ, ngay cả những lời cầu xin anh tha thứ cũng xuất phát từ trái tim, mặc dù tôi không đoán được chị sẽ xử sự ra sao nếu anh đồng ý chấp nhận cho chị quay về. Tôi không biết chị đã tìm được một tình yêu khác trưởng thành hơn tình yêu lãng mạn và mong manh của thời làm sinh viên mơ mộng, hay chị đang hốt hoảng cuống quýt chợt nhận ra giá trị của những gì sắp sửa vuột xa ngoài tầm tay với. Dù có là gì đi nữa, trong thâm tâm tôi biết chắc là chị không hề dự định chỉ yêu anh Long một thời cho… vui. Tôi thầm đoán, trên một đoạn đường đời đã cùng đi chung bước, như bao nhiêu đôi tình nhân khờ khạo ngu ngơ khác trên cõi đời này, hai người cùng trao nhau bao lời thệ nguyền dài lâu bằng cả tấm lòng thành mà không nhìn thấy trước được những thử thách gian nan, những hố thẳm vực sâu đang chực chờ trước mặt.
Tôi lẩn thẩn nghĩ, cái câu “duyên số tại trời” của má suy ngẫm vậy mà… có lý. Có lẽ cuối cùng thì cũng không phải lỗi tại ai mà chỉ tại… ông trời. Nhưng rồi tôi thấy phân tích lung tung để chứng tỏ mình là người hiểu biết, bao dung và… quân tử là một chuyện, sự thật thì nỗi đau vẫn nằm nguyên đó, là cũng như anh Long, tôi đã mất chị Thuyền. Mất đành đoạn xót xa. Mất bàng hoàng tức tưởi. Khi bị tình phụ thì chắc người quân tử chính hiệu con nai vàng hay người quân tử… tàu cũng đều đau khổ quắt lòng, cũng đòi đoạn tâm can như nhau!..
Tôi ngồi co người ở mép giường với hai tay vòng ôm gối, đầu lắc lư nhịp nhàng theo tiếng mưa rơi gõ đều trên mái ngói, bâng khuâng nghĩ đến chuyện sẽ chẳng bao giờ còn nhận được những lá thư mang nét chữ quen thuộc từ “phố núi cao, phố núi trời gần…” nữa, và tự dưng nghe lòng buồn quá đỗi…

Vui Nhé
Những Ngày Sau

Mênh mông giữa ngày tàn
lặng lờ bước tháng năm
chiều nay chợt bàng hoàng
tiếng hát vọng dư âm
gió lướt qua hiên thu
đong đưa bóng chiều tà
trong nỗi niềm thực hư
man mác giữa mưa hoa…

Tháng mười nghe xôn xao
như mùa thu ban đầu
thuyền về ghé đêm nao
bến đời nghiêng nắng chao
tóc rối chẻ đường bay
phấn hoa vương nét ngài
nhắn người xa dặm dài
vui nhé những ngày mai

Xin giữ tim khoan dung
giữa đời bao lỗi lầm
xin vòng tay tri ân
dù chẳng phải tình chung

Thì thôi, người thuở xưa
trả lại mộng ban đầu
thì thôi, người thuở xưa
vui nhé những ngày sau…

Cơn Đau Nỗi Khốn Cùng

này người cõi sương mù
còn nhặt lá vườn thu
giấu chôn tình mật ngọt
nuôi dưỡng đời cằn khô

này người cõi mây giăng
co bóng lẻ qua đường
xin mưa về gội rữa
vết buồn của tháng năm

này người phố cao nguyên
này người ở trong tim
của đời qua lặng khép
của tình nào chưa yên

xin đem trăng ước nguyện
về soi hồ mắt duyên
xin dâng môi thánh thiện
còn chứa chan nỗi niềm

đôi khi trong nắng vỡ
dáng về giữa mông lung
đôi khi trong tim nhỏ
còn đau nỗi khôn cùng.

Nhắc Chi Hoài Trăm Năm

nhìn trăng treo cuối phố
nhớ màu trăng năm nào
trăng này là mấy nữa
héo tàn trên hư hao

nhìn đêm sâu trăn trở
nhớ gối chăn ban đầu
đêm nay là mấy nữa
chìm hẫng xuống lao đao

nhìn tay thon ngón nhỏ
nhớ tay trên phím đàn
đâu rồi tay một thuở
lùa trong tóc em ngoan

nhìn gương soi mắt đỏ
vẫn long lanh kiếm tìm
gương ơi, còn đâu đó
hình hài trong đáy tim

nhìn mưa qua buổi nọ
che kín lối trăng vàng
trăng ơi, thôi đã lỡ
nhắc chi hoài trăm năm.

Lời Cho Rừng Thu

rừng thu ơi
lối cỏ vàng
chân khiêu vũ dưới màu trăng năm nào
mảnh ân tình gửi về đâu
mà đêm gió lạ mang sầu về đây

rừng thu ơi
bóng trăng gầy
đăm đăm dõi bước đường mây cuối trời
hoa thơm hương nhẹ nhàng rơi
sao lòng nặng những bùi ngùi không đâu

rừng thu ơi
áo lụa nhầu
ngọt hương chăn gối của đầu tiên xưa
cỏ hoa nghiêng buổi gió đùa
vô tình xóa dấu chân đưa thuở nào

rừng thu ơi
nắng mai sau
có như nắng thuở ban đầu khôi nguyên?…

Đi Chùa

Hình như nắng sớm ngủ quên
Cho mây len lén về trên vai nàng
Em đi giữa lối hoa vàng
Tháng hai giũ lụa trên tàn lá cao

Áo em đôi vạt xôn xao
Lượn bay trước cổng xuân chào mùa sang
Nhắn người phương ấy về ngang
Bên sân chùa lắng nghe hàng thông reo

Lời kinh chìm giữa quạnh hiu
Ru em từng tháng ngày đều đặn qua
Bướm ơi, xin nhớ hồn hoa
Hẹn mai chết dưới hiên chùa tịnh tâm

Khi môi thơm khép nghìn năm
Tàn hơi thở muộn khóc lần chia phôi
Bướm gom mộng chở về trời
Làm mưa rơi ấm trên đời người thương

Em đi chùa tóc mây buông
Lời kinh cầu gửi người ngàn năm xa
Em quỳ, nghiêng xuống hư vô
Khói hương che khuất đôi bờ thiên thu…

Phan Các Chiêu Hằng

Phan Bá Thụy Dương

Phan-B-Thy-Dng-001

Phan Bá Thụy Dương
Viết Về Thơ Thy An

Thy An: 40 năm làm thơ, yêu đời và yêu người.
Thy An tên thật là Nguyễn Thế Tài, sinh năm 1952.
Anh xuất thân trường Pháp tại Việt Nam, tốt nghiệp ngành khoa học tại Âu châu và cư ngụ tại Bỉ quốc. Thy An cho biết anh rất yêu thích thi ca và văn chương Việt Nam ngay từ khi còn bé.

Học sinh, sinh viên miền Nam VN, nhất là người theo học chương trình Pháp như Nguyễn Thế Tài hay chọn ngành chuyên biệt Pháp ngữ trên các phân khoa đại học, những người yêu thích thi ca phương Tây, thi ca hiện đại, không ai không biết hay từng say mê, đọc qua Stephane Mallarmé, Paul Verlaine, Arthur Rimbeau, đặc biệt là Guillaume Apollinaire [1880-1918] – ít nhất, qua Le Pont Mirabeau và Le Voyageur, hoặc Victor Hugo [1802-1885] với Les Misérables, Alphonse De La Martine [1790-1869] qua Méditations… mà thi phẩm Le Lac của vị đại thi hào này thì dường như ngay cả học sinh trung học chương trình Việt trước 1975 có thể nói ai cũng thuộc lòng.

Thy An theo học trường Pháp từ thuở thiếu thời, nên có điều kiện thuận lợi để đọc, tiếp xúc rộng rải với nền văn hóa, văn học Tây phương, do đó tôi nghĩ phần nào anh đã chịu ảnh hưởng của những thi sĩ trứ danh nêu trên, để từ đó anh yêu và làm thơ hơn 40 năm qua.

Và qua Tuyển Tập Thơ Thy An, nếu cần nhắc thêm ảnh hưởng về dòng thi ca trữ tình, lãng mạn VN thì người đọc còn nhận ra trong thơ Thy An phảng phất âm hưởng, tiết tấu, phong vận của Đinh Hùng, Hồ Dzếnh, Hàn Mạc Tử.

Hầu hết những người làm thơ không ai là không chịu ảnh hưởng ít nhiều của những thi sĩ thành danh đi trước. Ngôn ngữ thi ca, thi ảnh… mỹ miều không nhiều, nên tự thân việc chịu ảnh hưởng về một mặt nào đó vốn là chuyện đương nhiên, bình thường. Vấn đề là người chịu ảnh hưởng, thấm nhuần tư tưởng thi ca của các thế hệ đi trước có biết cấu trúc, hài hòa để tự sáng tạo cho thơ mình một ” chân dung ” mới, một con đường mới hay không. Theo tôi, Thy An đã thực hiện được điều hay đó một cách trọn vẹn, hoàn hảo.

Thơ Thy An được cấu trúc chặt chẽ, hài hòa và đầy nhạc tính, với những nhân dáng, hình ảnh sâu đậm, mà Robert Bly và nhóm thi hữu của ông như James Wright, Louis Simpson, William Stafford… đã tận dụng, khai thác và được họ mệnh danh là “deep images”. Lời thơ dù mang sắc thái lãng mạn, trữ tình, hoặc cảm xúc trước sông hồ, biển cả, núi non như được biểu tượng hóa, đều luôn phảng phất, tiềm tàng tinh thần nhất quán của một bản thể tính hoài niệm.

Thơ anh nhẹ nhàng và dài hơi, nhất là trong thể loại 8 chữ, thơ mới. Nguồn thi cảm của anh phong phú, dạt dào và được giao thoa, dàn trải một cách thiết tha, lắng đọng.

Thi ngữ Thy An xử dụng thường mới lạ, âm vận êm đềm, đồng thời chuẩn mực về thi pháp và quy luật, nên dễ lôi cuốn người đọc tiếp tục hành trình khám phá, thưởng ngoạn tuyển tập thơ của anh. Đây là một tác phẩm hay cần có trong tủ sách gia đình.

