Du Tử Lê
Những Trang Văn Viết Từ…
“Thiên Đường Thơ Ấu” Du Tử Lê
Trong cõi-giới văn xuôi của văn chương Việt Nam, ngay tự những năm đầu thập niên 1940, độc giả đã ghi nhận được một số tác phẩm viết về tuổi thơ xuất sắc, sớm trở thành “kinh điển”. Như “Những ngày thơ Ấu” của Nguyên Hồng, XB 1940 (1); “Thằng Cu So” (trong bộ truyện 3 cuốn) của Nguyễn Đức Quỳnh, XB năm 1941 (2); rồi “Tuổi thơ dữ dội” của Phùng Quán, XB năm 1986 (3); “Miền thơ ấu” của Vũ Thư Hiên, XB năm 1988, vân vân…
Nếu không kể những tác phẩm lấy tuổi thơ làm chủ đề, nhằm mục tiêu phục vụ lập trường chính trị, thì chỉ có tác phẩm của Nguyên Hồng và Vũ Thư Hiên, không những nằm ngoài chủ đích vừa kể, mà nó còn thực sự mang tính hồi ức trong sáng và, đầy chất thơ…
Gần đây, tôi tình cờ thấy được đặc tính hồi ức trong sáng và, tràn đầy chất thơ trong tập sách mỏng, nhan đề “Còn xanh không thiên đường thơ ấu?” của Ngô Thị Thục Trang.
Cả ba tác phẩm này, không hề là sản phẩm của tưởng tượng, hư cấu mà, chúng bước ra từ chuyện thực, đời thực của mỗi tác giả. Nhưng, nếu tác phẩm của Nguyên Hồng và Vũ Thư Hiên được ghi lại ở dạng truyện dài thì, hồi ký tuổi thơ của Ngô Thị Thục Trang là những đoản văn ngắn, ghi lại những sự kiện, kỷ niệm nơi sinh trưởng của Thục Trang.
Phải chăng, nhờ chọn dạng đoản văn, nên “Còn xanh không thiên đường thơ ấu?” được tác giả “nâng niu”, “chăm bón” phần hình ảnh và, thi tính hơn thể dạng truyện dài?.!
NgoThiThucTrang
Nhà văn Ngô Thị Thục Trang
Cũng như “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng và, “Miền thơ ấu” của Vũ Thư Hiên, tính thi ca ở “Còn xanh không thiên đường thơ ấu?” của Ngô Thị Thục Trang, đã hiển lộ ngay tự những đoạn văn đầu tiên của tác phẩm:
“Có ai không, còn nhớ về chiếc bùng binh đất nung của những ngày con nít, lại đây cùng tôi ngồi nghe dòng xưa thơ ấu chảy về. Nhanh lên nào, kìa tôi đã nghe âm thanh sột soạt của những tờ bạc lẻ va vào thành chiếc hũ kín miệng con con” (Trích “Giấc mơ màu đất nung- CXKTĐTẤ, trang 5)
Cũng ngay tự những dòng chảy chữ, nghĩa thứ nhất, họ Ngô đã sớm cho thấy tính hồn nhiên, rất nữ tính (mà, cũng dư thừa chất con giai, trong những trò chơi thời thơ ấu của mình).
Hai đặc tính vừa kể, giống như hai dòng chảy song song, suốt lộ trình suối, ghềnh ký ức ấu thơ của tác giả.
Mở bất cứ trang sách nào, đọc bất cứ một đoạn văn nào, độc giả cũng sẽ dễ dàng gặp được những hình ảnh, những cảm nhận rất trẻ thơ của Thục Trang, với ngôn ngữ cũng trẻ thơ, tương-thích với ngữ-cảnh:
“Nhiều khi, cuộc sống ngột ngạt, tôi ngồi ước một con đường chan nắng, cỏ trải dọc hai bên cho tôi thung thăng đội cặp trên đầu, theo tiếng cơm sôi về nhà…” (Trích “Con đường tuổi dại” – CXKTĐTẤ, trang 9) )
Hoặc:
“… Ôi, con ngõ của tôi, con ngõ tôi vấp té biết bao lần, khi cầm chiếc dép đứt, mấy cục sắt vụn chạy theo chiếc xe bán cà rem dạo kêu leng keng. Con ngõ tôi chạy ra đón mẹ chợ về trưa để dòm vào giỏ xem có kẹo mè kẹo ú gói trong mớ lá chuối khô hay bịch chè ‘có đá’ mát lạnh. Con ngõ tôi đang ngồi chơi ô ăn quan thì đứa hàng xóm bảo: ‘Anh Hai mi về kìa!’ Tôi ngước lên, thấy anh Hai tôi đạp xe tới nhà cô Chín rồi, tôi vùng chạy ra chặn lấy đầu xe anh hỏi đủ thứ chuyện, không quên nhắc tới mấy cuốn Đoreamon. Con ngõ tôi từng ngốc nghếch bỏ cát lên đầu để đưa tay lên sờ cho…đã, con ngõ tôi chạy đuổi theo những cơn mưa mùa hè , thả bẹ chuối làm thuyền, con ngõ tôi chơi trò kéo mo cau mòn vẹt tuổi khờ…” (Trích “Con ngõ dài thương nhớ” – CXKTĐTẤ, trang18 & 19)
Hoặc nữa:
“… Cây lê ấy, bị sâu ăn hay bị chết vì rễ đâm phải lớp đá khi nào, tôi không còn nhớ nữa. Đã quá lâu rồi, mà vườn nhà tôi cây nào trước sau gì rồi cũng chết vì một trong hai lý do trên, hoặc cả hai. Nhưng cứ mỗi khi thấy nắng đã rang giòn phố xá, mắt nở hoa khi chạy xe giữa đường thì tôi lại hay mơ thấy tôi của ngày nít nhỏ, luẩn quẩn bên gốc lê với cuốn sách nào đó vừa bắc ghế lấy từ kệ sách chật ních của ba…” (Trích “Có một cây lê nở đầy hoa trắng” – CXKTĐTẤ, trang 27)
(Là người đọc, tôi thích lắm hình ảnh mới mẻ, bất ngờ: “nắng đã rang giòn phố xá, mắt nở hoa…
”
Hoặc nữa, nữa:
“Tôi biết yêu xóm nhỏ của mình tự bao giờ ấy nhỉ? Từ những buổi trưa trốn ngủ trèo trâm ở vườn bác Năm hay những đêm chong đèn đi soi ve ve quanh những bụi chuối, những thân mít xù xì rồi nhìn không rõ tay chụp nhằm phải rắn lục? Từ những chiều mưa lay phay nhìn qua cửa sổ cây sầu đông trơ lá, nhớ những mùa chơi gánh trái sầu đông đi bán ‘trứng gà’ để cảm nhận bước thời gian, hay những mùa mưa phải vục chân vào lớp bùn dày đoạn đường trước cửa nhà cô Chín đến trường? Từ những đêm trăng chơi đủ trò ồn ã sân nhà cô Tám Hạ hay đêm mùa hè nằm trên chiếc giường tre nhà bác Năm vừa chơi trò chó sủa trên vách vừa nghe kể chuyện ma để tới giờ mẹ gọi về, đã bấm đến bầm tím ngón tay áp út khi ù té chạy mà vẫn sợ ma đuổi theo sau? Hay từ những chiều tắm giông la hét vỡ cả giọng, rồi cắt bẹ chuối thành những chiếc thuyền nhỏ thả trôi theo dòng nước? Hay từ tất cả những điều ấy, những điều bình thường nhất, vụn vặt nhất, chẳng đâu vào đâu nhất, để chỉ khi xa rồi mới thấy mình đã đánh mất một thiên đường…” (Trích “Xóm nhỏ của tôi” – CXKTĐTÂ, trang 31, 32)
Còn rất nhiều đoạn văn trong sáng và, rất thơ trong CXKTĐTÂ của Ngô Thị Thục Trang. Nhưng tôi muốn “để dành” cho bạn đọc và cho chính tôi. Để mỗi khi cảm thấy “mình đã đánh mất một thiên đường”, chúng ta sẽ lần giở tiếp, từng trang CXKTĐTÂ, hầu thấy lại thiên đường thơ ấu của mình!!!
Thiên đường đó, dù ở tuổi nào, cũng vẫn “còn (mãi) xanh”, từ những trang văn xuôi thơm lừng hương ấu thơ của Ngô Thị Thục Trang!.! (4)
Du Tử Lê,
Nhan Sắc Mới
Cho Thơ Trúc Thanh Tâm
Nơi chốn hay địa danh, tự thân sẽ không có một giá trị vật chất hay tinh thần nào, nếu không có sự can dự, tiếp xúc của con người. Ngược lại thì, nơi chốn, địa danh mặc nhiên có được cho nó một sự sống, một linh hồn. Nó có thể trở thành một thứ “bảo tàng thiên nhiên” – – Nơi lưu giữ tình cảm, kỷ niệm cho con người dù, những con người đến với nó đã đi xa, không trở lại hoặc, không còn hiện hữu nữa.
Vì thế, trong lịch sử thi ca thời xa xưa của chúng ta, có rất nhiều thắng cảnh, nơi chốn được đề cập tới, dưới dạng ngâm vịnh hay đề thơ…giá trị.
Nhưng, khi bộ môn nhiếp ảnh phát triển ngày một thêm sung mãn thì, mảng ngâm vịnh hay đề thơ cho một nơi chốn, với thời gian, đã đi dần tới chỗ “tuyệt chủng”.
Tôi nghĩ sự kiện này, cũng dễ hiểu! Vì, một bài thơ của một tài thơ lớn đến đâu, viết về một nơi chốn, cũng không thể sinh động bằng những bức ảnh nghệ thuật ghi lại từng góc độ, từng chi tiết một danh lam, thắng cảnh hay một nơi chốn ẩn hiện, chảy, trôi qua bốn mùa. Một tài thơ lớn đến đâu cũng không thể ghi được các game màu huyễn hoặc biến đổi từ bình minh tới hoàng hôn, đêm tối của một vòng quay trái đất…
Gần đây, tôi nhận được hàng loạt những bài thơ nói về địa danh, nơi chốn dọc theo cảnh thổ quê hương, đất nước vốn trong máu, trong ký ức hay trong tâm tưởng của chúng ta. Người mang lại cho tôi, loạt thơ nồng nàn, đằm thắm hay se thắt những địa danh đất nước đó là Trúc Thanh Tâm.
Khi viết những dòng chữ này, tôi không biết một chút gì về nhân thân Trúc Thanh Tâm. Tôi không biết tên thật của ông là gì? Làm thơ từ bao giờ? Đã có tác phẩm nào xuất bản? Chỉ biết ông hiện cư ngụ tại Châu Đốc (căn cứ theo ghi chú cuối bài thơ). Chỉ nhớ cuối năm 2014, khi được đọc những bài thơ đầu tiên, Trúc Thanh Tâm gửi tới thì, đó là những bài thơ cũng viết về quê hương, một cách chung chung, mờ nhạt, không cá tính, như:
“Những nhánh sông chở phù sa tăm tắp
Lúa đồng xa, hoa trái nhởn nhơ cười
Em, thôn nữ vẫn làm duyên e ấp
Anh, trai làng mơ mộng tuổi đôi mươi!
“Trưa nắng nóng, uống nước dừa ngọt lịm
Cơm trắng đậm đà sau buổi vần công
Cá lóc nướng trui chấm cùng muối ớt
Kèm rau đắng đồng vị ngọt lâng lâng!
“Điệu nhạc quê hương gió hòa sóng lúa
Tiếng hót của chim thanh thoát lòng người
Ai gọi ai giữa chiều quê êm ả
Hay tiếng đời rớt khẽ với riêng tôi!”
(Trích Trúc Thanh Tâm “Gió trời nam” – Nguồn dutule.com)
Nhưng, với hàng loạt thơ mới sau này, Trúc Thanh Tâm, cho thấy đã ra khỏi ghi nhận, mô tả chung chung, mờ nhạt kể trên. Ông mở được một chân trời khác cho thơ mình. Những nơi chốn đậm nét trong ký ức ông, với những địa danh riêng của từng nơi chốn ông đã sống với(?) đã đi qua (?). Thí dụ:
1. LONG AN
Chén tình một thuở cong môi
Ta vời vợi phố, em chơi vơi hồn
Thủ Thừa, Cầu Ván mưa suông
Tầm Vu còn đọng nỗi buồn quắt quay!
2. TIỀN GIANG
Tạ từ buổi sáng Gò Công
Em xa Chợ Gạo, lấy chồng Mỹ Tho
Trung Lương mắt đợi, môi chờ
Cái Bè, Cai Lậy biết giờ gặp nhau!
3. BẾN TRE
Lăn tăn con sóng Hàm Luông
Mõ Cày nói hộ Giồng Trôm nỗi lòng
Lục bình tím giữa mênh mông
Mưa chiều, đêm xuống thức cùng Bến Tre!
4. TRÀ VINH
Biển chiều ghẹo gió mùa sang
Tân Thành rượu nghĩa, Cầu Ngang cạn tình
Một lần tạ lỗi Trà Vinh
Cá kèo, hương bún vô tình nhớ nhau!
5. VĨNH LONG
Nhánh bần gie phía Trà Ôn
Long Hồ ta nhớ Trường An, rượu mời
Qua cầu Mỹ Thuận, nắng chơi
Xa dòng Măng Thít đầy vơi nỗi niềm!
6. ĐỒNG THÁP
Lũ về điên điển vàng bông
Tình ta với bậu cầm bằng ngược xuôi
Làng hoa Sa Đéc tuyệt vời
Đêm nằm Cao Lãnh, nhớ người Nha Mân!
7. CẦN THƠ
Em về nón lá che nghiêng
Áo bà ba vẫn thơm hương miệt vườn
Cái Răng, Bình Thủy, Phong Điền
Cầu Cần Thơ, mạch máu miền cực Nam!
8. HẬU GIANG
Vị Thanh mưa tới Kinh Cùng
Thương Long Mỹ, nội về vùng đất sâu
Em từ xa chợ Nàng Mau
Tháng ngày Ngã Bảy nặng sầu nghiêng vai!
9. SÓC TRĂNG
Mây sà xuống nóc Chùa Dơi
Theo đèn gió thả cuộc đời quá giang
Chiều nghiêng Lịch Hội Thượng, buồn
Sóc Trăng, sao cứ bồn chồn trong ta!
10. BẠC LIÊU
Lưu truyền công tử Bạc Liêu
Hòa Bình nắng sớm, mưa chiều Vĩnh Châu
Nghe bài dạ cổ đã lâu
Nhớ về quê mẹ, buồn đau điếng lòng!