Tác phẩm đã xuất bản:
* Albert Einstein, nhà bác học đam mê và chân thật (biên khảo, xuất bản tại Bruxelles năm 2007, tái bản lần thứ nhất 2008)

* Tuyển Tập Thơ Thy An tác giả ấn hành tại Bruxelles, cuối 2008. Sách dày 220 trangvới nhiều phụ bản tranh màu của các họa sĩ trứ danh: ?, Monet, Vangogh, Jacobha, Nguyễn Trung, Hồ Thành Đức, Bé Ký… Địa chỉ giao dịch điện thư : thyan278@yahoo.fr

Dưới đây là một số bài được trích từ tuyển tập thi ca nói trên :

Lời Độc Thoại
đời một nửa nghiêng sâu vào tình sử – hồn lung linh theo tiếng hát lên trời
đỏ nước mắt gửi niềm đau ngọc nữ – rồi ngày qua, ngày qua vẫn thấy rã rời
chiều thắp sáng nguồn đau chờ sám hối – giấc chiêm bao như héo úa tàn canh
theo tiếng gió gửi lời ca buổi tối – thương ngày mai như thương khoảng ngày xanh

Có Phải Em Về
có phải em về đèn khuya héo úa – cho cả bầu trời ẩm đục sương đêm
tay đốt lửa soi đời ngày đối mặt – ôi khuôn mặt xưa mờ mịt bên thềm

có phải em về phấn hương tẻ nhạt – môi vẫn hồng tóc vẫn chấm ngang vai
những thương yêu ấp ủ ở bàn tay – hay ngày mai chỉ là cơn gió lạnh

ngày ra đi, đời ta buồn ủ chặt – nghe hương xưa thoang thoảng áo phong trần
trời có biếc, mắt có trong màu trinh nữ – ta vẫn mình ta khua nhịp đều chân

trên đỉnh trời sầu loài cây nhớ gió – một lần trót thương vạn kiếp u mê
ta đã xót xa ngày tháng lê thê – nghe gãy mục từng cảnh đời vàng ố

có phải em về thời gian vỡ đổ – để ngọn đèn khuya nức nở thâu đêm
ôi dung nhan của một thuở êm đềm – ta bỗng sợ cho ngày mai gió bão

có phải em về buồn lên sắc áo – ánh đèn vàng đâu soi rõ đời nhau
đời của em lẽ nào buồn da diết – để lời thơ ta mãi mãi sầu đau ?

Bài Thơ Du Tử
rồi mai anh về thơ thành hoa thành lá – có bao giờ hoa lá ngủ trên vai
có bao giờ em thương mến ngày mai
hay suốt đời thơ anh – chỉ là giọt sương buổi sáng ?

khi đã ngã nghiêng một vùng đời quên lãng – anh chợt về vầng trán nét suy tư
có thể nào thôi vàng lá mùa thu – để anh tiếc ngày đêm làm du tử

tình của anh là tiếng buồn cô lữ – dưới hiên nhà trên đồi núi sơn khê
nghe vang xa từng tiếng suối đê mê – nghe thương nhớ mảnh trăng thề chờ đợi

anh vẫn tiếc những tháng ngày diệu vợi – con đường nào hàng me lá bay bay
đã quên chưa em cơn hò hẹn tình dài – hay kỷ niệm chỉ là thời vang bóng ?

ngày ra đi anh vẫn biết đời biển động – nên đã cười mà đau đớn xót xa
cũng như ngày xưa anh đã chọn thi ca – làm giấc ngủ trong những đêm phiền muộn

và trời Liège khi sương chiều buông xuống – phủ lòng anh đêm rừng núi vây quanh
anh đã nhớ tới em qua làn khói mong manh – qua kẽ hở bàn tay mùa gió lạnh

có lẽ nào mùa thu đã đem về hiu quạnh – để lòng anh se sắt đớn đau
có lẽ nào bàn tay đã đánh mất tin yêu – để mãi mãi anh một đời rong ruổi

rồi mai anh về, thơ thành hoa thành lá – đậu bờ vai hay hàng giậu trước hiên
anh sẽ về tìm bắt cánh chim khuyên – hay nỗi nhớ muôn đời là nỗi nhớ ?

Em Về, Ta Về
* Tặng NKChi

em về rũ áo tà huy – sương mai hóa ngọc, xuân thì nở hoa
phù vân dòng suối tóc ngà – cuốn theo hư ảo nhạt nhòa chân mây

ta về, tâm thức : tỉnh, say – uyên nguyên hạt bụi lung lay phong trần
vai mềm, áo bạc che thân – nghe kinh huyễn ảo chín phần nổi trôi

em về hoa nở trên môi – tiếng thơ rơi rụng núi đồi vọng mê
lần nghe tiếng gió gọi về – trời xanh biển rộng sơn khê ngậm ngùi

ta về, nỗi nhớ : ngược, xuôi – giọt kinh phủi xuống buồn vui muộn màng
lên đồi bát nhã thênh thang – vẽ lên tấm áo hai hàng sen thơm

Bài Thơ
Làm Tại Giảng Đường
người về đó rêu bồng xanh mái tóc – đá hoang vu mòn nhẵn cạnh trùng khơi
trong mê lốc ta nghe đời hao đổ – thoáng hương xưa trên vai áo rối bời

nghiêng bóng nắng môi cười không thành nụ – ta trở về, tim ủ nẫu tình xưa
đem ước mơ về phủ gót chân thừa – xô dạt mãi gió mưa ghềnh thác lũ

người về đó chim muông thành cầm thú – cướp hồn ta đêm cào máu thành thơ
đã chín chưa ôi vời vợi mong chờ – hay mưa bụi vẫn bay bay thềm cũ ?

mùa thu đó đã về đây yên ngủ – áo người xanh rồi cũng phủ mờ sương
hồn của ta rồi cũng rụng bên đường – mai đi dạo dưới chân người vần vũ

người đã đến đã đi đời trôi nổi – vớt hồn ai trên dục vọng cuồng điên
lắng xuống đi đời ta vỡ trăm miền – chìm lỉm mãi bao quanh vùng biển tối

người có nhớ về đây nhìn tội lỗi – lỗi đời ta ngày mưa gió yêu người và bài LTLĐ dưới đây có thể nói đã thể hiện rõ rệt nhất bản chất tiêu dao, thanh thoát cùng những hoài niệm trầm mặc, thiền vị trong thơ Thy An NTT:

Lững Thững Lên Đồi
ôm nỗi nhớ ta về qua triền núi – rừng xa xưa cất tiếng gọi khôn nguôi
con suối trong xanh soi bóng bùi ngùi – bao kỷ niệm nghe buồn hơn yên lặng

đá vắng lạnh nên hồn ta cũng lạnh – tóc thiên thu vén lại mấy tầng mây
lững thững lên đồi hát với cỏ cây – mắt hoang dại tìm dung nhan bất tận

núi vẫn đó trông xuống đời lận đận – cuộc phong trần đá cũng phải hư hao
chuyện tình người như sông biển chờ nhau – chân bước mỏi nẻo sơn khê lỡ vận

mây gọi mưa ở cuối trời hiu quạnh – núi và rừng vẫn xanh mãi cùng ta
lững thững lên đồi hát bản tình ca – trong gió thoảng hương thơm ngàn hoa lạ

ôm nỗi nhớ ta về cùng cỏ lá – dặm đường xa đi dưới bóng tà huy
vạt nắng cuối non ôi thật nhu mì – nghe như tuổi thanh xuân thời mộng mị

lững thững lên đồi ta quên hệ lụy – núi cùng ta to nhỏ với hư không.

Tình Khúc Nếu Mai Em Về
1.
nếu mai em có về xóm biển
thả gió về trời cho mây bay
bên con suối ngọc mơ màng ngủ
cho tóc em nồng hương cỏ may
nước mắt mẹ –
có rơi dài đêm tối?
nỗi niềm cha –
còn u ẩn tháng năm?
em – em đó sầu dâng mấy độ
ngóng trăng suông và lạnh chỗ nằm
2.
nếu mai em có về quê cũ
đánh thức dùm tôi nhánh ô môi
đang rủ sắc buồn bên song cửa
với giàn bông giấy đắm sương mai
có băng qua bãi,
băng qua suối
theo tiếng thì thầm trong khói mưa
mặc gió hững hờ rung tà áo
đã quên sầu,
hết xót xa chưa
3.
nếu mai em có về xóm biển
hãy thắp dùm tôi mấy nén nhang
cho bạn bè trên đường bỏ xứ
lỡ trầm mình dưới đáy đại dương
thắp thêm nhiều nén trên bia mộ
cho thân bằng quyến thuộc anh em
đã ngã gục qua lằn tên mủi đạn
thủa chiến chinh chia cắt đôi miền
4.
nếu mai em có về quê cũ
đọc lại tình thư đã nhạt màu
mà dư lệ đã lem nhòa trang giấy
với muộn phiền chất ngất lao đao
đò qua xóm vắng ai xuôi ngược
có chở đầy trời thương nhớ không
mộng hồn nào vấn vương tóc rối
gót chân sen em có động chiều hồng?

Liên Khúc Vô Thường
* Tặng Trần Thiện Hiệp

1.
Đốt công án vất kinh thư khải ngộ
Theo đường trăng –
trăng khi tỏ khi lu
Tìm người hiền nơi thâm cốc âm u
Thỏng tay vào rừng giả làm ẩn sĩ
Giòng sinh mệnh
chừng nhuộm màu chướng khí
Bến nhân gian ai quán niệm vô thường
Hành trình xa ngựa đà lỏng dây cương
Trên vách núi chân dung in mờ tỏ

2.
Ném công án chôn kinh thư bất ngộ
Nương sông ngòi biển cả tới an nhiên
Nửa u hoài, nửa chợt nhớ, chợt quên
Bỗng tan tác cùng tiên thiên tự ngã
Tay huyễn hoặc đề lời thơ trên lá
Hồn xanh xao mờ mịt chốn tang bồng
Người đâu rồi,
người đâu rồi sao tịch mịch hư không
Hương dạ thảo đang chớm mùa khai nở

3.
Hủy công án buông kinh thư giác ngộ
Vào chợ đời áo mỏng phất phơ bay
Bụi khói mê man,
chênh chếch nắng gầy
Lời phố thị chập chờn như ảo giác
Ta là ai –
ta là ai sao tâm linh ngơ ngác
Người là ai –
người là ai mà sắc diện mơ hồ
Rượu độc ẩm hề chân lạc loài đưa
Mây biến dịch mưa chắt chiu giọt nhỏ.