11. CÀ MAU
Bồi hồi chuyện bác Ba Phi
Cây tràm, cây đước nói gì với nhau
Gởi tình Đất Mũi, Cà Mau
Mai về thăm lại qua cầu cố nhân!
12. KIÊN GIANG
Đêm hòn Phụ Tử trăng mơ
Chiêu Anh Các, những vần thơ thăng trầm
Người con gái Vĩnh Thanh Vân
Tặng ta nỗi nhớ bâng khuâng một thời!
13. AN GIANG
Núi Sam, mùa phượng hẹn hò
Qua vàm Ông Hổ, nhớ đò Ô Môi
Thất Sơn huyền thoại đất trời
Ta về Châu Đốc thắp đời lửa hương!
(Trích Trúc Thanh Tâm “Nhật ký đồng bằng”)
Trong những bài thơ thường chỉ có 4 câu lục bát, với những từ ngữ bình thường, đơn giản, không cầu kỳ; nhưng nhờ thế mà hồn tính Việt Nam qua các địa danh gấm vóc của tổ quốc, được khi, khắc đậm nét. Khiến những ai chưa từng sống / ở tại các nơi chốn đó, cũng thấy gần gũi, cũng thấy như mình đã hòa nhập được phần nào với hồn tính từng địa danh.
Lại nữa, ngay ở bài thơ thứ nhất bài “Long An”, chỉ với 28 chữ thôi, Trúc Thanh Tâm đã đề cập tới 3 địa danh riêng của Long An là: “Thủ Thừa, Cầu Ván” và “Tầm Vu” – – Trong khi muốn làm được công việc tương tự, nhiếp ảnh gia sẽ phải cần ít nhất 3 tấm ảnh khác nhau… Và, sau đó còn phải chú thích (bằng chữ viết), để người xem ảnh có thể hiểu đó là những nơi chốn nào?!?
Cũng vậy, trong loạt thơ mới nhất “Miền tình yêu dấu” từng địa danh của quê hương, đất nước được Trúc Thanh Tâm ghi lại như “tự họa” mối chân tình của một người yêu, dành cho một người yêu:
4 – QUẢNG TRỊ ƠI
Trôi cùng Thạch Hãn mênh mông
Phượng hồng thắp lửa giữa lòng phố hoa
Cổ thành vững với phong ba
Áo em rợp trắng hồn ta, Nguyễn Hoàng!
5 – CÀ PHÊ BIỂN
Tháp buồn nhốt gió Nha Trang
Qua cầu Xóm Bóng, Ba Làng, chiều nghiêng
Cà phê từng giọt không tên
Mười lăm ngày đủ nhớ quên, một đời!
7 – VỀ BÌNH HÒA
Đường về, trải nắng lưa thưa
Mặc Cần Dưng, những cơn mưa đâu rồi
Châu Thành, thương nhớ đầy vơi
Lòng ta còn đọng chút bồi hồi xưa!
8 – GIÓ CHUYỂN MÙA
Đêm Bà Rịa, gió chuyển mùa
Thời gian đếm lại còn thừa xót xa
Phước Tuy, tình dẫu phôi pha
Mắt em cứ níu hồn ta đến giờ!
9 – TÌNH VŨNG TÀU
Nắng vàng trải thảm Dinh Cô
Ta qua Núi Lớn, lên Hồ Mây xinh
Tiếng em khe khẽ gọi mình
Hương đêm Ô Cấp, men tình thắm môi!
11 – CÙ LAO DUNG
Vườn em rụng trắng hoa cau
Ta treo trăng giữa Cù Lao Dung buồn
Sóc Trăng ba ngã sông thương
Người dưng khác họ, ai còn nhớ ai!
12 – HOA SIM TÍM
Tây Ninh mưa, tháng mười hai
Màu hoa sim tím, tóc dài bay nghiêng
Trảng Bàng rồi lại Tân Uyên
Ta xin giữ lại chút duyên ban đầu!
15 – TÂN ĐỊNH MƯA
Nhà Bè sông rẽ nhớ mong
Qua Dinh Độc Lập nắng lồng áo bay
Đường về Tân Định chiều phai
Bên em ta muốn mưa hoài cả đêm!
17 – BIỂN VĨNH CHÂU
Từ xa phố nhỏ Hộ Phòng
Bạc Liêu bão rớt mặn lòng Vĩnh Châu
Cá kèo kho mẳn, canh rau
Ta thương cô gái Tiều Châu, để lòng!
18 – HƯƠNG CON GÁI
Em xa Mộc Hóa theo chồng
Bỏ sông Vàm Cỏ đôi dòng ngược xuôi
Gò Đen, hun hút bóng đời
Mà hương con gái chưa rời thơ ta!…
(Trúc Thanh Tâm, trích “Miền tình yêu dấu”)
Với loạt thơ mới, như trích dẫn ở trên, tôi nghĩ, cuối cùng, Trúc Thanh Tâm đã có được cho thơ mình, một nhan sắc khác. Một nhan sắc không chìm lẫn. Nhan sắc làm thành thẻ nhận dạng thơ Trúc Thanh Tâm hôm nay, trên phông, nền địa danh quê hương gấm vóc.
Du T ử L ê
Trúc Thanh Tâm:
Thêm một số bài thơ nơi chốn, khác.
19 – VỊ THANH XA
Một thời khói chiến mù xa
Vị Thanh, Hỏa Lựu, bạn ta làm thầy
Lòng chưa quên được Cái Nai
Bao năm xa cách, mắt ai vẫn buồn!
25 – TRĂNG THẤT SƠN
Đêm nầy thao thức lắng nghe
Mưa từ An Phú, mưa về Núi Sam
Theo kinh Vĩnh Tế mơ màng
Ta treo trăng sáng bạt ngàn Thất Sơn!
27 – MƯA BÌNH PHƯỚC
Sương rừng vàng lệ, mắt cay
Bạn ta mắc võng Đồng Xoài, Lộc Ninh
Gái Xtiêng ơi, có chung tình
Thức đêm Bình Phước ru mình theo mưa!
28 – THĂM PHAN THIẾT
Liên Trì chuông mãi đong đưa
Ta thăm Mũi Né, cát xưa xửa hồn
Poshanư, mắt huyền sương
Nhớ mùi bánh Rế, tình thương tình chờ!
29 – CHIỀU QUẢNG NAM
Hải Vân, trời đất nên thơ
Ngũ Hành, mây gió đợi chờ ru nhau
An Khê còn đó, em đâu
Sông Hàn êm ả tím màu chiều rơi!
30 – VỀ BÌNH ĐỊNH
Đồ Bàn theo tháng năm trôi
Trăng Hàn Mặc Tử sáng trời Quy Nhơn
Ngô Mây, cô bé dỗi hờn
Ba mươi năm, một giọt buồn nhói tim!
32 – BAN MÊ NHỚ
Cây Kơnia, suối Ea Nuôl
Ta bên ngã sáu lạc đường Ban Mê
Chưa đi giáp quán cà phê
Nên còn để ý gái Ê Đê hoài!
Trúc Thanh Tâ m
Du Tử Lê
Châu Thụy
Văn Chương Và,
Đường Bay Nghệ Thuật Khác
Hơn một năm trước đây, khi viết về Châu Thụy, “cha đẻ” của hệ phái “Bút Họa” đi ra từ “Thư Họa”, tôi đã trộm nghĩ, tôi sẽ không ngạc nhiên, nếu một ngày nào Châu Thụy làm thơ hay viết văn.
Tôi có ý nghĩ này khi nhận ra tính chất sáng tạo mạnh mẽ trong những bức “bút họa” phối hợp được cả hai lãnh vực đường nét và, chữ nghĩa.
Nhưng, khi nhận được bản thảo “Vực Xoáy” của Châu Thụy thì, tôi thực sự ngạc nhiên.
Tôi ngạc nhiên không chỉ vì khả năng kể chuyện của Châu Thụy. Chỉ riêng mặt này thôi, Châu Thụy đã khiến người đọc dễ lầm tưởng như thể bi kịch trong “Vực Xoáy” là một thứ hồi ký của chính tác giả. Khi “Vực Xoáy” được Châu Thụy đẩy tới những đỉnh điểm cao nhất của bi kịch thì, người đọc mẫn cảm, có thể chảy nước mắt.
Nhưng điều mang lại cho tôi sự ngạc nhiên lớn, lại chính là khả năng mô tả của Châu Thụy. Từ tả tình, tả cảnh, tả người, tới những ghi nhận sắc, bén của ông, khi bước vào phạm trù tâm lý người nữ, vốn phức tạp, vi tế…
Độc giả Việt Nam đa số không có thói quen phân biệt giữa một người kể chuyện (Story Teller) – Là người chỉ chú trọng tới những diễn biến câu truyện mà, không hề bận tâm hay ý niệm gì về lãnh vực mô tả. Trong khi với một nhà văn (Writer) thực sự thì, mô tả cũng là phần rất quan trọng. Nó làm nên khác biệt giữa nhà văn này với nhà văn khác, khi cùng ghi nhận tả một cảnh vật, một hiện tượng…Ở lãnh vực văn chương, tự hồi nào giờ, vẫn hiện diện một bức tường ngăn cách lớn, giữa hai loại nhà văn này.
Với tôi, qua “Vực Xoáy” Châu Thụy thực sự là nhà văn đúng nghĩa, ngay tự những chương sách thứ nhất của ông.
Đây là đoạn nhật ký thứ nhất của Vân (nhân vật nữ, trung tâm của “Vực Xoáy”,) qua khả năng “phân thân” của Châu Thụy:
“Ngày Tháng Năm…
“Hôm nay là ngày đầu tiên mình gặp anh. Không biết phải bắt đầu viết như thế nào đây? Sao tâm trạng mình rất lạ, cứ bồn chồn, nôn nao vui buồn lẫn lộn.
Khi anh đến, lúc mình đang nấu cơm ở phía sau. Anh đi cùng với ba người đàn ông khác, một người hơi đứng tuổi, còn hai người kia trạc cỡ tuổi anh. Anh cao ốm, trắng trẻo và hơi xanh xao. Sau khi được giới thiệu, mình cúi đầu chào mọi người. Một cái gì đó trìu mến từ trong ánh mắt và cử chỉ của anh. Tự dưng nhìn thấy anh, lòng mình bỗng xao xuyến, ngượng ngùng… thật kỳ lạ.
Anh cao quá, mình cứ sợ anh sẽ va đầu vào khung cửa. Không biết vì lo lắng cho anh hay là vì lần đầu gặp gỡ?
Sao tim mình lại đập dồn dập lạ thường mỗi khi nhìn thấy anh?…”
Và đây, tác giả mô về một trong những bức tranh mà Vũ, nhân vật nam chính trong “Vực Xoáy” nói về những bức tranh được vẽ thời niên thiếu. Không vững tay, nhà văn sẽ khó diễn tả các khía cạnh chấp chới giữa đường nét và, thông điệp mà bức tranh đem lại. Bởi vì tranh là một vật thể chết. Nó không sinh động như cảnh vật, hoặc con người:
“Hồ Dzếnh không dùng thủ pháp của cây cọ hay màu sắc lộng lẫy mà vận dụng sức mạnh của ngôn từ, ông phác họa được những đức tính cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Còn riêng tôi, qua nét bút tôi vẽ lên tâm hồn cùng vẻ đẹp của người con gái thể hiện trên khuôn mặt đơn sơ mộc mạc, với những đường nét tinh khiết của nàng.
“Trong khung cảnh tĩnh lặng, những bức tranh với nét mực đen trên nền giấy trắng đầy vẻ huyền bí. Và dưới ánh trăng mờ ảo lùa vào từ bên ngoài qua những kẽ hở. Tất cả khởi động thêm nét đẹp lung linh, sinh động và rất quyến rũ. Tôi nhắm mắt lại để những cảm giác dịu dàng không thể diễn tả tiếp tục luân chuyển trong dòng máu. Và hình ảnh cô gái đó đang len lỏi vào tâm trí tôi, và ở lại mãi mãi…”
“Tôi cảm thấy bị cuốn hút bởi điều bí ẩn và miên man chìm sâu vào những suy tư đến khó hiểu. Mở lại những tấm hình đã vẽ, tôi không nhớ mình đã lặng ngồi như thế bao lâu, mà chỉ còn thấy ngọn lửa đam mê nghệ thuật đang bùng cháy trong tôi. Những hình ảnh móc nối, liên tục với nhau tạo nên một đoạn phim ngắn. Qua bao thăng trầm đổi thay của một thời thơ ấu không phải chỉ riêng nàng. Trong đó có cả tôi và những tâm hồn thơ ngây bất hạnh đang sống trong một thời điểm bi đát nhất, dứt khoát không có ánh sáng ở cuối một con đường hầm sâu hun hút…!”
Đoạn nhật ký thứ hai trong “Vực Xoáy” của Châu Thụy, với tôi, là một đoạn ghi nhận tâm lý người con gái mới lớn, trước rung động lạ lẫm nơi bậc thềm thứ nhất của một tình yêu mới chớm:
“Ngày Tháng Năm…
“Đã mấy hôm rồi, sao tâm trạng mình cứ nôn nao lạ thường. Mình nhớ hoài đến ánh mắt của anh. Ánh mắt đó đã cho mình một cảm xúc thật khó diễn tả, bồi hồi, vui buồn xen lẫn… Mỗi khi đi qua chỗ anh đang ở, mình cố gắng để không nhìn về hướng đó, nhưng mình có cảm tưởng hình như có một ai đó đang theo dõi. Vì cũng ở đó, mình đã gặp ánh mắt ấy, ánh mắt với bao nồng nàn, thu hút đã làm mình thật bối rối, thật rung động…
“Anh có biết là ánh mắt của anh luôn luôn in đậm trong tâm trí em không? Và khi làm việc ngoài vườn em không còn đủ tập trung, đầu óc suy nghĩ vu vơ đến xao lãng công việc. Để hôm nay, Ba cũng có thể nhìn thấy và ghẹo hỏi: ‘Ai lấy mất hồn con gái của tôi rồi?’ Mắc cỡ quá vì Ba đã nhận ra những thay đổi khác thường của em.
“Mình mong chờ tới giờ ăn, để được đưa mâm cơm ra chỗ anh ở, để nghe giọng nói của anh. Giọng người Bắc sinh trưởng trong miền Nam nghe là lạ, nhẹ nhàng nhưng cũng đủ làm cho mình lúng túng. Nếu như anh không kịp đưa tay ra đỡ, chắc mình run rẩy đã làm rớt mâm cơm. Mình cố gắng giữ vẻ tự nhiên.