Trên Nỗi Tình Người 4

1.
mấy ngàn dặm hai khung trời cách biệt
em một phương
và ta ở một phương
trăng tuyết ở đây sao cũng dị thường
như khơi động nỗi niềm người viễn xứ

lỡ mai mốt em về qua xóm cũ
ta lạc loài từ thuở dấy đao binh
đường xưa em đi cô lẻ một mình
ôm khắc khoải thẫn thờ trong dư ảnh

2.
mưa bên ấy –
chắc làm em thấm lạnh
gió Hạ buồn có làm tóc em bay
trời đất mang mang sông bể vơi đầy
ai đếm được con nước ròng, nước lớn

thôi nhé em –
góp chi từng sợi nắng
nuối tiếc gì bụi khói đã trôi xa
nhớ nhung nào năm tháng chẳng phôi pha
mà chợt khóc, chợt cười trong ảo mộng

3.
đốt lửa lên em –
đốt lửa lên em, hâm thêm rượu nóng
để mình say quên bão táp vô tình
sao mắt em buồn như giọt sương đêm
tìm đôi bàn tay –
tìm đôi bàn tay, cũng chưa thấy ấm

biết về đâu ta nửa đời phiêu lãng
giấu u tình trong cổ mộ hoang vu
có còn chăng bèo bọt với mây mù
và ủ ấp bóng người trong lặng lẽ

4.
sóng biển hỡi – xin vỗ về thật nhẹ
cát vàng ơi – thôi xóa dấu hài hoa
sỏi đá nào dòng nước đã trôi qua
sao heo hắt muộn phiền như rêu cỏ

gác chuông Bắc ta treo hồn trên đó
đợi em về hong tóc gọi đêm Thu
cho mưa nguồn giăng lá thắm sa mù
và em cất tiếng, ru ta ngàn kiếp.

Cho Lá Thắm

1.
kể từ độ quan san chung cách biệt
bởi tự thân mình đã lỡ căn phần
ngày qua ngày ta sám hối ăn năn
em hờn dỗi ôm tình chôn đáy mộ
trót gieo hạt nảy mầm trên đất khổ
đường nhân gian ta thất thểu độc hành
ta treo hồn trên suối tóc em xanh
bay – bay mãi trong cuồng mê lầm lạc

2.
sao khắc khỏai chẳng hao mòn tan tác
mà dật dờ như bọt sóng lênh đênh
thử hỏi lòng lau sậy có điêu linh
có mặc niệm lời bi ca ẩn dụ
em thả gió thả hương vào vũ trụ
ta miệt mài đuổi bóng dưới trăng khuya
rượu tàn canh –
rượu tàn canh mù mịt lối đi về
tay huyền hoặc đề thơ trên giấy máu

3.
em đến thực hay mơ trong mộng ảo
cho ta nâng niu
từng ngón tay mềm
nụ hôn nào vương vấn má môi em
mà chua xót, ngọt ngào đêm kỳ ngộ
dưới huyệt lạnh em còn thương còn nhớ
chiều Gò Công có hoang vắng nhạt mưa
Lá Thắm ơi –
Lá Thắm đã về chưa
để ta ấp ủ hình hài em thánh thiện

4.
rượu tàn canh –
rượu tàn canh ta ngẫn ngơ tìm kiếm
em –
em nơi nào – trời đất có bao dung
ta lạc hồn trong cõi nhớ mông lung
réo gọi mãi chỉ thấy tòan dư ảnh

5..
có phải bây giờ
thủy triều đang xuống
thuyền đã đưa em về chốn hư vô
nên ráng chiều mây biếc cũng bơ vơ
và hiu hắt muộn phiền trong cô lặng
dẫu gom góp từng giọt sương sợi nắng
cũng âm u như lời hát chiêu hồn
em ơi em –
ở bên này hay bên đó buồn hơn
ta thao thức dỗ từng cơn ngủ muộn.

Trên Nỗi Tình Người 7

1.
Kể từ độ quan san chung cách biệt
bởi tự thân mình đã lỡ căn phần
ngày qua ngày ta sám hối ăn năn
em hờn dỗi ôm tình chôn đáy mộ
Trót gieo hạt nảy mầm trên đất khổ
đường nhân gian ta thất thểu độc hành
ta treo hồn trên ngọn tóc em xanh
bay –
bay mãi, trong cuồng mê lầm lạc
Sao khắc khoải chẳng hao mòn tan tác
mà dật dờ như bọt sóng lênh đênh
thử hỏi lòng lau sậy có điêu linh
có mặc niệm lời bi ca ẩn dụ

2.
Em thả gió thả hương vào vũ trụ
ta miệt mài đuổi bóng dưới trăng khuya
rượu tàn canh –
rượu tàn canh mù mịt lối đi về
tay hư huyễn đề thơ trên giấy máu
Em đến thực hay mơ trong mộng ảo
cho ta nâng niu
từng ngón tay mềm
nụ hôn nào vương vấn má môi em
sao chua xót, ngọt ngào đêm kỳ ngộ
Dưới huyệt lạnh em còn thương còn nhớ
chiều Sơn Qui có hoang vắng nhạt mưa
Lá Thắm ơi –
Lá Thắm đã về chưa
để ta ấp ủ
hình hài em thánh thiện

3.
Rượu tàn canh –
rượu tàn canh ta ngẩn ngơ tìm kiếm
em –
em nơi nào –
em nơi nào, trời đất có bao dung
ta lạc hồn trong cõi tạm mông lung
réo gọi mãi chỉ thấy toàn dư ảnh
Có phải bây giờ
thủy triều đang xuống
thuyền đã đưa em về chốn hư vô
nên dáng chiều mây trắng cũng bơ vơ
cũng hiu hắt muộn phiền trong cô lạnh
Dẫu gom góp từng giọt sương sợi nắng
cũng âm u như lời hát chiêu hồn
em ơi em –
ở bên này hay bên đó buồn hơn
ta thao thức dỗ từng cơn ngủ muộn.

Bóng Thời Gian

biển lặng sóng nước xanh như mắt ngọc
liểu vờn bay như suối tóc người tình
cơn nắng hồng – giọt nắng mới lung linh
thuyền ai đó mái chèo khua bỡ ngỡ

ôm khổ hạnh én lần qua đất nhớ
gió về đâu
nghiêng ngã khóm phi lau
gió về đâu
mà bụi khói xôn xao
mây lờ lửng trên đỉnh trời vàng vọt

cành lá biếc
vừa đâm chồi nảy lộc
ai báo Xuân cho lau cỏ rộn ràng
nhịp trống nào xa
khoan nhặt mênh mang
nghe phảng phất bóng thời gian vời vợi.

Gõ Thức Đêm Đen
* cho Anh Thuần và Lá Thắm

1.
Lửa đã lịm trong lòng anh đó sao
Mà lời nguyện cầu nghẹn tắt
Tình đã dậy trong tim em đó sao
Mà tiếng ca ấm êm ngọt mật
Anh oằn vai vác gỗ qua sông
Chợt thấy bóng dã nhân
run run, ngơ ngác
Đôi chân lạnh hững hờ trên cát
Lưu dấu mù mờ ấn tích bi thương.

2.
Quanh quẩn đâu đây bên chổ anh nằm
Chỉ có tiếng thở dài âm u
của người tù già biệt xứ
Quanh quẩn đâu đây, trong tâm thức anh
Chỉ có đôi mắt em rưng rưng giọt lệ
Và tiếng hét hận thù
của bầy ngạ quỷ nồng nặc mùi tử khí tanh hôi
Không còn gì không còn gì nữa em ơi.

3.
Quanh quẩn đâu đây
bên chổ anh nằm
Đêm tối đen, vắng nhịp chuông gõ thức
Anh thèm một nụ hôn trên môi, trên tóc
Thèm một giọt nước cam lồ, cứu rỗi
Và đôi bàn tay dịu mềm
vỗ về trong cơn khát, đói
Không có gì – không có gì, ngoài âm hưởng xích xiềng rơi
Lặng câm – tịch mịch – rã rời.

4.
Anh oằn vai vác đá băng rừng
Con đường mòn khổ dịch
gập ghềnh – xa xăm – vô định
Quanh quẩn đâu đây trong tiềm thức anh
Tiếng hú đồng vọng, tiếng gió qua truông
Sao rờn rợn, hung hăng
Như ánh mắt ma tinh của loài cú vọ
Hình hài anh cùng trái tim anh
Rịn chảy – âm ỉ những giòng máu đỏ
Mặt trời đã lặn, đã ngủ mê trong cõi chết
Không còn gì – không còn gì nữa đâu em
Ai – ai sẽ khua trống, chuông đồng
gõ thức đêm đen ?

Liên Khúc Vô Thường
* Tặng Trần Thiện Hiệp

1.
Đốt công án vất kinh thư khải ngộ
Theo đường trăng –
trăng khi tỏ khi lu
Tìm người hiền nơi thâm cốc âm u
Thỏng tay vào rừng giả làm ẩn sĩ
Giòng sinh mệnh
chừng nhuộm màu chướng khí
Bến nhân gian ai quán niệm vô thường
Hành trình xa ngựa đà lỏng dây cương
Trên vách núi chân dung in mờ tỏ

2.
Ném công án chôn kinh thư bất ngộ
Nương sông ngòi biển cả tới an nhiên
Nửa u hoài, nửa chợt nhớ, chợt quên
Bỗng tan tác cùng tiên thiên tự ngã
Tay huyễn hoặc đề lời thơ trên lá
Hồn xanh xao mờ mịt chốn tang bồng
Người đâu rồi,
người đâu rồi sao tịch mịch hư không
Hương dạ thảo đang chớm mùa khai nở

3.
Hủy công án buông kinh thư giác ngộ
Vào chợ đời áo mỏng phất phơ bay
Bụi khói mê man,
chênh chếch nắng gầy
Lời phố thị chập chờn như ảo giác
Ta là ai –
ta là ai sao tâm linh ngơ ngác
Người là ai –
người là ai mà sắc diện mơ hồ
Rượu độc ẩm hề chân lạc loài đưa
Mây biến dịch mưa chắt chiu giọt nhỏ.