“Xấu xí thế này, ai mà thèm để ý đến. Thật là hư!”
Mô tả một đêm mưa trong “Vực Xoáy”, là một trong những đoạn văn tả cảnh khá đẹp của Châu Thụy:
“Ngoài kia, mặt trời đã khuất, nhường lại ánh sáng cho một buổi chiều thu. Gió thổi mạnh từng cơn lành lạnh. Bầu trời bỗng trở nên đen thẫm và mưa bắt đầu như trút nước. Mưa càng lúc càng nặng hạt, tiếng vỗ của giọt nước đổ rào rào trên lá cây. Những tia chớp xé rách bầu trời, mang theo những tiếng sấm ầm vang. Bác Tâm, Vân và tôi chạy nhanh vào trong lều để trốn mưa. Chúng tôi ngồi bên bếp lửa hồng. Trò chuyện trong tiếng nổ tí tách của than củi hòa cùng tiếng nổ của những hạt bắp no tròn, trắng ngà. Như trong chuyện hoang dã, ba mái đầu ngồi chụm bên nhau trong căn lều thô sơ. Nhìn bên ngoài, làn mưa đang chia cách chúng tôi với cuộc sống hiện tại. Mặc cho mưa rơi, cho côn trùng bắt đầu rên rỉ. Riêng chúng tôi vẫn nhận được hơi ấm trong từng cõi lòng và trong từng lời nói của nhau. Thật đơn giản, một khoảnh khắc bình yên và thanh thản lạ lùng. Tiếng mưa vẫn rộn rã, bên làn sương nước dày đặc. Không ai đợi chờ, không ai vướng bận, cũng không ai hối hả hay vội vã, cứ như thể là rất rảnh rỗi. Tất cả đang mờ nhạt dần và tan biến vào hư không, chỉ còn dòn dã tiếng mưa rơi. Dường như thế giới đang tạo dựng một thiên đường riêng cho cả ba tâm hồn.”
Tôi có thể trích dẫn hàng chục đoạn nhật ký của Vân, linh hồn của “Vực Xoáy”; hay những mô tả đầy thi tính về sự vật của Châu Thụy…Nhưng tôi nghĩ, tôi sẽ thật không phải, thật có lỗi…nếu không dành quyền khám phá (quyền tối thượng) của người đọc!?!
Vì thế, tôi xin được ra khỏi bài viết này, với lời cảm ơn Châu Thụy. Cảm ơn “Vực Xoáy” đã cuốn hút tôi xuống tận đáy cùng cảm-thức hạnh phúc và xót xa, hân hoan và thốn đau trong “Vực Xoáy”…
Du Tử Lê
Xuyên Trà,
Người Vượt Được Chính Mình.
Một trong những ra đi, bước tới, làm thành mặt khác, mặt tinh ròng mới mẻ của 40 năm thi ca Việt tỵ nạn, là tiếng thơ của một cựu tù nhân chính trị: Tiếng thơ Xuyên Trà.
Trong ghi nhận của riêng tôi thì, đời kiếp thi ca của một nhà thơ thường rất ngắn! Ông / bà ấy có thể làm thơ cuối đời… Nhưng đa số thường lập lại chính mình! Tôi cho đó là một trong những bất hạnh, hoặc thảm kịch lớn nhất của một thi sĩ. Nó như mặt khác của ân sủng thiêng liêng bất thường (mà,) trước đó, Thượng đế đã hào phóng dành riêng cho thi sĩ…
Nói như thế không có nghĩa tất cả những người làm thơ, đều có chung một số phận. Bằng cớ hôm nay, Xuyên Trà đã có cho chính ông trước nhất, sau đấy, là những người đọc ông: Thi phẩm mới.
Tôi chủ tâm viết nghiêng (Italic) chữ “mới, vì tính từ “mới” tôi dùng ở đây, không mang ý nghĩa quen thuộc là một thi phẩm thêm, của tác giả vừa mới được ấn hành.
Tính từ “mới” tôi dùng ở đây, dành cho thi phẩm tựa đề “Thêm, một đóa hồ nghi” của Xuyên Trà, nó mang ý nghĩa tác giả đã có được cho đời kiếp thi ca của ông, phần máu, thịt khác.
Nhận định về tiếng thơ Xuyên Trà, cách đây vài năm, qua thi phẩm “Tâm khúc”, tôi cũng đã từng nhấn mạnh rằng: Ông là một trong số ít người làm thơ (so với chính thơ của ông trước đấy), đã vượt được mình trên dặm trường thi ca lênh đênh chữ và nghĩa.
Ở thi phẩm này, tôi nhìn thấy 5 khía cạnh đậm nét nhất là: Tình yêu quê hương; tình yêu gia đình, bằng hữu; cảm nhận lẽ vô thường; tính trào lộng hay phúng thích; và, một dòng chảy lục bát khác…
Tôi muốn nói Xuyên Trà qua thi phẩm “Tâm khúc”, đã cho người đọc một lục bát thoát khỏi nẻo mòn đắng cay thân phận, nặng nề triết lý… Mà, là một dòng lục bát thênh thang phóng dật, thấp thoáng nhiều tự trào…
“Thời gian cho thấy,trong cuộc trường chinh chữ, nghiã của Xuyên Trà, qua những thi phẩm kế tiếp nhau ra đời, đã mỗi ngày một lấp lánh hơn, bằng vào những đi tới mới mẻ và, giầu có hơn, thi ảnh…
“Tôi muốn nói, ‘Tâm khúc’, tuyển tập thơ Xuyên Trà, xuất bản năm 2000, là một minh chứng gần nhất và, cũng rực rỡ nhất trong hành trình thi ca Xuyên Trà, mấy chục năm lao tác…”
Và, hôm nay với thi phẩm “Thêm, một đóa hồ nghi”, tiếng thơ Xuyên Trà (so với chính thơ của ông trước đấy), một lần nữa, thực chứng khả năng vượt được mình trên dặm trường lênh đênh thi ca chữ và nghĩa.
Hôm nay, ở những ngày đầu năm 2014, tôi lại nhận được 8 bài thơ mới của tác giả “Thêm, một đóa hồ nghi”, viết sau khi ông trải qua một mất mát lớn: Sự ra đi vĩnh viễn của một người con gái mà ông rất yêu thương – – Cho thấy thơ ông đã thấu lẽ vô thường của vạn vật. Sự hợp / tan, thành / bại của một kiếp nhân sinh. Điều còn lại đáng kể hơn cả, theo tôi, vẫn là cái Tâm (tôi viết hoa chữ Tâm) của tác giả này vậy. (*)
Trong tinh thần chào mừng sự vượt qua và, vượt trên lẽ mất / còn; buồn / vui; tử / sinh / với tâm thái thi sĩ, như Xuyên Trà, chúng tôi trân trọng kính mời quý bạn đọc thưởng lãm dăm bài thơ mới nhất của ông – – Như đón nhận những bông hoa tâm tưởng, viên thành của một nhà thơ (cũng là một cựu tù nhân chính trị), đã bước qua tuổi thất thập mà, sức sáng tạo vẫn sung mãn: Vắng bóng thù hận. Chứa chan nhân bản…
Xuyên Trà, những bài thơ mới nhất.
1. Nguyên nhân.
Thân còn cát bụi, tâm mưa nắng
Sinh tử vô thường chẳng trước sau
Biết em nói dối ta không trách
Bởi thế gian còn những đớn đau…
2. Hành trình.
Tâm em chánh giới như tâm Phật
Ngã mạn ta ngồi trụ gốc si
Đời sau bình bát đi Tây trúc
Chắc cũng em theo bước thọ trì…
3. Hẹn trả ân vô lượng.
Sáng nghe chim hót như vừa đủ
Ngọt chút ân tình ấm thế gian
Mai sau hẹn trả ân vô lượng
Thơm thảo mười phương gió bạt ngàn…
4. Nghiệp.
Hỏi ta hình tướng bao nhiêu kiếp
Có kịp theo về lúc vãng sanh
Nếu không máu thịt từ nguyên thủy
Sao trả thân, tâm lại ngũ hành…???
5. Tình tôi.
Dẫu người còn nhớ tình tôi
Nhánh sông bên lở bên bồi ngàn dâu
Đỉnh trời trăng khuyết đã lâu
Thương ai sóng cũng bạc đầu để tang
6. Tay trắng mộng đầy.
Ngày xưa tay trắng mộng đầy
Mấy mươi năm, vẫn làm mây phương trời
Mắt người giọt lệ còn rơi
Thì muôn năm, chắc biển đời chưa khô…
7. Vô vô.
Thơm lây mấy dải mây trời
Sắc hương thắm đượm một thời hồng nhan
Câu thơ bát ngát trên ngàn
Lớp lớp vô tự hàng hàng vô ngôn…
8. Hỏi bóng.
Đêm về, trăng cũng có khi
Hỏi ta bóng thuở xuân thì còn không
Thưa rằng sắc sắc không không
Cứ như mây trắng bềnh bồng ngàn năm…
Xuyên Trà.
(Atlanta, Georgia, Feb. 2014)
________
(*) Nhà thơ Xuyên Trà tên thật Nguyễn Ninh, sinh năm 1942 tại làng XuyênTrà, quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Ông tốt nghiệp khóa 20 trường SQTB/Thủ Đức. Cựu thiếu tá QL/VNCH. Bị tù cải tạo 11 năm, trong đó có 5 năm biệt giam, ông cùng gia đình định cư tại thành phố Atlanta, Georgia năm 1991. Thơ của ông xuất hiện trên hầu hết những tạp chí văn chương tại Hoa Kỳ.
Du Tử Lê
Con Đường Thơ
Nguyễn Thị Phương Thúy
Dõi theo sinh hoạt thi ca của lớp người trẻ thế hệ 8 và 9x, tôi thấy ngày càng có nhiều người không phân biệt được sự cách tân / làm mới, với phong trào đem vào trong thơ (cũng như trong ca từ của âm nhạc) những con chữ, hình ảnh bỗ bã, sần sùi, trần trụi…vốn không phải là yếu tính của thi ca. Nếu không muốn nói là họ đã “vô tư”, hớn hở bôi bẩn thi ca mà, họ không biết. Họ bẵng quên rằng, công việc hay bổn phận của thi sĩ là làm sáng, làm đẹp chữ nghĩa. Chứ không phải làm tối tăm, nhơ nhuốc văn chương!
Nếu phải tìm một định nghĩa ngắn, gọn cho thơ thì theo tôi: Thơ là cách nói khác.
Để có được cái gọi là “cách nói khác”, nhà thơ phải biết khai thác vài kỹ thuật căn bản của thi ca, như so sánh hay liên tưởng…
Nhưng số người trẻ kể trên, dường cũng không hiểu căn bản của kỹ thuật so sánh hay liên tưởng trong thơ là tương quan có tính máu, thịt giữa một “chủ ngữ” với những “phụ từ”.
May mắn thay, tôi nghĩ, bên cạnh đó, chúng ta cũng có những người trẻ có đủ ý thức và, thông minh khi thể hiện những đường bay thi ca của mình.
Một trong những người thuộc thế hệ 8, 9x kia, là Nguyễn Phương Thúy.
Với thi phẩm “Ba mươi, Nỗi buồn em cổ điển” thì, ngay cách đặt tựa của mình, đã cho thấy chủ tâm của Nguyễn Phương Thúy là muốn sớm tìm cho mình một đường bay thi ca khác. Đơn giản hơn, tôi muốn gọi đó là “Con đường thơ Nguyễn Phương Thúy”.
Người đọc sẽ thấy rất nhiều trong “con đường thơ Nguyễn Phương Thúy” những so sánh, liên tưởng thông minh và, ý thức.
Thí dụ, khi một trong những chủ-ngữ của bài thơ “Khi ta ba mươi” là “nước biển”. Nguyễn Phương Thúy viết: “Chắt từ biển có đôi dòng nước mặn” (ngụ ý đôi dòng lệ). Rồi “Nắng gửi cho em sấy thành hạt muối trắng”.
Chỉ với hai câu thơ này thôi, chúng ta đã thấy “liên tưởng của liên tưởng” đuổi bắt nhau, thành một đoạn phim ba chiều, liên tục. Và, khi muối (hay nước mắt) chất vào quang gánh đi dọc hành trình đời sống thì: “Đôi quang gánh đong đưa theo chiếc bóng / Lặng thinh mà như kể hết gian truân”.
Nói cách khác, rõ hơn, Nguyễn Phương Thúy đã không liên tưởng “nước biển” với đất, đá hay bất cứ một hình ảnh không tương thích nào.
Về phương diện kỹ thuật, theo tôi, cao hơn một bậc, là kỹ thuật nhân cách hóa. Trong “Con đường thơ Nguyễn Phương Thúy” hay thi phẩm “Ba mươi, nỗi em buồn cổ điển”, Nguyễn Phương Thúy không chỉ nhân cách hóa những sự vật cụ thể, mà, Nguyễn còn cho thấy khả năng nhân cách hóa cả những sự kiện trừu tượng, vô hình nữa.
Thí dụ:
“Ba mươi năm đủ dài để chăm bẵm giấc mơ”
Hoặc:
Ở phía cuối chân trời hạnh ngộ ốm chanh chao”
(Trích “Nỗi buồn em cổ điển”)
Hoặc nữa:
“Về biển nghe sóng bồng bềnh, nắm hoa muống tím cong mình hứng gió”
(Trích “Khi ta ba mươi”)
Với các tính từ “chăm bẵm”, “ốm” và “cong mình”…đó chính là “cách nói khác” – – Là cách tân hay làm mới thi ca của tài hoa Nguyễn Phương Thúy vậy.
Trên lộ trình thơ Nguyễn Phương Thúy, người đọc cũng gặp nhiều nhắc lại, những “điệp-ngữ-cố-tình”, như:
“Có mùa hạ nào không nhỉ
Anh ngã vào cùng tóc em
Giây phút rối bời
Từng giờ rối bời
Ngày tháng rối bời
Mùa hạ rối bời vắt ngang trái tim em không sao gỡ được
Chiều nay em đếm ngược
Khoảng cách rụng rơi
Những nóng bỏng theo mùa chảy ướt đôi môi
Vỡ òa thương nhớ”
(Trích “Vỡ òa thương nhớ”)
“Điệp-ngữ-cố-tình” trong đoạn thơ trên là tính từ “rối bời” (lập lại 4 lần) – – Nhưng những rối bời đó, hình thành sau khi người đàn ông đã “ngã” vào mái tóc người con gái; khiến những rối bời “nóng bỏng” kia “chảy ướt đôi môi” – – khiến “Vỡ òa thương nhớ”.