Đêm Trên Bãi Cà Ná

dường như lá ngủ trong mê
lũ chim muông đã tìm về núi xa
trên cao bên dãy thiên hà
có vì sao rụng bóng tà long lanh
nổi chìm trong nước biển xanh
nhấp nhô sóng bạc xô gành đá non
còn chi ẩn mật u tàng
bãi đêm quanh quẩn
rượu càng nhạt môi
sinh sinh hóa hóa dòng đời
cũng hư huyễn với kiếp người phù du
lều ai heo hắt đèn lu
lẫn trong hơi gió cát mù mù bay

Bên Dòng Sông Lạnh

Thử hỏi dòng sông Seine –
theo thủy triều xuôi ngược
Mỏi mệt chưa qua năm tháng thăng trầm
Du thuyền nọ ai đưa và ai đón
Có hao gầy với mưa nắng mong manh

Cửa khải hoàn có chia niềm kiêu hảnh
Ngọn Eiffel còn thao thức dung tình
Ðền nguyện cổ có trao lời kinh sáng
Rửa hoà chưa bao tội lổi nhân sinh

Này dòng thủy triều miệt mài trôi chảy
Ðã u hoài mấy độ dưới trăng khuya
Ðèn heo hắt –
sao ánh đèn heo hắt quá
Có đủ ấm lòng tận đáy sâu kia

Thử hỏi con nước sông Seine –
đong đưa khi ròng khi lớn
Mỏi mệt chưa sao còn vẫn luân lưu
Hãy soi chiếu mặt người như gương thánh
Rồi bềnh bồng trong quên lãng, vô ưu

Có cánh chim vừa đáp trên cành trúc
Và mây đang quấn quít rũ nhau về
Thôi, xin vảy tay chào –
xin vảy tay chào dòng sông êm ả
Một lần quen một lần nhớ thiên thu

Như Vì Sao Lạc
* Bài thủ vĩ ngâm cho Hồ Thành Đức

1.
như một vì sao lạc giữa sơn khê
nhìn trần thế âm u màu chướng khí
người rũ áo – xoa hành tinh, ứa lệ
gọi hồn thiêng sông núi đến tự tình
đem hạt nhân hòa, nhân ái kết tinh
âm thầm cấy dưới đồng ngô, ruộng lúa

2.
rải thương yêu, ngọt ngào trên đất khổ
tô màu xanh cho biển rộng xanh thêm
điểm son hồng trên môi má nhung êm
pha hương sắc cho đời thôi u uất

3.
người quỳ đó: cô đơn và trầm mặc
viết tâm kinh mà tâm thức hắt hiu
tay khẳng khiu hứng từng đợt nắng chiều
phủ trên mộ, trên rừng hoang cô quạnh
có phải người hóa thân làm ánh sáng?
soi rọi tự thân, soi chiếu đêm mê
như một vì sao lạc giữa sơn khê

Nếu Mai Em Về
1.

nếu mai em có về xóm biển
thả gió về trời cho mây bay
bên con suối ngọc mơ màng ngủ
cho tóc em nồng hương cỏ may
nước mắt mẹ –
có rơi dài đêm tối ?
nỗi niềm cha –
còn u ẩn tháng năm ?
em – em đó sầu dâng mấy độ
ngóng trăng suông và lạnh chỗ nằm

2.
nếu mai em có về quê cũ
đánh thức dùm tôi nhánh ô môi
đang rủ sắc buồn bên song cửa
với giàn bông giấy đắm sương mai
có băng qua bãi,
băng qua suối
theo tiếng thì thầm trong khói mưa
mặc gió hững hờ rung tà áo
đã quên sầu,
hết xót xa chưa

3.
nếu mai em có về xóm biển
hãy thắp dùm tôi mấy nén nhang
cho bạn bè trên đường bỏ xứ
lỡ trầm mình dưới đáy đại dương
thắp thêm nhiều nén trên bia mộ
cho thân bằng quyến thuộc anh em
đã ngã gục qua lằn tên mủi đạn
thủa chiến chinh chia cắt đôi miền

4.
nếu mai em có về quê cũ
đọc lại tình thư đã nhạt màu
mà dư lệ đã lem nhòa trang giấy
với muộn phiền chất ngất lao đao
đò qua xóm vắng ai xuôi ngược
có chở đầy trời thương nhớ không
mộng hồn nào vấn vương tóc rối
gót chân sen em có động chiều hồng?

Đêm Bên Dòng Sông Lạnh
* Bài Cho Anh Đinh Từ Thức

thử hỏi dòng sông Seine –
theo thủy triều xuôi ngược
mỏi mệt chưa
qua năm tháng thăng trầm
du thuyền nọ ai đưa và ai đón
có hao gầy với mưa nắng mong manh

cửa Khải Hoàn
có chia niềm kiêu hãnh
ngọn Eiffel
còn thao thức dung tình
đền Nguyện Cổ
có trao lời kinh sáng
rửa hoà chưa bao tội lổi nhân sinh

này dòng thủy triều miệt mài trôi chảy
đã u hoài mấy độ dưới trăng khuya
đèn heo hắt –
sao ánh đèn heo hắt quá
có đủ ấm lòng tận đáy sâu kia ?

thử hỏi con nước sông Seine –
đong đưa khi ròng khi lớn
mỏi mệt chưa sao còn vẫn luân lưu
hãy soi chiếu mặt người như gương thánh
rồi bềnh bồng trong quên lãng, vô ưu

có cánh chim vừa đáp trên cành liễu
và mây đen quấn quít rũ nhau về
thôi, xin vẩy tay chào –
xin vẩy tay chào dòng sông êm ả
biệt kinh kỳ ta tìm chốn sơn khê.

Thôi Ta Về Ôm Góc Núi

1.
Áo nhuộm phong trần chưa rũ sạch
Tóc đã pha màu nắng quan san
Thôi thôi ta về ôm góc núi
Đẽo gỗ trầm hương tạc tượng nàng

Gõ phách mà ca bài độc đạo
Hứng tinh hoa nhật nguyệt càn khôn
Mang ẩn tích về treo cổng gió
Chợt phân vân ngẫm chuyện sinh tồn

2.
Mềm môi cạn rượu đêm trừ tịch
Lại nhớ người xưa, hương tóc xưa
Đường thăm thẳm bước chân lơ đãng
Thoảng nghe lạc điệu pháo giao thừa

Thôi thôi ta về bên dốc đá
Dựng am đường hội chứng vô âm
Rủ chim chóc ngao du rừng trúc
Đốt cảo thơm chuyển hóa huyễn thần

3.
Dư ảnh chập chờn như bụi khói
Ảo chân rời rạc giữa lưng trời
Thôi thôi ta về ôm góc núi
Đục gỗ trầm hương tạc tượng người

Gõ nhịp mà ngâm bài tuyệt tận
Gọi hồn Lá Thắm suốt đêm thâu
Gió sương phơ phất đời cô lặng
Nhòa nhạt chưa phiến thạch mộ sầu?

Trên Nỗi Tình Người 5

cơn gió thổi mộng hồn bay lả bóng
trời hoang vu mấy độ phủ hồn em
ôi mắt ngọc của ngày xưa hiển hiện
ta ngẩn ngơ thao thức những canh huyền

sao thương nhớ những nụ sầu giông bão
sao u tình dằn vặt suốt đêm thiêng
ta mệt mỏi ghi vào trang giấy máu
nụ hôn đầu trong ký ức trinh nguyên

Niệm Khúc Tôi

ta về tóc phủ sương đông
áo tà huy quyện bụi hồng phấn tơ

hốt nhiên tỉnh giấc mộng hờ
mắt từ dung đã lững lờ tử sinh

rán chiều rực lửa vô minh
nhịp chuông chiêu niệm
lời kinh cầu vàng

ta về cõi trú thênh thang
bỏ dương thế
với địa đàng hoang vu.

Cũng Còn Kỷ Vật

em dâng trái cấm đầu mùa
với trăm mộng ước ban sơ ngọc ngà

anh ngồi góp ánh trăng sa
cho em đan áo tình tha thiết tình

dẫu mai đời có phiêu linh
cũng còn kỷ vật để mình nhớ nhau.

Phan Bá Thụy Dương

Phạm Tương Như

Phạm Tương Như-002

Khánh Ngân Trang Đài

Khánh ngân còn đó thanh âm
Trang đài diễm diễm trăm năm thương hoài
Ai về ôm mộng trên tay
Gió đưa tóc thả áo bay lượn mùa

Chừng như trời sắp đổ mưa
Xin đừng ướt áo người chưa hẹn hò
Cây vừa rụng chiếc lá khô
Sợ trang thơ dệt ươm mơ thấm buồn

Ướt tình ánh mắt sầu vương
Ai còn hát phiên khúc buồn vì ai?
Vết chiều kết sợi nắng phai
Ngập ngừng chân bước chia hai hướng đời

Vẵng đâu đây tiếng nói cười
Còn mơ bóng ảo, hương môi ngọt ngào
Đường đời ai biết mai sau
Nghe dòng cảm xúc len vào cô miên!

28/06/2015

Em Và Tôi

Em bơ vơ trong trái tim tôi gầy
Những hạt máu thành nước mắt khóc thương
Điều trăn trở trong lòng tôi tối sẫm
Em và Tôi mê đắm giữa mù sương

Em khóc chưa cạn hồ nước mắt tôi
Ngọn sóng trăm sông tràn về biển lớn
Thuyền đời trôi theo cánh buồm tả tơi
Màu nước biển xanh vô tình non mởn!