Đó là một cách “cách nói khác” của Nguyễn Phương Thúy. Cách nói khác đầy tính-nữ.
Lại nữa, cũng là nỗ lực phản ảnh đời thường, hay tập quán mới của xã hội đương đại, khi Nguyễn Phương Thúy đem từ ngữ quen thuộc với đám đông, như từ ngữ “search” vào thơ; nhưng nó vẫn cho thấy một phong cách, một nhan sắc khác: Nhan sắc Nguyễn Phương Thúy – – Khi Nguyễn viết:
“Đừng search em trong tháng ngày tạp kỷ
Làm sao có phiên bản thứ hai
Cái na ná thì nhiều vô kể
Tình yêu em chỉ có một trên đời
Cũng như lá trong muôn ngàn chiếc lá
Cũng như sao trong hàng triệu ngôi sao
Thời gian thích trêu đùa nhan sắc
Em là em cá tính đã nặn nhào”
(Trích “Phiên bản đêm”)
Đoạn thơ 8 câu tôi trích dẫn trên vẫn đi theo lối dẫn, giải cũ. Nhưng lại là những dẫn, giải chưa từng có trước Nguyễn Phương Thúy.
Chính vì thế mà tự thân đoạn thơ này, đã trở thành “cá tính” hay thẻ nhận dạng thơ Nguyễn Phương Thúy.
Và, vẫn theo tôi, không phải nhà thơ nào của chúng ta, cũng có “cá tính” hay, thẻ nhận dạng riêng cho đường bay thi ca của mình. Như Nguyễn. Nguyễn Phương Thúy.
Du Tử Lê,
(Calif. Mar. 2015)
——————————————————–
Dăm Bài Thơ
Nguyễn Phương Thúy.
Nỗi Buồn Em Cổ Điển
Và cơn bão chiều nay ký gửi gió lên ngọn cây dừa
Ai thu mua mây chất chồng lên bầu trời xám xịt
Lối về bên nhau đã trắng mưa
Chỉ còn con chuồn ớt bay bên nhau quấn quít
Trời ạ!
Bão sắp đến rồi!
Biển cưu mang con thuyền đang xa khơi
Núi cưu mang mấy tầng cây xanh ngút ngát
Còn em?
Đứng bên đời cưu mang giấc mơ, có đôi lần gãy cánh
Nỗi buồn em cổ điển, trước khi bão tràn qua.
Ba mươi năm đủ dài để chăm bẵm giấc mơ.
Dát vàng khung trời hai đứa
Chợt nhận ra người đàn ông không thể chung thủy cả cuộc đời
Để chiều nay, những nốt lặng thoát thai thành cơn bão nổi.
Phố anh chiều nay sương lạnh lên ngôi
Phố em chiều nay bão tràn qua tóc
Em hỏi bao giờ gặp nhau “ mùa đông lắc đầu ngơ ngác”
Ở phía cuối chân trời hạnh ngộ ốm chênh chao.
Khi Ta Ba Mươi
Chưa phải chiều
Nắng đã bỏ rong chơi
Ngủ quên trên cánh đồng lúa non ngậm sữa
Chưa phải chiều
Ta đã ngồi nhen lửa
Hâm lại hồn nhiên trông đến buồn cười.
Nỗi buồn nào gặm nhắm tuổi ba mươi
Đi giữa phố đông gặp mình trầm mặc
Sợ tan chiều hoàng hôn xuống thấp
Con trăng buồn ngồi tụng kinh yêu.
Đôi khi đánh rơi lòng mình vào nửa nốt phiêu
Về biển nghe sóng bồng bềnh, ngắm hoa muống tím cong mình hứng gió
Xoè bàn tay con còng nho nhỏ
Chạy loanh quanh
Loanh quanh
Ối a buồn.
Nhốt đôi chân để khỏi ngược đường
Quay bốn phía nghe tình đầu vỡ nợ
Tháng chín công viên muôn chiều lá đổ
Những hẹn hò không viết tên nhau.
Ba mươi ta đi về đâu
Con đường chợt dài
Con đường chợt ngắn
Sáng nay thôi ta vừa tham sống
Đâu biết mai chiều ta ngồi khóc lêu bêu….
Nỗi nhớ anh kẹt giữa ngã tư đường
Anh để lại dấu vết mùa đông trong hang đá nhà thờ
Se sẽ lạnh cho ngày em chợt đến
Đàn bồ câu nhặt hồng ân ngoài sân vuông lơ đễnh
Sót một ngày định mệnh để bên nhau.
Anh để lại dấu vết lời nguyện cầu
Nơi dấu thánh cộng em và anh không nên duyên chồng vợ
Chậm một lần để một đời phải nợ
Còn có kiếp nào để trả cho nhau?!
Sài Gòn ơi! ngày tháng cũ ở đâu
Em ngược tìm buổi sáng trời ngưng gió
Những vòng xe đua nhau tốc độ
Chỉ nỗi nhớ anh kẹt ở ngã tư đường.
Qua Nguyễn Du lá me bay ngơ ngác mà thương
Em chậm ở phía sau sửa lại một ánh nhìn đã cũ
Sài Gòn bao nhiêu năm rồi trong lòng ta vẫn vô cùng quyến rũ
Thật gần ngay cả lúc dửng dưng…
Hương Đàn Bà
Chúng nó cười
khanh khách buổi đầu hôm
Ngoài ngã ba, mấy đứa nhoi nhoi với vài cô qúa lứa
Nơi phố nhỏ nghèo, đàn bà nách mang ba bốn đứa
Làm đếch gì mà có mùi hương.
Lo củi lo than lo gạo lo cơm
Lo từ lúc mặt trời chưa lên đến khi ngày rách toạc
Những việc không tên cứ leo lên mười ngón tay nhảy nhót
Tung hô việc của đàn bà trong suy nghĩ đàn ông.
Chị ba cặm cụi nhen bếp hồng cho ấm cả mùa đông
Ngày chạy chợ gánh gồng mua mớ tôm mớ cá
Chị bảy luống cuống làm cơn mưa bóng mây mùa hạ
Lau bữa gió lào và cái nắng đành hanh.
Sợi tóc chẻ xơ vàng thay cho mái tóc mượt xanh
Đôi bàn tay sần sùi đã rủ bỏ nuột nà từ lúc nào không nhớ
Người đàn bà đánh đổi tuổi xuân cho duyên nợ
Thành người giúp việc 24/24 giờ, cả đời không nhận nổi đồng lương.
Những người đàn bà vác giò lên cổ chạy để mưu sinh
Chỉ có mùi sữa, mùi chua, mùi mồ hôi hăng hắc
Phần nhiều những người đàn bà khác không mùi không hương như nước lọc
Bởi lẽ hương đã bay theo tiếng trẻ thơ cười.
Không ít những lời càm ràm và tiếng la chan chát trên môi
Quần xén ống thấp, ống cao, áo dài xộc xệch
Cái duyên mặn mà ẩn sâu trong từng đường chỉ khâu, nếp nhà, hốc bếp
Hương đàn bà ẩn vào từng bước đi và sự thành đạt của người đàn ông.
Vỡ Òa Thương Nhớ
Khi mùa đông, người ta hay nghĩ đến nhau
Cái lạnh xui người ta mơ về một vòng tay ấm
Khi mùa xuân hoa cỏ khoe sắc thắm
Người ta vui nên muốn đón nhau về.
Cớ gì em bâng quơ
Nghĩ đến anh khi mùa hạ chu môi thổi bùng ông mặt trời màu đỏ
Nắng bỏng từng ngón tay của gió
Và ve sôi ồn ào.
Đi dưới cái nắng trưa lòng em cũng cồn cào
Nghĩ về anh như cây phượng đầu mùa nghĩ về cơn mưa tháng sáu
Giọt mồ hôi rơi đau đáu
Bàn tay anh mười ngón xương xương.
Dừng chân nghỉ lại bên đường
Ngó lên thấy tán bằng lăng đã nở hoa màu tím
Mới hay nắng không đốt được buổi buồn
Và tình yêu không thể quyên sinh vào phút giây ta thinh lặng.
Con đường dài, đi hoài rồi sẽ ngắn
Rồi mai mốt ta sẽ gặp nhau
Kể cho nhau nghe những nỗi nhớ cứ lặp đi lặp lại một màu
Đồng vọng trong từng suy nghĩ…
Có mùa hạ nào không nhỉ
Anh ngã vào vùng tóc emG
iây phút rối bời
Từng giờ rối bời
Ngày tháng rối bời
Mùa hạ rối bời vắt ngang qua trái tim không sao gỡ được.
Chiều nay, em ngồi đếm ngược
Khoảng cách rụng rơi
Những nóng bỏng theo mùa chảy ướt đôi môi
Võ oà thương nhớ!
Nguyễn Thị Phương Thúy
Monday, 16 March 2015 15:53
Written by Du Tử Lê
Một Nơi Chốn
Cho Linh Hồn Bạn Tôi – Trở Về
Cuối cùng, chiếc phi cơ cất cánh từ phi trường Los Angeles vào lúc một giờ khuya phải đục trần mây, chúi mũi, lao xuống, sau khi đã nhiều lần. chao cánh. Cô Tiếp viên trưởng không ngừng lập lại lời yêu cầu, hành khách giữ nịt giây an toàn cho tới khi phi cơ vào được bến đậu.
Cùng với ruột gan nhào, xóc, những mũi kim li ti châm chích, buốt, nhức sâu màng tai, tôi nhìn thấy phi trường Song-Thành như khuôn mặt còn ngái ngủ của một thôn nữ, bị giựt khỏi giấc mơ êm đềm, ném vào lòng cơn mưa lớn. Những giải lụa mưa dầy, loang loáng những mũi chỉ đan xít trên nền xám khu Arrival. Mấy tòa building xếp theo hình chữ chi, trông xa như những con rùa khổng lồ không đầu, đang cố gắng ngoi lên khỏi mặt biển.
Phi cơ càng xuống thấp, mưa càng cộm, và, mọng hạt hơn. Độ lạnh trong thân tầu gia tăng đột ngột. Hành khách có cảm giác như bị hơi nước thình lình tráng từng lớp đá mỏng khắp cùng cơ thể. Những người còn quyến luyến giấc ngủ gập ghềnh, bị sức nâng, giằng của phi cơ tưng lên, muốn bật khỏi ghế ngồi, lúc bánh xe cuối thân tầu tạt nước qua hai bên, cọ mặt phi đạo.
Hình ảnh dữ dội đập vào mắt tôi, trước nhất là những chiếc C-130 của quân đội, ngụy trang mầu lá cây, thấp tè, xếp hàng ngay ngắn, thụt sâu bên tay phải. Có dễ tôi sẽ không tin nơi mắt mình, nếu Hạnh không cất tiếng:
“C-130, anh ơi.”
Hơn hai mươi năm, ám ảnh về chiến tranh, những ngày, tháng lẩn trốn thần chết tinh quái, xục xạo trong những trận đánh dữ dội tiếp diễn, đã lạt phai dần trong tôi; bỗng sống lại. Hình ảnh những chiếc máy bay quân sự ở phi trường Tân Sơn Nhất sớm mai, bị nhúng sâu trong biển sương muối, cúi mặt dò dẫm bò ra phi đạo (bỏ lại phía sau những đốm lửa leo lét, là những gánh cà phê, quà sáng., bập bùng nép sát hàng rào phi trường.)
Những chiếc C-130 hấp tấp ngốn, nuốt những người lính Nhẩy Dù, TQLC để rồi sẽ lè, nhả họ cho các mặt trận ở Vùng Một, Vùng Hai… torng tôi đã lùi xa. Đã khuất, lấp… Khi không sống lại.
Căn bản, hồi tưởng buồn bã nào cũng như những cánh tay tuyệt vọng khua trên mặt sóng, của một người sắp chết đuối. Những cánh tay tựa những cột buồm đuối, rã.
Hình ảnh những chiếc máy bay quân sự loại C-130 hay C-123 chở thân nhân, những người lính đi phép nằm ngồi bên cạnh những chiếc quan tài bọc thép dầy mà, nước vàng vẫn rỉ, thấm xuống những vỉ sắt trong lòng tầu. Mùi xác rữa làm những người không quen phải nôn, mửa.
Những sớm mai sương muối tựa cháo loãng rẩy khắp ngọn đồi Cao nguyên. Những sớm mai Huế, mưa dầm cả tuần không dứt. Mưa như bùn non vấy nhem nhuốc những ngọn cây sầu đông dọc lộ trình dẫn tới phi trường Phú Bài. Tôi không hiểu tại sao các chuyến bay C-123 hoặc C-130 lại ưa chọn những sớm mai tro, lợ như vậy để cất cánh. Chỉ biết, những chiếc C-130 xếp cánh dọc một bên phi đạo Song Thành, sớm nay, đã mồi lại trong tôi (và Hạnh?) ngọn lửa biệt ly của những tháng, ngày chiến tranh, cũ.
(Chỉ biết, hồi tưởng như cánh tay tuyệt vọng khua trên mặt sóng của một người sắp chết đuối. Những cánh tay tựa những cột buồm đuối, rã.)
Cuối cùng, với tôi, rồi chiếc phi cơ cũng vào được bến đậu của phi trường Song-Thành. Phi trường nằm giữa hai thành phố Saint Paul / Minneapolis, trong chạm mặt lần thứ nhất, sau hai mươi mốt năm chờ đợi. Bạn tôi, những Long, Dzĩnh, Phương Triều, “Điêu Thuyền,”… đâu biết, Minnesota không chỉ cho tôi hương thơm của tình thân, hơi thở của ký ức; mà, Minnesota còn mang lại cả mùi thuốc súng / chiến tranh / xác rữa / tuổi trẻ tôi nữa.
Đó là những ngày tháng đầu thập niên bảy mươi. Thời gian này, nhờ phụ trách bài vở của tờ Tiền Phong, tôi không còn nằm trong danh sách Phóng viên chiến trường của quân đội. Tuy nhiên, vào những thời điểm có quá nhiều trận chiến bộc phát cùng lúc, các phóng viên bị gửi đi hết, phòng Báo Chí không còn ai, tôi vẫn bị chỉ định đi làm phóng sự.
Thời gian này, với tôi, khoảng cách Saigòn-Huế; Saigòn-Pleiku trở thành gần cận. Tựa hai đầu một khúc đường ngắn.