Em hiển lộng nơi lẽ sống tình tôi
Những nghịch cảnh ùa qua cơn chảy xiết
Trận hồng thủy cuốn trôi tôi vô bờ
Không tự mãn trên hai vai khánh kiệt

Mùa đông tím bầm trút lá đơn côi
Nỗi đau chung thân cuộn mình tối sáng
Niềm hy vọng lờ mờ vắt ngang trời
Tôi gọi tên em, vườn thơ im lặng

Yêu em ! Dâng hiến trái tim tôi hồng
Nơi tâm hồn em kỳ hoa dã thảo
Ong bướm sơ khai ân ái mặn nồng
Đôi mảnh đời hoang tìm nhau ẩn náu

02/07/2015

Mai

Cớ gì nắng đậu cành mai
Gió đưa Xuân đến, thoảng dài hương xa
Hay là Xuân của người ta
Mai vàng nở rộ là đà gió xưa

Mai đầy cành, lá lưa thưa
Tình tôi như lá mới vừa nõn Xuân
Bướm hoa vàng nắng bâng khuâng
Còn tôi hiu hắt ngại ngần nỗi riêng

Lối mai, ngỏ trúc hoa viên
Người qua áo lụa dệt viền chỉ xanh
Én du Xuân, gió lượn cành
Nhớ người, ngắm lá lanh chanh phiến buồn

Ngày xưa gió núi sương rừng
Tháng giêng mai nở rưng rưng Xuân về
Bây giờ vẽ chữ đam mê
Nhìn mai tôi ước lời thề ai trao!?

Phạm Tương Như
27/06/2015
Nếu Như…
* Trong nỗi nhớ một người…

Nếu như anh chẳng làm thơ
Thì ai đưa đón giấc mơ em về
Hồn anh đâu biết tái tê
Gieo vần kết chữ điên mê tháng ngày

Nếu như chim chẳng hát hay
Chân vui điệu múa, dáng bay cánh mềm
Tiếng em gửi gió chiều êm
Nhạc thơ huyễn hoặc, trăng đêm khuyết tròn

Nếu như đời chẳng cô đơn
Môi chưa ngủ trọ vết son em chờ
Hoa hờn con bướm ngẩn ngơ
Tim lòng gỏ nhịp bơ vơ tội tình

Nếu như giấc ngủ riêng mình
Không còn rưng rức bóng hình người thương
Sương khuya đâu rụng xuống vườn
Để giun dế gọi miên trường nhớ nhau

Nếu như tình cảm chưa trao
Trăng đâu chìm bóng, sóng gào biển sông
Nắng vàng chia nửa hoàng hôn
Anh còn chuốc nửa mảnh hồn hoang sơ

Nếu như mình chẳng hẹn hò
Trăm năm hình, bóng giả đò có đôi
Chắc tim anh vẫn bồi hồi
Đêm nhìn dáng nguyệt nhớ người trong thơ

Nếu như lở gãy ước mơ
Thơ anh chết, chẳng bao giờ tái sinh
Em ơi hỏi lại lòng mình
Dù sao đi nữa…cũng tình thiết tha…..
(Dù sao đi nữa…. trọn tình nhé em…..)

Tôi Buồn

Tôi buồn chắc tại trời mưa
Mưa làm tôi nhớ người chưa dặn dò
Mưa dầm lòng bổng lo lo
Sợ em ướt áo, sơ dù không giương
Em qua trũng nước ven đường
Sợ trăm lá cỏ, chân vương lấm bùn

Sợ em nhớ anh, em buồn
Giọt mưa chen giữa nỗi lòng đôi ta
Tự tình như thể sân ga
Thiếu em bến vắng….người qua lâu rồi?

Mù Sương

Nỗi lòng giăng sáng mù sương
Dòng đời như những con đường quanh co
Qua sông để lở chuyến đò
Qua cầu gãy nhịp, cam go tình trường
Tìm yêu, đi lạc lối rừng
Qua đêm thức trắng buồn thương dáng hình
Thì em nói chuyện chung tình
Sao tôi ngờ ngợ nỗi mình nỗi em
Sương mù phủ mấy đường tim
Nhớ nhung quay quắt… biết tìm em đâu?

Ru

Em ru lời lá rơi
nhẹ như bước chân trần
sao lòng tôi rách nát
từng phiến buồn ăn năn

Tiếng em lời gió ru
trong bóng đêm giao mùa
trên hàng cây lá ngủ
nhánh khua lời võng đưa

Áo em còn thả bay
Môi ướp đầy men say
Cho hồn anh lộng gió
Ôm mộng tràn đôi tay

Tóc em còn giăng tơ
Mắt biếc xanh đôi bờ
Nối vòng cung nhật nguyệt
Trăng tình đưa võng thơ

Mưa

Lòng buồn cuốn lá cô đơn
Mưa rơi ướt dột từng cơn nhớ người
Đêm nằm cắn kén mồ côi
Con tằm gậm nhầm hồn tôi nát nhầu

Mưa mù xây một thành sầu
Nhốt tôi vào với nỗi đau miên trường
Dáng em ngàn đóa yêu thương
Mưa đâu xóa được vô thường tình ta!

Lời Ru

Em ru nhẹ tiếng lá rơi
Sao tôi nghe nặng tơi bời bước chân
Ru tôi nắng gió bâng khuâng
Vết đau kỷ niệm bao lần xót xa
Gió đưa áo thả lụa là
Điệu chim muông hát lời ca yêu đời
Ráng chiều ru ửng chân trời
Em ru hay khóc một người viễn mơ?

Tôi ru em khúc nhạc thơ
Nụ cười, ánh mắt ai ngờ để quên
Tôi ru tôi giấc buồn tênh
Em, tôi còn đó mông mênh nỗi lòng
Vườn em nõn lá màu thương
Tôi vào mới biết mù sương tan rồi!

Áo Tặng Màu Mây

Người đem tặng áo màu mây trắng
Chen những hàng mây đang chuyển mưa
Từ đó hồn tôi bay lãng đãng
Nhớ hoài môi, mắt, dáng người xưa

Áo mây tôi mặc thơm mùi tóc
Còn vết son môi, hơi thở ai
Hôm qua giặt áo, nghe mưa khóc
Giọt lệ từ tim cũng chảy dài

Con sâu kết kén, treo cành lá
Tôi cuộn hồn tôi trong áo mây
Thời gian nhung nhớ chưa thành đá
Nên vẫn đau suốt cuộc tình gầy

Sáng nay đem áo phơi ngoài nắng
Mây trắng đùn quanh, mây trắng bay
Bên kia bóng mát ai làm dáng
Gió thổi bụi mù nghe mắt cay!

Áo mây thêu dệt vầng thơ muộn
Còn ũ hương yêu, giấc mộng đầy
Ai giết hồn tôi khao khát muốn
Áo cởi một lần đem thả bay

Tôi ngắm mù sương trên mộ chí
Ngỡ áo mây về ôm xác tôi
Em ru thơ hát bao tình ý
Thiếp mắt tôi chờ môi ướt môi!

Về
Tôi về bơi sóng phù sa
Theo con nước đục bến nhà nơi đâu?

Tìm
Nương cơn sóng nhớ
Vượt vạn đường mây
Bến đợi phương này
Nhìn ra bóng ảo

Chiêm Bao
Người về ngang giấc chiêm bao
Giật mình tưởng tiếc chưa trao thơ tình

I- Phone
Mở I- phone để ngắm hình
Yêu người hay chỉ oằn mình nhớ nhung

Tin Nhắn
Nhắn tin, em nói nhớ thương
Nghe tim âm ấm, miên trường trở trăn

Tiếng Chim
Tiếng con sáo sậu
Chào khách mới về
Hương khói hồn quê
Nửa đời cách biệt
Tiếng chim bìm bịp
Gọi thủy triều lên
Nhắc khách đừng quên
Đò chiều tiễn biệt

Ví Von
Tình yêu như thể trăng sao
Khuyết, tròn, mờ, tỏ…lắm màu đổi thay

Nỗi Lòng
Hồn tôi biển rộng, sông dài
Muôn trùng sóng vỗ, chảy hoài niềm riêng

Karaoke
Karaoke, em hát nhạc tình
Hay là ngầm nhắn với mình đều chi?

Vời Trông
Mây trôi không bờ bến
Nước chảy chẳng ngược dòng
Lòng tôi triền dốc mênh mông
Ngược xuôi, xuôi ngược vời trông bóng người

Ngắm Nhìn
Ngắm mây, nhớ tóc áo người
Nhìn hoa, ngờ ngợ nụ cười em trao

Lá Xanh
Lá xanh nõn biếc trời xuân
Hồn tôi chan chứa gió đàn ru cây

Nụ Hôn
Nụ hôn còn đọng hồn tôi
Nụ cười, ánh mắt ngõ lời nhớ thương

Khách Lữ
Trên đỉnh phù sa
Nghe ta xấp, ngửa
Tình quê chan chứa
Khói bếp lửa chờ
Sao mình bơ vơ
Một đời khách lữ!

Hồn Quê
Trời xanh, hàng chuối lá xanh
Vườn cây nhản, trái oằn cành
Áo trắng học trò qua ngỏ
Nghe lòng chín đỏ tình quê

Lời Đêm
Nhớ ai giun dế thở than
Tưởng chừng nghiên bút dệt ngàn lời thơ

Dỗ Giấc
Trắng đêm dỗ giấc ngủ mòn
Sáng nhìn nắng gió vẫn còn dáng ai?

Nhớ
Nhớ người lạc hướng mây bay
Gió say lối gió, trăng say men tình

Nhả Thơ
Còn nguyên trong cõi lặng thinh
Hồn tôi cắn kén, trầm mình nhả thơ

Đối Ẩm
Nhớ lần đối ẩm cùng em
Chung ly, mắt hẹn, dậy men, say tình
Đường về trăng rớt lung linh
Gió qua thấp thoáng bóng hình giai nhân

Thiếu Nữ
Áo ai cuối phố
Thả gió ru tà
Huyễn hoặc hồn ta
Một thời thiếu nữ

Lá Xuân
Ai người tiếc lá xuân xanh
Ta như mưa gió oằn cành nhớ thương
Hoa Xuân phấn nhụy tỏa hương
Ta như cánh bướm lượn vườn tình duyên

Niềm Riêng
Ngắm chim cắn cọng cỏ mềm
Bổng nhiên nhớ bước chân em thuở nào.