Những sớm mai, trời đất còn tro, lợ, có thể Ti còn dò chuẩn bị cho kỳ thi về môn Vi trùng học; có thể Tí Ngọ chỉ mới chợp mắt, chưa kịp gặp một giấc mơ nào…, tôi đã có mặt trong khu gia binh Tân Sơn Nhất. Cùng những người lính Nhẩy dù, Thủy quân lục chiến, tôi lội bì bõm giữa bóng tối nhập nhoạng, giữa những ngọn đèn bão, hay khí đá, tìm ly cà phê đầu ngày. Ngốn ổ bánh mì trong lúc chiếc C-130 ầm ầm hâm máy.
Chúng tôi đi lại, đứng ngồi, như những bóng ma chờ được gọi đầu thai giữa phiên chợ âm phủ. Những người lính đa số còn rất trẻ, chỉ trạc tuổi tôi, bình thản đợi giờ ném thân vào vùng lửa đạn. Cái bình thản do thói quen, thành quán tính? Không một ai trong họ, thắc mắc ngày về có đủ mặt?
Những sớm mai chưa tỏ mặt người, ở Huế, có thể Hạnh còn đang chìm, ngất trong những giấc mộng xuân thì, khát khao vòng ôm đầu đời thiếu nữ; thì tôi đã ngồi trên sàn sắt của một chiếc C-123 hay C-130 nào đó.
Những sớm mai chưa tỏ mặt người ở Pleiku, có thể Thủy đang mơ thấy cùng tôi trở lại dốc Phú Thọ, lều rơm, trái dừa tươi, những tàng lá đồng lõa che đậy chúng tôi… thì, chuyến bay đã ra tới đầu phi đạo; đã stand by…
Không một ai trong chúng tôi tự hỏi liệu đường bay có trọn. (Tôi không biết bây giờ Thủy về đâu? Một người bạn dạy cùng Thủy ở Nguyễn Viết Quỳ nói, Thủy chết trên sông Ba, khi nàng thất thần, tả tơi theo đoàn người tháo chạy trên lộ trình Bảy Kép.)
Những sớm mai chưa tỏ mặt người, vẫn ở Pleiku, có thể Ch / Pleiku đang mơ thấy chúng tôi cùng bước vào căn nhà mới. Căn nhà ba má nàng cất riêng cho chúng tôi, như một thứ của hồi môn mà gia đình Ch / Pleiku muốn cho nàng trước ngày lấy chồng… thì, chuyến bay chở tôi và những người lính bình thản đi vào chiến trận (như đi vào một trò chơi quen thuộc nhàm chán,) đã cất cánh. Trong một tình cờ gặp lại Thạc nơi phòng mạch của Bác sĩ Phạm Gia Khánh, một người bạn thời niên thiếu của tôi, Thạc kể sau tháng 4-75, Ch /Pleiku đã cạo đầu. Nàng vô chùa. Những đứa con của nàng với người chồng chết trong cải tạo, được giao về nội.
Bạn tôi đâu biết, Minnesota không chỉ cho tôi hương thơm tình thân, hơi thở của ký ức; mà, / biệt ly/ và, cả mùi cuồng điên của một thời tuổi trẻ tôi, nữa.
Đó là đầu thập niên bảy mươi. Thời điểm này, Huế đối với tôi thân thiết, gần gũi hơn Pleiku, Nha Trang, Đà Nẵng. Tôi có nhiều dịp thả bộ (chứ không phải chạy lúp xúp theo cánh quân của Phán, từ gốc cây này núp qua gốc cây khác…, trong những ngày Tết Mậu Thân.) Tôi thả bộ cùng Hạnh trên những con đường của một Huế / hăm hở lãng mạn / sôi sục đam mê ẩn tàng sau những lớp rêu hưng, phế nội thành. Dấu, che dưới những tàng nhãn thiên thu ngậm ngùi bóng mát, Trần Hưng Đạo.
Thời điểm này, Huế cũng cho tôi những chuyến bay, từ phi trường Phú Bài, trở về Saigòn, đôi khi chỉ có năm, bảy hành khách. Trong số này, hết ba hành khách, nói theo Kim Tuấn, bạn tôi, là hành khách nằm, hay hành khách danh dự. Hai hành khách ngồi là chúng tôi. Đó là ba chiếc quan tài bọc thép, được đưa về Saigòn, để từ đó, sẽ di chuyển tiếp tới những thành phố miền đông hay miền tây. Nơi những người lính này, một thời sinh trưởng. Tác giả Anh cho em mùa xuân bảo, một ngày nào đó, trong những hành khách nằm, có thể là chúng tôi.
Chừng sợ câu nói của mình sẽ trở về, để thể hiện sự chính xác của nó, Kim Tuấn nói thêm, anh chưa muốn làm hành khách danh dự kiểu đó…
Tiếng thế, Kim Tuấn và tôi vẫn không ngừng được những chuyến giang hồ vặt. Lần nào, trong lòng tầu, Kim Tuấn cũng lâm râm cầu, nguyện. (Không biết Kim Tuấn cầu, nguyện cho linh hồn những người lính xấu số, hay cho sự bình an sinh mạng chính mình?)
Bây giờ, sau hai mươi mốt năm, may mắn, tôi và Kim Tuấn vẫn còn là những hành khách ngồi trên các chuyến bay, dù cho chỗ ngồi của chúng tôi cách nhau tới nửa vòng trái đất.
Bạn tôi, những Long, Dzĩnh, Nhơn, Phương Triều, Anh Thư, Như Anh… Ngay Mục sư Oan, cũng đâu biết, Minnesota, không chỉ cho tôi hương thơm của tình thân, hơi thở của ký ức – – mà, Minnesota còn mang lại cho tôi mùi thuốc súng / chiến tranh/ biệt ly /và, cả mùi cuồng điên của một thời tuổi trẻ tôi, nữa.
Cùng lúc, tôi ngửi được mùi biệt ly, cuồng điên tuổi trẻ mình, khi đứng ngoài ban công ngôi nhà của Long, nhìn xuống những luống hoa tulip của chị Như Anh. Những nhánh cây trắc bách diệp bị Long đốn ngọt ngào (như nước mắt, cũng ngọt ngào của chị Anh, đi làm về, thấy những thân cây thương, yêu bỗng không què, cụt.)
Tôi nghĩ, tôi hiểu được nỗi tức tưởi nơi chị Anh, như hiểu được nỗi tức tưởi của Phương, khi chúng tôi bất ngờ gặp lại nhau, buổi sáng.
Tôi không nghĩ, đời sống, thời gian còn cho tôi gặp lại người bạn nhỏ, những ngày Cục Tâm Lý Chiến, kia. Tôi cũng không hình dung Phương tiều tụy / ủ dột / rã rượi đến thế!
Phương chưa từng lập gia đình. Nàng còn quá trẻ. Phương kể:
“Anh Thiệp chết rồi.”
“Anh hiểu.”
“Những người bạn đồng tù với ảnh, cho em biết. Nhưng em không tin. Em nhất định không tin. Tới ngày…”
“Ngày…?”
“Ngày em quyết định tìm đến nhà ảnh ở đường T.Q.K., tiệm quay ronéo T.R. Chị ấy xác nhận, ảnh đã chết.”
“Gặp tận mặt?”
“Vâng. Gặp tận mặt. Thời gian đó, em liều lắm. Đó là năm 85, ba em chết ngoài Bắc. Ba em là Đại Tá? Anh biết.”
“Anh biết. Sáng nay, ở đây, những người được truy điệu, dường như có ba em?”
“Vâng. Có ba em. Em ra khỏi nhà, sau bao nhiêu năm, cũng vì chuyện đó. Nhưng…”
“…”
“Nhưng em không nói với ban tổ chức về cái chết của anh Thiệp. Em không muốn ai truy điệu ảnh. Ngoài em.”
“Còn chị Thiệp?”
“Chị Thiệp có chồng khác rồi. Chị lấy cán bộ vào từ miền Bắc… Em, em cần biết chính xác để quyết định ra đi hay ở lại. Nếu chị ấy không xác nhận ảnh đã chết, em sẽ không đi. Em ở lại, tiếp tục chờ ảnh…”
“…”
“Chính chị ấy xác nhận, ảnh bị bắn chết ngoài hàng rào trại, Suối Máu, trong vụ trốn trại đầu tiên. Ảnh và hai người bạn tù, chạy đâu chưa tới trăm thước thì bị bắn. Ảnh trúng đạn trước nhất. Thay vì nằm tại chỗ, ảnh chạy nữa… Xác ảnh được kéo về trại. Mãi năm sau, người ta mới báo tin, trao lại cho chị, ít vật dụng…”
“Nhiều không?”
“Không gì cả, ngoài mấy tấm ảnh vợ con, cây thánh giá nhỏ, cái ống vố em ăn cắp của ba em, mang cho ảnh ngày xưa, và con dao. Con dao, vật nhọn duy nhất ảnh có, để… trốn trại.”
“Chị ấy giữ những di vật đó?”
“Không. Chị biểu chị đã vứt đi từ đời nào rồi. Chị biểu, giữ làm gì những của nợ đó. Em còn nhớ, chị vừa nói vừa thản nhiên đưa tay xoa bụng.”
“Xoa bụng?”
“Vâng. Xoa bụng. Lúc đó, chị ấy đang mang thai đứa con thứ hai với người chồng cán bộ. Em không biết mấy tháng. Chỉ thấy bụng chửa vượt mặt.”
Gặp lại Phương trong buổi sáng thứ nhì, ở Minnesota, với tôi là một bất ngờ, bẽ bàng. Tôi không biết phải nói, phải dùng lời gì để an ủi Phương?!! Khi những giọt nước mắt xát muối và ớt, lăn xuống từ đôi mắt Phương thất thần nắng, gió.
Tôi biết tin vợ Thiệp lấy cán bộ từ những năm đầu thập niên 80, trước khi tin Thiệp trốn trại. Tôi không có ý trách cứ vợ Thiệp, dù bằng vào nhân danh nào. Đời sống, những năm chiến tranh, những tháng, ngày lưu lạc thứ nhất nơi quê người, đổi thay tận gốc quan điểm của tôi về người nữ.
Tôi cho tội ác lớn nhất của những người cầm đầu chế độ cộng sản ở Việt Nam, sau chiến tranh, không phải là sự lường gạt những kẻ thua trận với thông cáo đi học tập 30 ngày…; mà, do nơi chủ tâm tàn phá tận gốc rễ nền tảng gia đình của những người thua trận. Họ không chỉ cầm tù những người thua trận! Họ chôn sống tập thể đám vợ, con của những người thua trận trong vũng bùn bản năng sinh tồn. Nhu cầu bao tử. Chỉ một sớm một chiều, hàng chục ngàn người đàn bà vô tội đã phải vục mặt xuống những bãi rác tanh tưởi của mẩu khoai sùng, sợi mì mốc Liên Sô… Để có được những thứ này nhét vào bao tử, họ đánh đổi thân xác. Xóa sạch tình nghĩa tào khang…
Rất nhiều bằng hữu tôi, khi ra tù, mới vỡ nhẽ, vợ con họ đã lấy cán bộ, đã ăn nằm, đã hầu hạ, đã ôm ấp, nâng niu kẻ giam nhốt, đầy đọa chồng, cha và, chính họ. Rồi một đám con cái lúc nhúc ra đời, từ những cơn cào xé của bản năng và, nhu cầu bao tử ấy.
May mắn thay, bên cạnh, chúng ta cũng vẫn có những người đàn bà đủ khinh bạc, tự trọng để ngạo mạn đứng trên bản năng. Tôi nghĩ, chúng ta phải đắp tượng, phải xây đền thờ những người đàn bà Việt Nam tiết liệt này.
Bạn tôi, những Long, Dzĩnh, Nhơn, Phương Triều, Anh Thư, Như Anh, thậm chí, Mục sư Oan…, cũng đâu biết, Minnesota, không chỉ cho tôi hương thơm của tình thân, hơi thở của ký ức; mà, Minnesota, còn mang lại cho tôi mùi chiến tranh, mùi thuốc súng, mùi biệt ly; và, cả mùi cuồng điên một thời tuổi trẻ tôi, nữa.
Phương nhắc những lần tôi phải nhờ nàng chuyển thư của tôi cho M.Ng. ở Cư xá Sĩ quan Chí Hòa. Khi đó, Ng. học troisième, Marie Curie. Những buổi tối, tôi bỏ trực; Ng. trốn nhà ra cây nhãn dại, bên hàng rào, ngăn cách cư xá với con lạch nhỏ và khu nghĩa trang Chí Hòa, xưa.
Tựa lưng vào cây nhãn chênh vênh, tàn lớn ngã nghiêng vào lòng con lạch, chúng tôi cố thu nhỏ bóng mình dưới tàng lá thưa, thấp. Thấp. Chúng tôi trải qua những giây phút treo cổ trên sợi dây dục vọng, Những cố gắng chiếm đoạt của tôi, làm Ng. đau đớn bật kêu, dù cho trước đó, Ng. đã cố cắn môi nín, nhịn. Những tiếng kêu cho tôi cảm tưởng vang động tới chỗ nằm của mẹ tôi, anh chị Q. tôi, ở lô C., gần đấy. Những tiếng bật kêu ngắn, nhưng nhọn hoắt, xuyên thủng lớp vỏ bọc êm đềm khu cư xá…
Tôi không kể Phương nghe, Ng., từng là một phần thịt xương, máu huyết của đời tôi, riêng. Tôi không kể Phương nghe, sau này, Ng. làm Fly Attendant cho hãng Japan Airline. Tôi không kể, một năm, trước tháng 4-75, Ng. hẹn tôi trong khuôn viên trường Luật, hỏi ý kiến về lời cầu hôn của P., bạn tôi. Tôi bảo, tôi biết P. đang là ca sĩ nổi tiếng. Tôi bảo P. là ngựa chứng. Phải có một nài giỏi… Tôi nhớ Ng. hỏi lại, bộ tôi không buồn chuyện Ng. có người muốn lấy sao?
Tôi nhớ, tôi đáp, đại ý:
“Đôi khi quá đau đớn, người ta chẳng thể có phản ứng nào khác hơn gượng cười!”
Nước mắt, những giọt lệ tức tưởi của Phương, trong buổi sáng Minnesota đầy nắng ấm, khiến tôi chợt thấu, hiểu, tôi không thể ước ao, chờ đợi gì hơn, nơi người con gái kia. Nơi những người phụ nữ Việt Nam, một khi họ đã phải đưa đôi vai lá mỏng của họ ra, gánh chịu nghiệp lực đất nước.
Tôi chợt thấu, hiểu, tôi không thể ước ao, chờ đợi gì hơn, nơi người con gái kia, nơi những phụ nữ Việt Nam, một khi chính họ đã phải mang sự sống treo ngành, trái tim dễ vỡ của họ phơi trên giàn lửa, sóng?