Nghiêng
Nghiêng vai dốc cạn u hoài
Chông chênh một nửa đêm dài riêng mang
Nụ cười thay tiếng khóc khan
Tặng ta một dấu chấm than ru đời!
Trần thị dã quỳ

Họa
Hồn nghiêng mấy nỗi cảm hoài
Trăng tàn, sương lạnh tình dài cưu mang
Ta, người ai sẽ gọi khan
Đất trời còn đó, thở than chi đời!
Bến Xưa
Dòng sông tiễn khách thăm quê cũ
Gió lộng, chiều phai nhớ điệu hò
Chỉ nghe sóng vỗ mạn đò
Ưu tư khách lữ còn chờ bến xưa!?

Nếm
Ta vừa chung ly rượu cay
Môi em mới nếm mà say ngất đời

Mưa
Mưa dầm lá, cỏ tả tơi
Hồn ta ướt dột, buồn rơi xuống buồn!

Ánh Mắt
Hồn tôi chìm ánh mắt em
Ngất ngư chỉ một con tim bồi hồi

Môi Phượng
Anh hôn đôi môi phượng
Son chín đỏ đầu cành
Lòng như lá biếc xanh
Ve ru lời anh hát

Nắng Lụa
Áo bay sân nắng lụa vàng
Ngỡ bao thoảng gió ru ngàn nhánh thơ

Ngắm Sông
Lục bình man mác trên sông
Có chở hồn tôi xuôi dòng?
Ngọn bần, xuồng câu thấp thoáng
Dáng chiều trầm mặt nước trong

Bến Đời
Chim chìa vôi hát líu lo
Tự dưng nhớ quá giọng hò
Bến sông đâu còn bóng Mẹ
Bến đời một cõi bơ vơ!

Khói Chiều
Lá dừa nhúm lửa khói cay
Hồn tôi theo gió thả bay lên chiều

Khóc M
Mùa hè năm trước trở về đây
Thấp thoáng quanh sân dáng Mẹ gầy
Tháng hạ mùa này con chỉ khóc
Bàn thờ, mộ chí khói nhang bay!

Về Quê
Ta về hát khúc đồng dao
Theo chân thôn nữ dạt dào tình quê
Vườn ai nhạt ánh trăng thề
Ruộng đồng, hoa trái, xuồng ghe chở đầy

Hiên Ngoài
Lặng nghe từng giọt mưa rơi
Đêm sâu nỗi nhớ rụng rời ngoài hiên
Xót xa chút mảnh tình nghiêng
Lệch vai oằn gánh oan khiên đau đời
Trần thi dã quỳ

Họa
Trăng tàn, gió lặng, sương rơi
Còn riêng bóng lạnh chưa rời hàng hiên
Một mình níu ngọn tình nghiêng
Oằn vai thương nhớ, oan khiên tím đời

Bạn Lính
Bạn mới hẹn đã vui
Rượu chưa khui tưởng xỉn
Còn đâu đây trận chiến
Những thằng đi ngậm ngùi!

Trả Em
Trả em!. Dốc hết tình này
Đau thương, hạnh phúc tràn đầy lòng ta
Cảm ơn giọt nước mắt ngà
Câu thơ ngẩu hứng hóa ra đoạn trường!

Niềm Đau Chiến Tranh
Cưới nhau không trăng mật
Nồng hơi ấm tân hôn
Hương yêu tỏa ngập hồn
Hôm sau anh ra trận
Đường bay còn vương vấn
Bổng đau vết đạn thù
Đời cách biệt thiên thu
Tình chôn nhau miên viễn!
(theo chuyện kể và nước mắt K. Anh)

Khói Bếp
Khói mù mái lá nhà ai
Đưa tôi vế lại tháng ngày ấu thơ

Hồi Âm

Cứ tưởng nhà thơ dân Huế rặt
Dại học miền cao Đà lạt tề!
Lính lát một thời xưa xa lắt
Mắc gì kể chuyện Vĩnh Long tôi

Xe đò Nhan Nhựt chuyên đưa khách
Có đứa tòng quân chẳng trở về
Mỹ Thuận Sài gòn đâu ngăn cách
Vậy mà phố thị khác chân quê!

Con trai Nhan Nhựt xưa là bạn
Giờ “rớt mùng tơi” chuốc phận nghèo
Tháng tư kẻ cướp về gây nạn
Cửa nhà, xe cộ khổ lây theo

Chủ xe Nhan Nhựt khi còn sống
Giúp bất kỳ ai, chẳng hại người
Khi chết thiếu “vườn không nhà trống”
Không đất chôn thân “đéo mẹ đời!”*

Có những thằng khùng quen mỏ vẹt
Hô hào trống rỗng, trí như heo
Nhan Nhựt anh hùng theo chủ chết
Tiền Giang, Mỹ Thuận hết đò chèo

Nhan Nhựt bềnh bồng thơ thi sĩ
Mỗi lần về lại Vĩnh Long Xưa
Con đường dẫu chẳng đường thiên lý
Sao nhớ gì đâu những đón đưa!

Cám ơn Thầy Giáo còn “Vấn Lệ”
Tình lính năm nào vẫn ngược xuôi?
Vĩnh Long muôn thuở thành tri kỷ
“Giọt lệ đài trang”** đủ chết người!

* “Một nhát gươm đưa đéo mẹ đời!” thơ Cao Bá Quát
** Nhạc Châu Kỳ

Điệu Ru Dế Mèn
* Thơ gửi người hát rong

Cô dế mèn của anh ơi!
Mãi mê hát khúc tình sầu
Nỉ non đêm thâu gọi nhớ
Trách đời lở cuộc biển dâu

Thơ anh nhắn lời dế giun
Ước mơ giây phút trùng phùng
Thâu đêm chuốc màu trăng lụa
Nghe chừng khóc cuộc tình chung

Dế mèn gọi tên bốn mùa
Hồn đêm chan chứa gió lùa
Cô đơn rót tràn bóng tối
Rượu đời đắng chén cay chua!

Và anh gọi tên dế mèn
Vầng trăng vằng vặc soi đêm
Sương khuya ướt mềm lá cỏ
Lấy gì khâu vá con tim?

Cánh khua câu hát điệu tình
Nhún mình vươn cánh lung linh
Dế mèn bay qua giông tố
Gọi khan khoảnh khắc lặng thinh.

Gió Và Lá

Gió ru lá ngủ trên cành Đong đưa sương lạnh, ngậm vành trăng khuya
Trời mới chớm sang Xuân. Những phiến lá xanh nõn nà da thiếu nữ, đang say sưa hớp từng ngụm trăng non. Đêm rất dài, gió rất nhẹ, lá lắt lay thì thầm lời tình tự ướt đẫm hơi sương. Ta thắp trên môi em ngọn tình nóng bỏng, màu hồng đậm những đài hoa mới trổ hương Xuân, phấn hoa thoảng đâu đây mùi thơm nhụy mới. Lớp áo mỏng thêu dệt lưới tình, để hở khoảng trống nơi đôi vai huệ trắng. Hai cỗ chân buông gót gió lả lơi, phơi trần sức sống, mười ngón chân son trang điểm rung trên dấu hài. Chừng như em cố tình đánh thức, cơn mộng mị trong ta khát thèm nhục thể. Hãy nói đi em, lời nồng nàn thức ngủ biếc màu phiến lá xanh, thoi thóp thở vào đêm khuya. Những sợi gió cựa mình cột chùm bao nỗi nhớ. Hằng hà phiến lá du dương đang trườn
mình hứng cơn gió lạ, chờ hạt lệ sương rưng rưng khóc gọi tên người.
Ta nhen nhúm nơi má em hơi ấm hương nồng, của buổi chiều chưa tắt nắng. Nụ hôn vội vã như hơi gió chợt đến chợt đi, sao rã rượi lòng ta. Lời từ giả nghịch lý với ánh mắt nhìn nhau thật nồng nàn tình tự, ngầm trao nhau lời ước hẹn. Thời gian quá ngắn ngủi, không đủ cho ta vẽ một chân dung tình yêu, cũng không đủ cho lời thơ hóa thành nhạc khúc, rung trên phím đàn, và em buông cảm xúc theo từng câu hát, thả lơi đôi tay, vạt áo đong đưa dáng liễu, đu mình nghiêng theo triền gió.
Những áng mây bay phiêu lãng trên nền xanh giả tạo của không gian, chưa kịp xếp cánh đã phải chuyển mình tan theo hướng gió. Gió! Gió! Gió! Tình còn đó hay đã bay theo cơn gió loạn, vì nghịch cảnh, mùa chợt thay mùa, lá cũng đổi màu xiêm y. Ta còn đây giấc mơ phía bên kia bờ định mệnh. Thứ định mệnh gió hắt hiu ru ngủ lá ngàn. Bờ gió chắn những chia xa từ trùng trùng duyên khởi. Hơi thở em ũ thơm làm say ngất môi ta. Những cơn gió mê hoặc đang thì thầm, hòa cùng âm vọng của hơi thở, lời rên siết thiết tha, điên mê của lá làm tim ta loạn nhịp. Ta tan biến vào em bằng trận bão giông. Ta cố gọi tên em như chưa từng tuyệt vọng. Ta cắn vào da thịt em những vết cắn của loài sâu màu da lá xanh, đã gậm mòn viền nâu phiến lá. Lá sẽ chín vàng, lá
sẽ theo gió bay xa, bỏ lại vết xước thân thương những tháng ngày, cành là của lá, cuống lá đong đưa, phiến lá ngửa mặt uống trăng, từng đêm treo giấc ngủ trên cành.
Em cố rót nhẹ vào tai ta tiếng yêu và lời nhớ. Ta khẽ đánh thức nơi má em hồng một nụ tình mật ngọt, ngọt như màu son môi em cười làm tươi vui khu vườn tình ái. Con bướm nào nươn theo nắng gió tìm hoa! Con ong nào miệt mài hút nhụy! Có phải đó là tình yêu! Làm sao ta quên được em! ”… ta ôm bóng đêm, đêm làm mặt lạ, đêm cháy lửa đen…” và ta thức ngủ, lắng nghe đêm đen cuộn tròn chăn gối, mùi tóc hôm nào còn ũ ngát hương đêm. Gió vẫn khảy đàn, những điệp khúc phổ lời thơ của lá. Lá vẫn lao xao say ngất, chao nghiêng theo từng nhịp điệu vi vu gió ngàn giao hưởng.
Gió thì thầm với lá, lá oằn mình lao xao, đêm nồng nàn tình tự, nụ hôn đầu trao nhau!