Nhờ họ, (những người nữ lịch sử không ghi công, bia đá không tạc ơn, như người đàn bà mà tôi và, Hạnh gọi một cách yêu mến là Mẹ Việt Nam hiện đang ở chung cư Cedar, như bà Tiên, bà Cẩn…, ở Saint Paul, bà Nghĩa, ở Palm Spring, bà Khang ở San Jose, và, hàng nghìn người phụ nữ khác, chúng tôi không biết tên,) mà, hơi thở Việt ở quê người hay quê nhà, hôm nay còn thơm tho, mật ngọt tình, nghĩa.
Nhờ họ, sinh mệnh Việt, những đời sau, còn có thể hãnh diện, ngẩng đầu. Chính họ mang linh thiêng và, sự tốt đẹp làm thành truyền thống Việt. Chính họ làm dân tộc Việt trở nên cao quý. Hãy hình dung dòng giống ta trải bao đời, ra sao? Nếu không có những người đàn bà, như thế?
Cuối cùng, tôi chợt thấu, hiểu, tôi không thể chờ đợi, đòi hỏi gì hơn, khi biết chắc, ít ra, linh hồn bạn tôi, linh hồn người tù cải tạo oan thác Nguyễn Thiệp, còn có một nơi chốn để trở về?
Đó là trái tim, ngôi nhà tình yêu nát, ngấu, đợi chờ của Phương.
Cuối cùng, tôi chợt thấu, hiểu, lý do Phương không muốn đưa tên Nguyễn Thiệp, đưa bài vị người tù cải tạo này vào danh sách những người tù uổng tử, để truy điệu, để cầu siêu (dù cùng với cha nàng.) Theo ý Phương, mọi truy điệu, cầu siêu chỉ thực sự cần thiết khi những linh hồn kia, đã không còn có được một nơi chốn hằng cửu, để trở về.
Cuối cùng, các bạn tôi, những Long, Dzĩnh, Nhơn, Phương Triều, Anh Thư, Như Anh…, thậm chí Mục sư Oan, cũng đâu biết, Minnesota không chỉ mang lại cho tôi, hơi thở của tình thân, hương thơm của ký ức; mà, Minnesota còn mang lại cho bạn tôi, Nguyễn Thiệp, một nơi chốn để về. Một cõi yên bình thực sự: Để an nghỉ. Trường hợp (nhiều phần trăm,) nếu vì lý do gì, Thánh Phê Rô không thể mở rộng cánh cửa thiên đàng cho Thiệp…
Cuối cùng, Minnesota cũng còn mang lại cho tôi, câu nói thâm trầm, chém đá của Stephen Young, giai tế của cộng đồng Việt ở quê người. Một buổi chiều, giữa Minnesota nắng và, gió; đoàn tụ và, chia lìa; hoan lạc và, tủi, nhục; hiện diện và, mất tích…, Stephen Young nói:
“Người Việt Nam đặc biệt hơn các dân tộc khác, ở chỗ, qua chính tâm hồn họ, họ đã tương thông được với Thượng đế, hay một đấng thiêng liêng nào đó, ở trên cao, rất cao”
Hôm nay, nhiều ngày sau khi đã trở lại với đời sống eo óc thường nhật của mình, ở California, tôi muốn nói với người con rể của Việt Nam luân lạc rằng:
“Tôi không thể đoán Stephen sẽ nghĩ gì, khi biết dân tộc Việt Nam còn có những phụ nữ tự biến họ thành một trang thờ (trong tâm,) một mái nhà (buồn bã,) một nơi chốn (đìu hiu,) cho linh hồn người chết, trở về? Và, linh hồn lạc loài này, có thể làm một cuộc định cư êm đềm, vĩnh viễn.
Du Tử Lê
Châu Thụy, Tháng 4,
Văn Chương Và,
Đường Bay Nghệ Thuật Khác
Hơn một năm trước đây, khi viết về Châu Thụy, “cha đẻ” của hệ phái “Bút Họa” đi ra từ “Thư Họa”, tôi đã trộm nghĩ, tôi sẽ không ngạc nhiên, nếu một ngày nào Châu Thụy làm thơ hay viết văn.
Tôi có ý nghĩ này khi nhận ra tính chất sáng tạo mạnh mẽ trong những bức “bút họa” phối hợp được cả hai lãnh vực đường nét và, chữ nghĩa.
Nhưng, khi nhận được bản thảo “Vực Xoáy” của Châu Thụy thì, tôi thực sự ngạc nhiên.
Tôi ngạc nhiên không chỉ vì khả năng kể chuyện của Châu Thụy. Chỉ riêng mặt này thôi, Châu Thụy đã khiến người đọc dễ lầm tưởng như thể bi kịch trong “Vực Xoáy” là một thứ hồi ký của chính tác giả. Khi “Vực Xoáy” được Châu Thụy đẩy tới những đỉnh điểm cao nhất của bi kịch thì, người đọc mẫn cảm, có thể chảy nước mắt.
Nhưng điều mang lại cho tôi sự ngạc nhiên lớn, lại chính là khả năng mô tả của Châu Thụy. Từ tả tình, tả cảnh, tả người, tới những ghi nhận sắc, bén của ông, khi bước vào phạm trù tâm lý người nữ, vốn phức tạp, vi tế…
Độc giả Việt Nam đa số không có thói quen phân biệt giữa một người kể chuyện (Story Teller) – Là người chỉ chú trọng tới những diễn biến câu truyện mà, không hề bận tâm hay ý niệm gì về lãnh vực mô tả. Trong khi với một nhà văn (Writer) thực sự thì, mô tả cũng là phần rất quan trọng. Nó làm nên khác biệt giữa nhà văn này với nhà văn khác, khi cùng ghi nhận tả một cảnh vật, một hiện tượng…Ở lãnh vực văn chương, tự hồi nào giờ, vẫn hiện diện một bức tường ngăn cách lớn, giữa hai loại nhà văn này.
Với tôi, qua “Vực Xoáy” Châu Thụy thực sự là nhà văn đúng nghĩa, ngay tự những chương sách thứ nhất của ông.
Đây là đoạn nhật ký thứ nhất của Vân (nhân vật nữ, trung tâm của “Vực Xoáy”,) qua khả năng “phân thân” của Châu Thụy:
“Ngày Tháng Năm…
“Hôm nay là ngày đầu tiên mình gặp anh. Không biết phải bắt đầu viết như thế nào đây? Sao tâm trạng mình rất lạ, cứ bồn chồn, nôn nao vui buồn lẫn lộn.
Khi anh đến, lúc mình đang nấu cơm ở phía sau. Anh đi cùng với ba người đàn ông khác, một người hơi đứng tuổi, còn hai người kia trạc cỡ tuổi anh. Anh cao ốm, trắng trẻo và hơi xanh xao. Sau khi được giới thiệu, mình cúi đầu chào mọi người. Một cái gì đó trìu mến từ trong ánh mắt và cử chỉ của anh. Tự dưng nhìn thấy anh, lòng mình bỗng xao xuyến, ngượng ngùng… thật kỳ lạ.
Anh cao quá, mình cứ sợ anh sẽ va đầu vào khung cửa. Không biết vì lo lắng cho anh hay là vì lần đầu gặp gỡ?
Sao tim mình lại đập dồn dập lạ thường mỗi khi nhìn thấy anh?…”
Và đây, tác giả mô về một trong những bức tranh mà Vũ, nhân vật nam chính trong “Vực Xoáy” nói về những bức tranh được vẽ thời niên thiếu. Không vững tay, nhà văn sẽ khó diễn tả các khía cạnh chấp chới giữa đường nét và, thông điệp mà bức tranh đem lại. Bởi vì tranh là một vật thể chết. Nó không sinh động như cảnh vật, hoặc con người:
“Hồ Dzếnh không dùng thủ pháp của cây cọ hay màu sắc lộng lẫy mà vận dụng sức mạnh của ngôn từ, ông phác họa được những đức tính cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Còn riêng tôi, qua nét bút tôi vẽ lên tâm hồn cùng vẻ đẹp của người con gái thể hiện trên khuôn mặt đơn sơ mộc mạc, với những đường nét tinh khiết của nàng.
“Trong khung cảnh tĩnh lặng, những bức tranh với nét mực đen trên nền giấy trắng đầy vẻ huyền bí. Và dưới ánh trăng mờ ảo lùa vào từ bên ngoài qua những kẽ hở. Tất cả khởi động thêm nét đẹp lung linh, sinh động và rất quyến rũ. Tôi nhắm mắt lại để những cảm giác dịu dàng không thể diễn tả tiếp tục luân chuyển trong dòng máu. Và hình ảnh cô gái đó đang len lỏi vào tâm trí tôi, và ở lại mãi mãi…”
“Tôi cảm thấy bị cuốn hút bởi điều bí ẩn và miên man chìm sâu vào những suy tư đến khó hiểu. Mở lại những tấm hình đã vẽ, tôi không nhớ mình đã lặng ngồi như thế bao lâu, mà chỉ còn thấy ngọn lửa đam mê nghệ thuật đang bùng cháy trong tôi. Những hình ảnh móc nối, liên tục với nhau tạo nên một đoạn phim ngắn. Qua bao thăng trầm đổi thay của một thời thơ ấu không phải chỉ riêng nàng. Trong đó có cả tôi và những tâm hồn thơ ngây bất hạnh đang sống trong một thời điểm bi đát nhất, dứt khoát không có ánh sáng ở cuối một con đường hầm sâu hun hút…!”
Đoạn nhật ký thứ hai trong “Vực Xoáy” của Châu Thụy, với tôi, là một đoạn ghi nhận tâm lý người con gái mới lớn, trước rung động lạ lẫm nơi bậc thềm thứ nhất của một tình yêu mới chớm:
“Ngày Tháng Năm…
“Đã mấy hôm rồi, sao tâm trạng mình cứ nôn nao lạ thường. Mình nhớ hoài đến ánh mắt của anh. Ánh mắt đó đã cho mình một cảm xúc thật khó diễn tả, bồi hồi, vui buồn xen lẫn… Mỗi khi đi qua chỗ anh đang ở, mình cố gắng để không nhìn về hướng đó, nhưng mình có cảm tưởng hình như có một ai đó đang theo dõi. Vì cũng ở đó, mình đã gặp ánh mắt ấy, ánh mắt với bao nồng nàn, thu hút đã làm mình thật bối rối, thật rung động…
“Anh có biết là ánh mắt của anh luôn luôn in đậm trong tâm trí em không? Và khi làm việc ngoài vườn em không còn đủ tập trung, đầu óc suy nghĩ vu vơ đến xao lãng công việc. Để hôm nay, Ba cũng có thể nhìn thấy và ghẹo hỏi: ‘Ai lấy mất hồn con gái của tôi rồi?’ Mắc cỡ quá vì Ba đã nhận ra những thay đổi khác thường của em.
“Mình mong chờ tới giờ ăn, để được đưa mâm cơm ra chỗ anh ở, để nghe giọng nói của anh. Giọng người Bắc sinh trưởng trong miền Nam nghe là lạ, nhẹ nhàng nhưng cũng đủ làm cho mình lúng túng. Nếu như anh không kịp đưa tay ra đỡ, chắc mình run rẩy đã làm rớt mâm cơm. Mình cố gắng giữ vẻ tự nhiên.
“Xấu xí thế này, ai mà thèm để ý đến. Thật là hư!”
Mô tả một đêm mưa trong “Vực Xoáy”, là một trong những đoạn văn tả cảnh khá đẹp của Châu Thụy:
“Ngoài kia, mặt trời đã khuất, nhường lại ánh sáng cho một buổi chiều thu. Gió thổi mạnh từng cơn lành lạnh. Bầu trời bỗng trở nên đen thẫm và mưa bắt đầu như trút nước. Mưa càng lúc càng nặng hạt, tiếng vỗ của giọt nước đổ rào rào trên lá cây. Những tia chớp xé rách bầu trời, mang theo những tiếng sấm ầm vang. Bác Tâm, Vân và tôi chạy nhanh vào trong lều để trốn mưa. Chúng tôi ngồi bên bếp lửa hồng. Trò chuyện trong tiếng nổ tí tách của than củi hòa cùng tiếng nổ của những hạt bắp no tròn, trắng ngà. Như trong chuyện hoang dã, ba mái đầu ngồi chụm bên nhau trong căn lều thô sơ. Nhìn bên ngoài, làn mưa đang chia cách chúng tôi với cuộc sống hiện tại. Mặc cho mưa rơi, cho côn trùng bắt đầu rên rỉ. Riêng chúng tôi vẫn nhận được hơi ấm trong từng cõi lòng và trong từng lời nói của nhau. Thật đơn giản, một khoảnh khắc bình yên và thanh thản lạ lùng. Tiếng mưa vẫn rộn rã, bên làn sương nước dày đặc. Không ai đợi chờ, không ai vướng bận, cũng không ai hối hả hay vội vã, cứ như thể là rất rảnh rỗi. Tất cả đang mờ nhạt dần và tan biến vào hư không, chỉ còn dòn dã tiếng mưa rơi. Dường như thế giới đang tạo dựng một thiên đường riêng cho cả ba tâm hồn.”
Tôi có thể trích dẫn hàng chục đoạn nhật ký của Vân, linh hồn của “Vực Xoáy”; hay những mô tả đầy thi tính về sự vật của Châu Thụy…Nhưng tôi nghĩ, tôi sẽ thật không phải, thật có lỗi…nếu không dành quyền khám phá (quyền tối thượng) của người đọc!?!
Vì thế, tôi xin được ra khỏi bài viết này, với lời cảm ơn Châu Thụy. Cảm ơn “Vực Xoáy” đã cuốn hút tôi xuống tận đáy cùng cảm-thức hạnh phúc và xót xa, hân hoan và thốn đau trong “Vực Xoáy”…
Em Gầy Như Liễu
Trong Thơ Cổ
Du Tử Lê
“Em gầy như liễu trong thơ cổ
Anh bỏ trường thi lúc Thịnh Đường”
* Thơ Nguyên Sa
Tôi không biết điều gì khiến mỗi lần gặp H. (dù thản hoặc), hai câu thơ của nhà thơ Nguyên Sa lại hiện ra trong tôi, như một tiền thân xa xôi mà, quá đỗi gần gũi: “Em gầy như liễu trong thơ cổ / anh bỏ trường thi lúc Thịnh Đường.”