Chờ

Lụy người huyễn mộng mơ ta
Môi ngon, mắt ướt, mượt mà tóc tơ
Ngỡ ngàng lối gió đường thơ
Bên kia hư ảo, vượt bờ tình duyên

Lụy người hồn bướm mơ tiên
Vết chân sỏi cát chạm miền nhớ thương
Ánh nhìn thắp ngọn sầu vương
Má môi cháy bỏng đêm trường nhớ quên

Lụy người sóng nước lênh đênh
Nghe ta hấp hối, thở trên phiêu bồng
Ngọn tình chảy một đời sông
Đôi bờ sóng vỗ, giấc nồng chiêm bao

Mềm lòng nhặt nhạnh hư hao
Chật ngăn tìm thức, thơ trào lệ khô
Trăm năm nghìn mối tơ vò
Đêm nghe sương rụng, mong chờ dáng ai?

Trộm Thương

Em gửi anh lời thăm hỏi nồng nàn
trong buổi sáng trời Houston rất lạnh
hồn bỗng ấm và con tim ranh mãnh
thơ dễ thương, cây cảnh biết yêu đời

Có phải tình là mộng, văn là người
mộng đã tình nên lòng người cũng khác
người đang yêu thấy đời thêm hoan lạc
nhạc thơ ru từng khúc hát giao tình

Em dấu yêu trong hơi thở riêng mình
thổi nụ hôn màu môi hồng nắng ấm
Anh hớp gió ngỡ thơm bờ môi thắm
nghe xôn xao du dạo khắp châu thân

Trăm hướng mộng hồn khép mở tình nhân
anh nhặt ưu tư, gieo mùa trăn trở
yêu mới chớm, đời nửa đời đã lỡ
trăng động tình cũng ngờ ngợ khuyết tròn

Ai đếm nhịp tim từ tấm lòng son
nghe vất vả cuồng si bờ tối sáng
đem quá khứ cất vào ngăn quên lãng
đời có bao lâu sao nỡ hững hờ!!!

Đời Tình Thất Lạc

Hồn tôi là thác đổ
Rơi trên sỏi đá mòn
Yêu người chưa biết mỏi
Chảy một đời cô đơn

Hồn tôi là lau lách
Gió về ngọn nghiêng chao
Đôi bờ sông ngăn cách
Còn nguyên tiếng lao xao

Hồn tôi là cỏ dại
Đợi bước chân ai về
Nắng mưa làm tê tái
Lối cỏ mòn điên mê

Hồn tôi là ngọn gió
Theo mãi một đời mây
Mây bay hoài viễn xứ
Gió buồn ru cỏ cây

Hồn tôi là con nước
Trăm năm chảy qua cầu
Làm sao tôi biết trước
(bến mơ tình xuôi ngược)
Giòng đời tựa biển dâu

Hồn tôi lời chim hót
Gọi khan mấy giọng tình
Em còn nghe lảnh lót
Tiếng núi rừng van xin

Hồn tôi là thác đổ
Chảy qua thung lũng buồn
Phải em là suối nhỏ
Tìm về muôn nhánh sông
Có nghe lời thác gọi
Trùng phùng nơi biển Đông

Nửa đời tình thất lạc
Em để mất hồn tôi
Còn trái tim tan nát
Giữ giùm tôi em ơi!

Ngọn Tình
Trên Sóng Phù Sa

Dòng sông đưa nước đục phù sa
Vượt sóng đò xuôi trở lại nhà
Lữ khách ngậm ngùi theo lối gió
Ngõ hồn rách nát chuyến mưa qua

Tiền Giang chia mấy nhánh sông xưa
Bạt gió chim bay vỗ cánh lùa
Đuổi bóng thời gian, đưa quá khứ
Về đây tìm lại gió mây mùa

Nhấp nhô muôn sóng vỗ mạn đò
Đã mấy mươi năm vắng tiếng hò
Tóc, áo, mái chèo bao thiếu nữ
Ngây tình trong ánh mắt ngu ngơ

Hôn mê ta hỏi cánh lục bình
Có nhớ chàng trai vẫn lụy tình
Cô bé học trò môi mắt ướt
Nửa hồn say khướt cánh hoa xinh

Ngập ngừng vớt bóng nửa đời ta
Đã gãy hình xưa nhuộm nắng tà
Gió rối bồng bồng trêu tóc bạc
Ai còn cánh bướm lượn hương hoa?

Ngọn tình trên sóng nước phù sa
Vực nhớ chao nghiêng tuổi ngọc ngà
Vết xước đã bàu sâu ký ức
Sao còn trôi mãi bóng mây qua?

Mưa Ngâu

Mưa ngâu chưa thấm áo người
Chỉ nghe sướt mướt một thời nắng phai

Mưa

Mưa làm ướt dột hồn tôi
Tim côi lạnh lẽo bồi hồi nhớ ai?
Giọt mưa khẽ gọi u hoài
Còn nghe tiếng nấc vọng ngoài gió khuya

Thơ Tinh

Thơ tình theo gió bụi mờ
Áo lam gói trọn hai bờ yêu thương
Bên bồi mây tím vấn vương
Còn trên bến lở tiếng chuông ngân chiều

Dã Quỳ

Tình yêu như cõi sương mờ
Bên ni bên nớ chạm bờ nhớ thương
Bóng chim xa khuất còn vương
Mặt hồ tăm cá …gợn chuông xuống chiều
Ptn.

Tình Trao

Anh trao em chút tình gầy
Gió làm bay bổng bám đầy hồn em

Cỏ Đêm

Cỏ ngu ngậm hạt sương ngơ
Trăng soi huyễn hoặc tình chờ giấc khuya
Gió về ru cỏ đong đưa
Võng ai hát khúc nguyệt vừa đu mây

Mà Sao…

Trên trời chỉ một vầng trăng
Mà bao la sáng, xóa màng đêm đen
Tình anh yêu mỗi mình em
Mà sao giông bão nhận chìm đáy sâu
Mắt anh chứa mấy giọt sầu
Mà sao trời đất nhuộm màu thê lương

Thời Gian 2

Thời gian rồi cũng bỏ ta
Bên kia kỷ niệm đã già thuở xưa
Tình yêu đâu phải nắng mưa
Mà quên với nhớ đong đưa tháng ngày

Vị Cà Phê

Cà phê hương vị mượn hồn
Nỗi vui đen, đắng, nỗi buồn khói bay
Nhớ em một thuở tình đầy
Bây chừ gặp lại vai gầy, héo hon

Khăn Tay

Thuở nào em tặng khăn tay
Thêu bông lan trắng, có hai nhánh đời
Tưởng chừng nửa kiếp rong chơi
Khăn hoa nhuộm tím màu trời nhớ thương

Thời Gian

thời gian qua mái tóc
còn để lại màu mây
con chim nào đứng hót
chân in đuôi mắt này
ngày mai ai sẽ khóc,
cát bụi gió mù bay !

Nỗi Lòng

Nỗi buồn
tròn trịa lăn bi
Nỗi đau lở loét
tình si nát lòng

Tình rơi
vỡ vụn tim chùng
còn đâu nước mắt
khóc thương phận mình

Nhớ Người Tưởng Bóng
* Họa thơ Kim Oanh

Chân mây hồng ửng chiều nhuộm sắc
Ta nhớ người quay quắc cơn mê
Gió ru cây, đưa bóng ai về
Môi, tóc, áo …hẹn thề năm cũ

Bóng chợt khuất mây mù che phủ
Nước sông buồn, bóng nhạt màu pha
Dáng em trôi theo nắng huy tà
Hoa, lá, bóng là đà giởn bóng

Kỷ Vãng

Dư hương lạ gió vù bay
Hồn tôi vàng nắng ôm vai áo người
Nhớ thương rồi cũng đến hồi
Tim côi rung nhịp tình trôi tím mùa

Người qua thả vạt áo lùa
Phấn son, hương tóc rối đùa nắng phai
Vườn thơm con bướm vờn bay
Hoa ngàn khoe sắc tình dài vấn vương

Chừ anh ngọn cỏ mơ sương
Gối đêm ủ tóc sầu thương ngất lòng
Bên này đếm nỗi nhớ mong
Em ơi ! Kỷ vãng còn trong tim này

Tình Chờ

Có cuộc đời buồn trên dòng sông định mệnh
Thời gian bào mòn, không trôi hết thương đau
Có cuộc tình chờ, căng hờ tơ nhện
Bắt được gì trong khoảnh khắc bên nhau?

Mà Sao…

Trên trời chỉ một vầng trăng
Mà bao la sáng, xóa màng đêm đen
Tình anh yêu mỗi mình em
Mà sao giông bão nhận chìm đáy sâu
Mắt anh chứa mấy giọt sầu
Mà sao trời đất nhuộm màu thê lương

Nàng Thơ L.A.

Em là nàng thơ, đa tình quá đổi
vẫn làm anh mơ, café chiều tối .
Ngồi sau xe em, thơm mùi tóc rối
eo nhỏ vai mềm, ai thương mà vội.
Em ơi em ơi ! Sao làm anh nhớ
mắt nói thành lời, mai tình vẫn đợi!!!!

Khúc Hát Riêng Tư

Miền gió núi chim rừng bay mỏi cánh
Sóng trùng dương ru mãi khúc ngàn năm
Bóng thời gian chở những ước mơ nhòa
Vườn kỷ niệm hôm nao em xin giữ

Liên Anh

Họa

Chim nhớ cội, tình chở mòn đôi cánh
Sóng lòng anh ru thủy khúc trăm năm
Thời gian trôi nhật nguyệt chẳng phai nhòa
Bao kỷ niệm, mộng đời anh luyến giữ

Ptn.