Thời gian trong quân đội, tuy không đi nhiều lắm, nhưng tôi từng phải theo những cuộc hành quân qua nhiều vùng điệp trùng cát trắng, hay giữa rừng núi không một mái nhà, chẳng một mụn khói. Nhiều lúc chúng tôi bị xập bẫy thời điểm bà mẹ thiên nhiên chuyển dạ, phẫn nộ, nổi giận với những trận bão lớn. Để mưu sinh, thoát hiểm, chúng tôi được khuyên hãy ôm lấy bất cứ một vật cản nào, miễn thân xác nhẹ bâng của mình, không bị gió bốc, hút lên, như một cọng rác! Đó là những lúc tôi thấy sinh mạng mình không thể nhỏ bé, vô nghĩa hơn, giữa lồng lộng mịt mù bến, bờ sinh, tử.
Tôi từng chứng kiến những thân cổ thụ bị bão bứng gốc, ơ hờ như
người buồn tay, nhổ vài cọng cỏ. Tôi cũng từng nghe tiếng tét mình, chảy máu của những cành xanh xum xuê, bị bão buồn tay lắt khỏi thân vạm vỡ…
Tuy nhiên, chưa một lần nào, tôi thấy cảnh một thân liễu mong manh, bị bão túm tóc, thẳng tay ném vào vô tận!
Tôi muốn nói, tôi thấy chứ, cảnh những thân liễu bị bão đè đầu, nhận xuống mặt đất hay mặt nước. Nhưng chỉ cần một phút bão lơi tay, liễu lại đứng lên. Rực rỡ rì rào. Tự tin sửa lại dung nhan, hắt bóng mình trên những vùi dập, đổ nát, chung quanh.
Tôi không biết sự dài dòng của tôi về liễu, có phải bắt nguồn từ một tương quan hữu cơ nào đó, với hình ảnh H., (trước, trong và, sau) những lần gặp gỡ?
Tới nay, dù đã bao năm, tôi vẫn không thể có cho mình một câu trả lời rốt ráo! Tôi chỉ có thể nói, trong đời, tôi được gặp nhiều người nữ gầy…như liễu. Nhưng chưa một người nào khiến tôi liên tưởng hay, có khả dắt tay tôi bước vào, để thấy được khác biệt giữa liễu và “liễu trong thơ cổ” của thơ Nguyên Sa, như hình ảnh tôi bắt gặp, tìm thấy nơi H. (Một góc khuất, tư riêng của tôi?)
Cũng có thể tôi đã từng gặp những người nữ gần với “liễu trong thơ cổ” của nhà thơ này… Nhưng khi đó, ông chưa cho tôi hai câu thơ kia. Tôi thiếu ngọn hải đăng rọi sáng vụng biển đêm tối cảm thức hoang vu của mình?
Phải chăng, giữa một câu thơ của Nguyên Sa và, rung động tôi về H. đã như một hạnh phúc bất toàn?
Lại thêm một câu hỏi tôi không thể tự trả lời và, cũng không tin một ai khác, có thể trả lời giúp!
Điều rõ nhất – như một quầng sáng, một vệt sao rơi – không mất hút trong tôi, đó là hình ảnh H… “như liễu trong thơ cổ”, trở thành một ám ảnh, thôi thúc âm trầm, ngày càng tăng cường lực thân thiết trong tôi, sau mỗi lần gặp H.
Sau mỗi lần gặp lại H., ngồi với nhau, xế trưa, từ đôi mắt biết cười của H., tôi cảm được tiếng rì rào của “liễu trong thơ cổ”. Như cảm được bước đi lui, nhập chung đời sau và, kiếp trước những lần đất, trời thất lạc.
Sau mỗi lần (hiếm hoi) gặp lại H., ngồi với nhau, khuya khoắt, khi mái đầu H. cúi trên ly café, tâm hồn tán lạc trời nào(?), tôi lại có cảm nhận H., như một thân liễu vừa đứng lên. Sửa lại dung nhan, hắt bóng mình, không phải trên những vùi dập, đổ nát, chung quanh mà, trên chính cảnh tượng đời H. Cùng lúc, tôi cảm được mùi da thịt thanh xuân sớm trải qua tai ương của H. (Góc khuất, tư riêng của tôi?)
Đó là những lần (không họa hiếm), tôi những muốn ôm H. như ôm ấp niềm vui khôn tỏ của mình. Tôi muốn nghe được gần hơn, rõ hơn nhịp đập trái tim H. Cái tâm biểu đồ gập ghềnh những mạch máu trần gian. Thác. Ghềnh.
Đó là những lần (không họa hiếm), tôi những muốn đưa tay, vuốt mái tóc H. như vuốt ve buồn bã tiền thân tôi, kiếp nào, trên đường về hiện tại…
Nhưng, cũng không biết bao lần tôi những tưởng sẽ nghe được một tiếng thở dài, dù nhẹ, thoảng từ lồng ngực hương cốm của H… Và, cũng bấy nhiêu lần, tôi muốn cầm lên những ngón tay lá liễu của H.
Tôi nghĩ, tôi sẽ cúi xuống. Sẽ hôn chúng. Như hôn niềm hãnh diện trộn lẫn ngậm ngùi của một tình cảm (mặc cảm?) giấu kín.
Tôi nhớ, đôi lần, được đi với nhau giữa Saigon, dưới ánh đèn đường lỗ mỗ và, cành, lá với những chiếc cọ khô chết nước sơn, chao chát vẽ những bức tranh đen, trắng khuyết tật, lên hè phố…Như những ám dụ ngày mai không có tôi. Ngày mai không hề có tôi, bên H. Nhưng tôi vẫn thấy mình hạnh phúc! (Vì hạnh phúc là những lênh đênh vẫy gọi, ngoài tay vói?) Một hạnh phúc bất toàn / may mắn?
Vâng, tôi nói, may mắn, chí ít cũng hơn những mảnh đời rách nát, rúm ró nơi những mái hiên nhỏ tí, của những phận đời bèo bọt. Nơi những tiếng nói mớ, hắt ra, xua đuổi ác mộng của những kẻ không nhà…
Tới giờ, dù rất muốn, tôi vẫn không thể nhớ chúng tôi đã nói với nhau những gì?!? Nhưng khi tiếng cười hồn nhiên của H. như những đóa quỳnh, chao chát nở ngát trên cao, trước khi rớt xuống tôi, thành những bông hoa khác. Những bông hoa không tên gọi!
Đó cũng là lúc tôi nghe những chiếc lá (tưởng tượng?) bằng đôi chân niên thiếu, chúng hối hả chạy trên hè phố, xóa đi những bức tranh đen, trắng khuyết tật, để vẽ thành những bức tranh khác. Những bức tranh có tôi, ngày mai, bên H.(?)
Tôi không biết có phải những bất tường, những câu hỏi không được trả lời, đã nấu chảy tôi trong vạc lửa khát khao của vô thức(?) – – Khi chiếc thang máy vừa khởi động, đưa H. lên căn hộ trên tầng lầu cao nhất của nàng – – Một lực đẩy vô hình đã xô tôi vượt qua vạch phấn (lời nguyền tự nguyện?) bấy lâu. Tôi hôn H. Nụ hôn ngắn. Vội. Vụng về. Ngờ nghệch. Nụ hôn không đi ra từ tôi. Nó đi ra từ một góc khuất, tư riêng?
Lúc sực tỉnh, tôi tránh không nhìn vào mắt H. (Đúng hơn, chúng tôi tránh không nhìn nhau. Tựa nếu nhìn nhau, chúng tôi sẽ chỉ có một trong hai chọn lựa: Thù ghét. Hoặc nhập chung. Làm một).
Không phải tôi sợ không thấy được những nụ cười từ đôi mắt biết cười kia. Mà, tôi sợ chính…tôi. Tôi sợ trong khoảng khắc thời gian mông muội còn lại, trước khi chia tay, tôi sẽ đi xa hơn. Sẽ xiết, ghì cây liễu…trong thơ cổ của tôi. Như xiết, ghì “ngày mai, không có tôi bên H.”
Khi viết xuống những dòng chữ này, tôi cũng không mong H. đọc được. Tôi muốn giữ chúng cho riêng mình. Như giữ giấc mơ một ngày nào có nhau, một-góc-khuất-nhân-gian. Tôi sẽ nghe được gần hơn tiếng chuông ngân của lá. Hay hương mật trái chín chia ly?
Giữ cho riêng mình, tôi nghĩ, tôi sẽ được thấy gần hơn, hình ảnh, tự tin, soi, hắt dung nhan H., trên cảnh tượng của chính đời H.
Từ đấy, tôi nghĩ, tôi cũng sẽ cảm được mùi da thịt thanh xuân sớm trải qua tai ương của H. Như sớm mai, nhiệt đới, tầm tã dự cảm những cơn mưa trên vẻ-đẹp-lẻ-loi-rì-rào-cô-quạnh!
Cũng từ đấy, tôi nghĩ, tôi sẽ đọc chậm dãi H. nghe, hai câu thơ của Nguyên Sa:
Em gầy như liễu trong thơ cổ / anh bỏ trường thi lúc Thịnh Đường.
Tôi tin H. hiểu.
“H. hiểu?”
“Cách gì, xin hãy cứ để tôi tin…H. hiểu”.
.
Trên đường về lại nhà mình, đêm đó, Saigon dường có nhiều hơn ánh đèn lỗ mỗ và, những cành, lá dường cũng có nhiều hơn những chiếc cọ khô chết nước sơn, hăm hở vẽ trên hè phố nhiều thêm, những bức tranh đen, trắng khuyết tật…Như những ám dụ ngày mai không có tôi!
Nhưng, không hiểu vì đâu, tôi cũng nghe được nhiều hơn tiếng cười hồn nhiên của H. Như những đóa quỳnh chao chát nở ngát trên cao, trước khi rớt xuống tôi, thành những đóa hoa khác. Những đóa hoa trong một góc khuất, tư riêng đời tôi. Không tên gọi!?!
Thả Nốt Vầng Trăng
Xuống Đáy Vườn.
Du Tử Lê
Tới hôm nay, khi ngồi xuống, viết những dòng chữ này, tôi vẫn không hiểu điều gì khiến tôi quyết định trở lại ngôi nhà của bạn tôi, Hùng Nguyễn ở thành phố Fairfax, tuần lễ cuối tháng Mười vừa qua. Chẳng biết có phải vì lời khuyên của Nguyễn Thế Toàn, người bạn thời niên thiếu (từ lâu, đã là một thành viên trong gia đình nhỏ bé của chúng tôi)? Hay vì tôi sợ rồi đây, tôi sẽ không còn cơ hội trở lại?
Dù tôi vẫn tin “lịch sử đã bắt đầu” từ mối tương thông giữa kẻ sống và, người chết (mà) cây cỏ là nhân chứng thứ nhất. (1)
Nhưng chẳng vì thế tôi lạc quan cho rằng, những cánh bướm màu vàng thau chao chát hư huyễn, lênh đênh nỗi buồn trên đỉnh ngọn rừng thưa maple, nơi vườn sau ngôi nhà bạn tôi là tác nhân chính, vẫy gọi tôi về.
Tôi cũng không lạc quan cho rằng, tiếng sóng biển rì rầm do gió (hay mưa) treo lửng giữa không trung, vẫn nhớ tôi, ngày nào!
Tuy từ hạnh ngộ thứ nhất xa lắc kia, tôi từng viết xuống cho mình, cho bạn, cho chính cánh rừng đó, bốn câu thơ ngắn:
biển vỗ vai mời. mưa xốn xang:
về như hạt bụi chứa không gian
đêm đêm trang sách: bầy dơi động
thả nốt vầng trăng xuống đáy vườn. (2)
Bài thơ phổ biến không lâu, một độc giả hỏi tôi về sự hiện diện hay tương thích của “bầy dơi” trong mấy câu thơ này. Tôi nói, tôi không có thói quen giải thích thơ mình. Riêng lần đó, phần muốn tỏ bày lòng quý, trọng người hỏi; phần muốn giải tỏa mặc cảm thầm kín của một người làm thơ như tôi, ngày càng bị “kết án” chủ trương làm thơ…tối tăm!? Chủ trương “khủng bố tinh thần” người đọc!?!
Tôi giải thích, rằng:
“Bầy dơi” đêm, trong bốn câu thơ đó, không chỉ là liên-tưởng-trực-tiếp của những con chữ hân hoan làm thành những cuộc luân vũ trên trang sách của bạn tôi mà, nó còn mang ý nghĩa của một liên-tưởng-gián-cách. Đó chính là những cánh bướm màu vàng thau (ban ngày), hóa thân thành bầy dơi (ban đêm) lưng chừng trời, bên ngoài những trang sách. Đó cũng là hình thức Hoán dụ / Metonymy (một kỹ thuật ứng dụng trong thi ca.) Đồng thời, nếu dùng kỹ thuật “liên-tưởng-gián-cách” để soi tỏ câu thơ thì, người đọc sẽ nhận ra, giữa trang sách và bầy dơi chao chát hư huyễn, lênh đênh nỗi buồn, đập cánh trên đỉnh ngọn maple kia, còn có một tương quan hữu cơ khác: Tương quan giữa cây và…giấy.
Chưa kể sự “chao chát” (động) của bày dơi còn có công dụng như chiếc cần cẩu, nâng cái tĩnh lặng của đêm, vầng trăng, đáy vườn lên một độ cao, rất cao khỏi cái đáy vườn hiện thực nơi cảnh tượng.
Dường như giải thích của tôi không đủ sáng sủa (?) nên tôi đọc được ít, nhiều thất vọng nơi vẻ mặt ngơ ngác của người hỏi!
Cuối cùng, chị lắc đầu tựa cầm bằng… “thả nốt (cho xong) vầng trăng xuống (ngay chóc cái) đáy vườn” (của nó)!
(Từ đấy, mỗi khi đứng trước câu hỏi về thơ của mình, tôi lại ngần ngại, chỉ muốn co, rút sâu hơn trong chiếc kén…“tối tăm” của mình.)
Kể lại chuyện này, không có nghĩa tôi đã giảm sút gắn bó hay, sinh lòng oán hờn rừng sau ngôi nhà bạn tôi. Trái lại, tôi còn ghi nhận được niềm hân hoan (rất họa hiếm) nơi T., ngay tự buổi sáng đầu tiên, trong nhà bạn.
Tôi không biết T. có mang những cánh bướm màu vàng thau hay, bầy dơi cùng với biển, mưa treo lửng giữa không trung vào trong giấc ngủ của mình (?) Nhưng hiển nhiên, T. đã chìm đắm trong rừng sau của bạn tôi, với chiếc máy ảnh mà, không lâu sau, cái sim trong máy, cho biết, nó đã… quá tải!