Cổ Chiên

Cổ Chiên yêu dấu của tôi ơi
Sông nước sóng xô, gió ngõ lời
Em chứa bao trăng mà dịu mát
Hay là em chiếm nửa hồn tôi

Nước Sông Hiền

Em hiền như nước sông con gái
chảy lửng lờ qua trái tim tôi
Trong ánh mắt mạch đời ngây dại
có lòng tôi vỗ sóng bồi hồi

Nữ Sinh

Áo trắng nguyên khôi hồn cô gái
Nón lá làm nên dáng học trò
Nắng gió sân trường ngây gót dại
Bao mùa phượng đỏ mấy yêu mơ?

Nước Mắt Khóc Mưa

Một người đứng khóc dưới mưa
Người kia tê dại mắt vừa hẹn nhau
Hai người chung một niềm đau
Chân đi hai lối nghiêng chao đôi lòng

Một người nối lại nụ hôn
Một người để lở những vòng tay ôm
Đại ngàn hai hướng chờ mong
Chung con nước chảy, dòng sông đôi bờ

Hồi nào chung lối ngu ngơ
Bây giờ bước thấp, bước bơ vơ buồn
Trời làm nước mắt mưa tuôn
Em làm sướt mướt đường không lối về

Ngắm dòng tóc ướt hương mê
Cuộc tình khóc ướt càng thê thiết nhìn
Người còn hoa mộng, dáng xinh
Tim côi run nhịp chông chênh bước đời

Mùi hương tình tự gọi mời
Mưa trôi bong bóng… Tôi ơi, khóc thầm !!!

Nắng Khua
Tình Đọng Vơi Đầy

Nắng vàng trong ánh mắt tin yêu
Môi lương duyên cười nụ diễm kiều
Em chín mộng tơ nhung áo đỏ
Hồn anh bồng ngọn gió hắt hiu

Lời thơ ru ngọt lịm môi tình
Dáng ai, nắng vờn bóng trở mình
Con chim hót, lồng son ngơ ngác
Giấc mơ hồng, tiếng hát bình minh

Em giăng bắt ánh mờ Thu nguyệt
Nỗi lòng anh trăng khuyết, trăng đầy
Chuyện đời sông, trôi nổi như mây
Hồn lãng tử kiếp này rong ruổi

Môi bám tóc rối mùi trần trụi
Phớt nụ hôn áo mỏng, thì thầm
Hát không lời điệu lý tình câm
Hồn trong mắt xa xăm gởi nhớ

Con bướm trắng vờn qua cổng gió
Nhụy hoa bay chở nặng ân tình
Chùm hoa nắng ngan ngát hương trinh
Vườn mật đắng lung linh hư ảo

Lụy Tình Trần*

Bàn tay ấm mơn man miền rung cảm
Mùa cỏ thơm ươn ướt đọng sương đêm
Đôi cánh gió chập chờn hương ướp mật
Đồi đồi son hoa sữa ngọt môi mềm

Đôi môi ấm khát từng hơi thở ấm
Vị giác trườn sung mãn nếm lạ quen
Đêm bấu víu, hụt hơi vùng tối sẫm
Dấu yêu ơi , ngồn ngộn chốn không đèn

Thiên đường ấy loài người vươn sức sống
Giấc đam mê năng động cánh tay trần
Đêm cởi bỏ, chỉ còn hương tục lụy
Quên mùa xa, say ngất cuộc tình gần

Bàn tay rối rối nhầu hương tóc rối
Đêm động tình, đêm nguyệt thực mê ly
Đời dông bão thêm một lần bão nổi
Vườn trăng êm xô lệch giấc ly kỳ

Gió hay sóng thét gào cơn sóng gió
Thơ là thơ hay mộng thực du dương
Ta ngỡ chết ngát bờ sương lá cỏ
Và tình ơi có phải cõi thiên đường

* Nhân đọc
“Vùng Thanh Thoát” của Luân Hoán

Quán Nhớ Hồn Em

Hồn em là quán nhớ
Biễn hiệu mang tên anh
Ghế bàn xô lệch chỗ
Cửa sổ quên buông mành

Hồn em là quán nhớ
Đèn hồng gió chông chênh
Cà phê đen lệ nhỏ
Giọt đắng rót riêng mình

Hồn em là quán nhớ
Hương đêm ngất cơn mê
Trà xanh vừa ấm lửa
Khách đi mãi chưa về

Hồn em là quán nhớ
Vọng buồn tiếng nhạc khan
Gió giạt, mưa than thở
Cuộc vui để lỡ làng

Hồn em là quán nhớ
Đá lạnh tê môi ghiền
Ly, bình pha duyên nợ
Kem dâu hóa sầu riêng?

Hồn em là quán nhớ
Men say cay bốn mùa
Má hồng bày giữa chợ
Mơ về quán lá xưa !

Nước Mắt Tím Thương

Anh lặng nhìn em khóc
Lệ tràn ngọc lưu ly
U buồn nhầu mái tóc
Giọt trào ướt hàng mi

Em gửi chi nước mắt
Thơ anh rối trăm chiều
Vai rung từng tiếng nấc
Tay chùng níu quạnh hiu

Khăn hoa này em tặng
Chưa vơi những ưu phiền
Hãy lau khô sầu lắng
Nỗi niềm sẵn tư riêng

Đêm mù sương chắn lối
Trăng khuya rụng xuống cầu
Sông chảy dòng hối lỗi
Thương đau khởi từ đầu

Hoa nở, tình lại khép
Hương xưa héo tim người
Tay nào vươn tóc áo
Đêm giấu biệt nụ cười

Trăng tang chế mùa thương
Cây lá khóc con đường
Và anh ướt mắt
tình trường thả bay

Chuyện Đời Mây

“Đập cổ kính mong tìm thấy bóng”
Ta về đây nhớ lại tháng ngày
Vẫn còn đó trời xanh, mây mộng
Của thuở nào xé gió vù bay

Saigon Tower vang trong đạn pháo
Lần Herky cất cánh sau cùng
Tháng tư ấy nát nhầu xiêm áo
Bốn mươi năm trầm uất bão giông

Đài kiểm soát y nguyên dáng cũ
Nhìn quẩn quanh định vị Phi- đoàn
Chỉ cách thềm xi- măng bãi đậu
Mà xa xăm như thể ngút ngàn

Tiếng gào thét, không gian rách nát
Mây đùn mây tím ngất tim người
Em và tôi, hai phương gió giạt
Mưa cũng rồi! Nắng xế chia phôi

Bóng đã khác, hình trôi bước mỏi
Sá gì đâu vết xước đau dài
Chí cả đáp lời Sông Núi gọi
Ai ngờ trôi mãi một đời mây

Dáng Cỏ Sương Trăng

Sáng nay lá hát trên rừng
Reo vui sinh nhật Cỏ
mừng ví von
Nắng vàng khoác áo nõn son
Giọt sương nhân ngãi đọng
còn luyến lưu

Suối mơ chảy miết sa mù
Mềm vai róc rách ca
ru tóc bồng
Thiên nhiên đậu giữa triền sông
Đôi bờ hoa dại trổ
hồng môi em

Vành trăng treo lửng khung đêm
Mây khoe lụa mỏng cởi
mềm áo bay
Bình nguyên dáng Cỏ mê say
Ôm em tơ nõn vòng
tay bốn mùa

Lá say châu thổ ngày mưa
Áo may lục diệp em
vừa măng tơ
Cỏ yêu rắc hạt sương mơ
Hồn anh bóng bẩy vầng
thơ ngát đồng

Vết trăng nguyên thảo đơm bông
Chân em cát bụi bước
hồng gót xưa
Tình sương duyên cỏ đong đưa
Anh qua lối mộng trăng
vừa ngủ say

Café Môi Thơm

Café.com chiều nghe chim hót
Tháng ba nắng trải lụa phơi giòn
Hương áo em mùi café nhỏ giọt
Giọng miền Nam ngọt lịm môi hồng

Tóc em dài chảy dòng suối mát
Anh giăng mơ bắt được lòng mình
Dáng em hiền nai vàng ngơ ngác
Tình cải lương hay nợ nhân duyên

Lời tâm tình mùi câu vọng cổ
Ru ngủ cung gợi chuyện tình ta
Hoa Hoàng hậu thả từng sâu chuỗi
Treo hồn anh từ buổi xa nhà

Môi má ửng, mùa em chín bói
Mắt reo vui trao gửi nụ cười
Tha thiết quá như từng đón đợi
Bên bờ sông em Vĩnh Long ơi!

Chiều nhan sắc ướp hương con gái
Nhiễu hồn anh, gợn sóng lòng ai?
Ừ! Mai mốt hay là mãi mãi
Café môi thơm kết nụ tình dài

Anh Đi

Ngày anh đi trời guăng mưa
Không em đời như dư thừa
Lòng anh rơi bao giọt nhớ
Tìm em trong hàng mưa đưa

Lên xe sao nghe vương sầu
Hồn say hay con tim đau
Nhìn quanh toàn người xa lạ
Dây thương tơ chùng hai đầu?

Dòng xe tranh nhau qua cầu
Dòng tình ta trôi về đâu?
Thôi đành ru câu thương nhớ
Ru tình đôi bờ sông sâu

Sài gòn miên trường sau lưng
Lang thang sân ga phi trường
Nơi đây xưa từng cất cánh
Sao giờ muôn trùng buồn thương

Phi cơ lưng trời hoang vu
Không gian chia xa hai đầu
Rưng rưng đôi hàng nước mắt
Chông chênh qua mùa tình sầu

Bên kia mưa nhiều không em
Chăn khuya còn nồng hương đêm?
Phương này buồn tình thức trắng
Lòng anh mưa giông triền miên

Đêm khuya mưa em thầm thì
Bờ môi, vòng tay mê si
Em ơi, đừng về ướt áo
Cơn mơ tình thơ phân kỳ

Rượu Xuân

Uống trên môi
rượu Xuân tình
Ngắm em mắt biếc
ngỡ mình mộng du
Nửa vời say
nửa sa mù
Hoa yêu mãi nở
thiên thu tình về

Rót đầy môi
những hẹn thề
Niềm vui trước mặt
điên mê ngất đời
Van em
nhan sắc tuyệt vời
Rượu xuân say, tĩnh
chơi vơi bốn mùa

Phạm Tương Như

1 16 17 18 19 20 34