Tới hôm nay, khi ngồi xuống, viết những dòng chữ này, tôi vẫn không hiểu điều gì khiến tôi quyết định trở lại ngôi nhà của bạn tôi, Hùng Nguyễn ở thành phố Fairfax, tuần lễ cuối tháng Mười vừa qua. Chẳng biết có phải vì lời khuyên của Nguyễn Thế Toàn, người bạn thời niên thiếu (từ lâu, đã là một thành viên trong gia đình nhỏ bé của chúng tôi)? Hay vì tôi sợ rồi đây, tôi sẽ không còn cơ hội trở lại?
Dù tôi vẫn tin “lịch sử đã bắt đầu” từ mối tương thông giữa kẻ sống và, người chết (mà) cây cỏ là nhân chứng thứ nhất.
Nhưng chẳng vì thế tôi lạc quan cho rằng, bầy dơi đêm đêm chao chát hư huyễn, lênh đênh nỗi buồn trên đỉnh ngọn rừng maple, nơi vườn sau ngôi nhà bạn tôi là tác nhân chính, vẫy gọi tôi về.
Mặc dù ngay tự buổi tối đầu thấy chúng từ sàn gỗ cao của chiếc double-deck, tôi đã “phải lòng” chúng. Như tôi đã “tương tư” những cánh rừng maple Hoa Thịnh Đốn, mùa đông, nhóm lửa lưng trời!
Dẫu vậy, tôi nghĩ, nhiều phần chúng đã quên tôi. Như đã lâu, chúng quên nhiều bằng hữu một thời của Hùng Nguyễn. Những bằng hữu chọn (bị) bước qua vạch phấn dương gian (để xác nghiệm ý nghĩa tận cùng hai chữ cát bụi?)
Trường hợp nào, tôi cũng vẫn cho rằng, giữa tôi và chúng, đã có với nhau một liên hệ khả tín!
Vì thế, ba tuần trước đây, khi gặp nhau trong chương trình “Tình ca muôn thuở” của Phương Hoa / Đăng Khánh ở Houston, tôi nói với bạn:
“Tụi tao sẽ ‘đổ bộ’ vào nhà mày hai tuần nữa.”
Khi dùng hai chữ ‘đổ bộ” tôi ngầm ý cảnh cáo Hùng Nguyễn, có thể chúng tôi (riêng tôi thôi, không có T.) sẽ xáo tung, sẽ xô vỡ cái không gian vốn quanh năm tĩnh mịch của bạn mình. Ý tôi muốn nói trước với bạn tôi rằng, chí ít, bạn tôi cũng sẽ không thể gặp lại những trang sách và, bầy dơi những đêm tôi ở nhà bạn.
Tôi nhớ, Hùng Nguyễn đã tiếp nhận lời cảnh báo của tôi bằng ánh mắt lung linh nhiều dấu hỏi!
Tới hôm nay, khi ngồi xuống, viết những dòng chữ này, tôi vẫn không hiểu điều gì khiến tôi quyết định trở lại ngôi nhà của bạn tôi, Hùng Nguyễn ở thành phố Fairfax, tuần lễ cuối tháng Mười vừa qua. Chẳng biết có phải vì lời khuyên của Nguyễn Thế Toàn, người bạn thời niên thiếu (từ lâu, đã là một thành viên trong gia đình nhỏ bé của chúng tôi)? Hay vì tôi sợ rồi đây, tôi sẽ không còn cơ hội trở lại?
Dù tôi vẫn tin “lịch sử đã bắt đầu” từ mối tương thông giữa kẻ sống và, người chết (mà) cây cỏ là nhân chứng thứ nhất. (Và, Võ Thành Nhân, đã đặt phòng cho chúng tôi ở một khách sạn gần Ngũ giác đài.)
Tôi không nghĩ những pho tượng trổ hoa rêu mốc ở rừng sau ngôi nhà bạn tôi, dang tay mời gọi tôi về, là tác nhân chính. Kể cả chúng còn nhớ, trên, dưới mười lăm năm trước, tôi đã dừng chân. Đã ngắm nhìn. Đã đặt tay thăm hỏi từng phần thân thể thanh xuân bất biến của chúng.
Tôi nhớ, dường giữa tôi và những pho tượng khỏa thân kia, đã có với nhau, một mối liên hệ thầm kín nào đó.
Bằng chứng, ngay những lần ngắm nhìn chúng từ xa, qua khung kính lớn, chúng cũng không quên nhắc tôi dừng mắt nơi chiếc bàn tròn, bốn chiếc ghế trắng, băng ghế sắt sơn đen, kề cận.
Tôi nghĩ, Hùng Nguyễn sẽ không ngần ngại mắng tôi “thằng khùng, ” nếu tôi kể cho bạn tôi nghe, những pho tượng khỏa thân trổ hoa rêu mốc nơi rừng sau ngôi nhà của bạn, từng hỏi tôi:
“Có biết đã bao người ngồi quanh chiếc bàn với những bữa cơm tây sóng sánh rượu chát tình thân tin cậy? Và, bao cặp vợ chồng đã dựa, nép một đời vai nhau, nơi băng ghế sắt sơn đen?”
Lần nào, tôi cũng thành thật trả lời, nếu biết được, tôi hạnh phúc lắm. Nhưng rồi chúng bảo (sau khi nghĩ lại) rằng, thôi! Tốt hơn tôi không nên biết.
Tôi hỏi:
“Tại sao?”
Chúng đáp:
“Bởi nhiều người đã không còn cơ hội trở lại nơi này. Cũng như nhiều cặp vợ chồng đã chỉ còn nhau một đời trong…ký ức. Loại ký ức sát muối nhục nhằn, đổ vỡ. Thứ ký ức lầm than ngộ nhận nắng, gió chông chênh.
Nghe những người bạn khỏa thân ngày, đêm buồn bã thanh xuân nơi rừng sau ngôi nhà Hùng Nguyễn nói tới loại “ký ức sát muối nhục nhằn, đổ vỡ,” loại “ký ức lầm than ngộ nhận, nắng, gió chông chênh,” tôi hiểu chúng nói gì.
Tôi nghĩ những bằng hữu của tôi đa phần đều có lọai ký ức nhục nhằn, ký ức lầm than ngộ nhận trong hành lý đi về cuối đời họ. Phải chăng vì thế, tháng Tám, năm 1992, khi mấy người bạn ở đài Voa và World Bank tổ chức một buổi giới thiệu thơ tôi ở thính đường George Mason (nơi Hùng Nguyễn đã trở thành giáo sư thực thụ nhiều năm trước,) tôi đã chọn đọc một bài thơ cũ (ít phần…tối tăm) cho các bạn tôi nghe. Đồng thời cũng là “ra mắt tôi” với Hoa Thịnh Đốn:
biệt mù trong bước nhau đi
bóng hiu hắt kiếm hồn u mê tìm
tưởng gần nhau giữa môi ngoan
tay khô bỗng lạnh, giọng khàn bỗng câm
tưởng người hương tóc thanh xuân
ủ tôi đêm lạnh cuối phần đời dư
tưởng người thơm ngát hơi mưa
gội tôi đã nẻ mấy mùa xác khô
tưởng người tưởng giữa cơn mưa
sáng ra, thấy một già nua, tôi, ngồi. (3)
Bài thơ hôm nay, nhớ lại, đã có số tuổi trên 30. Trong khi tôi hy vọng, mình có thể bước tới tuổi 70. Quê người.
Tới hôm nay, khi ngồi xuống, viết những dòng chữ này, tôi vẫn không hiểu điều gì khiến tôi quyết định trở lại ngôi nhà của bạn tôi, Hùng Nguyễn ở thành phố Fairfax, tuần lễ cuối tháng Mười vừa qua. Chẳng biết có phải vì lời khuyên của Nguyễn Thế Toàn, người bạn thời niên thiếu (từ lâu, đã là một thành viên trong gia đình nhỏ bé của chúng tôi)? Hay vì tôi sợ rồi đây, tôi sẽ không còn cơ hội trở lại?
Dù tôi vẫn tin “lịch sử đã bắt đầu” từ mối tương thông giữa kẻ sống và, người chết (mà) cây cỏ là nhân chứng thứ nhất.
Tuy thế, tôi vẫn không nghĩ những ngọn đèn tự động bật sáng cắm dọc lối đi bên hông căn nhà Hùng Nguyễn, như những con chim cánh cụt dang tay trong những khoảng cách đều, đêm đêm nhắn gọi tôi cùng những linh hồn vất vưởng khác, trở về, in bước chân mình trên những phiến đá lớn, đã bị lá phong (hóa thân thành những bầy dơi gẫy cánh, vẫy, đập tuyệt vọng dưới thấp) che khuất. Mặc dù trên dưới mười lăm năm qua, có lần tôi đã vịn vai chúng trở về phòng mình một khuya khoắt.
Nhưng nếu có những nghi nan ngỏ cửa, kiên nhẫn chờ câu trả lời thì, cũng có những hiển lộ tình thân cháy lòng! Ở lại.
Tôi muốn nói hai ngày cuối, trước khi chúng tôi trở về Cali, một buổi sáng, Hùng Nguyễn bảo:
“Mày có thể hút thuốc ở phòng ăn này, chỉ cần nhớ mở cửa cho khói thoát ra vườn sau.”
Mấy chiếc gạt tàn được bạn tôi lấy từ chiếc kệ trong garage, mang lên. Chùi sạch. Bày ra. Dưới chùm đèn bạch lạp.
Tôi không biết chúng có nghe được những hồi ho khan của T., khi từ trên lầu bước xuống, cho biết T. phát ho vì khói thuốc?
Trước tình cảnh này, tôi nghĩ, nhiều bạn sẽ khuyên tôi, vì T. mà nên ngừng ngay cuộc trò chuyện với mấy chiếc gạt tàn. Có bạn trầm trọng hơn, nhắc nhở tôi, bài học tôn trọng phụ nữ…Nhưng thưa bạn, tôi dám chắc, cũng như tôi, những chiếc gạt tàn đã “cháy lòng” trước tình thân mà chủ chúng ưu ái dành cho khách phương xa.
Lại nữa, rất tiếc, thưa bạn, câu chuyện hào hứng của chúng tôi, chỉ mới bắt đầu. Sự “rôm rả,” nếu có thể nói được như vậy, của chúng tôi là “một rôm rả’ riêng. Tôi muốn nói, sự “rôm rả” của những mẩu thuốc ấm áp trong lòng những chiếc gạt tàn bao năm, hiu quạnh.
Mấy chiếc gạt tàn hỏi tôi có biết, ông chủ ngôi nhà rất chăm chút những chiếc máy tập thể dục ở tầng trên. Nơi hàng ngày ông bước vào, ở lại rất lâu, để phục vụ cái chúng gọi là “Kế hoạch kinh tế ngũ niên / Hùng Nguyễn / Body builder.”
Tôi nói, tôi biết. Tôi thấy chứ. Nguyên một căn phòng trên lầu, được bạn tôi dùng làm phòng “trưng bày” dụng cụ thể dục. Từ máy chạy bộ qua tới những quả tạ size nhỏ, size lớn… Những bộ tạ chỉ thoáng thấy thôi, tôi đã…hết hồn. Rón rén lùi xa…
Tôi nói, tôi chỉ không hiểu khi các bạn đặt “kế hoạch kinh tế ngũ niên” song hành với “body builder?” Tôi không hiểu vì tôi nghĩ hai lãnh vực này chẳng ăn nhậu gì với nhau.
“Nó ‘lệch pha.’” Tôi nói.
Các bạn gạt tàn của tôi cười một cách láu cá, đáp:
“Đó là chuyện ‘ai cũng biết, chỉ một người không biết’. Người không biết ấy chính là …ông đấy!”
Rồi như để tôi khỏi mặc cảm về sự chậm đụt, ngu dốt của mình, các bạn gạt tàn lại hỏi tôi, có biết, tôi là người đầu tiên sau mấy chục năm được ông chủ của họ cho phép hút thuốc trong nhà?
Tôi bảo, cái này thì tôi biết. Nó như một thứ chuyện “truyền kỳ mạn lục.” Tôi sẽ mãi nhớ. Dù nó có là:
“Sự lầm lẫn của…phép lạ!”
Các bạn gạt tàn của tôi cười nghiêng ngả.
Nếu bạn tin tưởng được nơi cặp mắt cận thị của tôi, thì tôi xin kể ngay rằng, các bạn gạt tàn của tôi có lấy tay che miệng. Nhưng chẳng nhờ thế mà những chiếc kính đọc sách, để sẵn, rải rác khắp nơi trong ngôi nhà bạn tôi bớt giật mình, kinh hãi!
Đợi cho các bạn gạt tàn của mình dịu xuống cơn vui, tôi hỏi, phần họ, họ có tin phép lạ (dù lầm lẫn,) vẫn có thể xẩy ra nhiều lần?
Các bạn gạt tàn của tôi đáp bằng một so sánh rất “hiện thực xã hội” rằng:
“Mới đây, có người hai lần trúng số độc đắc chỉ trong vòng vài tháng. Nhưng chúng tôi không tin ông chủ sẽ cho chúng tôi được “leo” lên bàn, chơi với ông như thế này, một lần nữa!”
Tôi nói, đầy tự tin:
“Vé số, phép lạ, nhầm lẫn, gạt tàn…giống như những cuộc tranh tài thể thao hàng năm. Các lực sĩ vẫn thay nhau phá kỷ lục cũ. Từ đó, tôi tin, tương lai khi chúng tôi trở lại ngôi nhà này, bạn tôi đã có một bộ tạ mới. Một bộ tạ có trọng lượng nặng hơn số cân hiện tại của tôi! Đồng thời, thay vì chỉ hai chiếc gạt tàn, có khi bạn tôi sẽ mang lên nhà cho tôi từ ba, tới bốn cái…
“Vấn đề là tôi còn không, để trở lại…”
Không bảo nhau, những người bạn gạt tàn đang vui, bỗng trùng xuống. Họ thấp giọng, lập lại:
“Vấn đề là…còn không, để trở lại…”
Tôi nói, đúng thế! Đúng thế!
Mặc dù, rừng sau ngôi nhà Hùng Nguyễn sẽ mãi còn đó. Như sự mãi còn của những cánh bướm mầu vàng thau (ban ngày), hóa thân thành bầy dơi (ban đêm) vẫn chao chát hư huyễn, lênh đênh nỗi buồn; cùng tiếng rì rầm của sóng biển (hay mưa), treo lửng không trung…
Mặc dù, những pho tượng khỏa thân vẫn đứng đó, với những hoa rêu mốc mọc thêm, ngó xuống những chiếc ghế trắng mỏi mòn ngước lên chiếc bàn và, băng ghế sắt sơn đen, chìm sâu trong đón đợi những cặp vợ chồng, những đôi tình nhân, sẽ đến từ nhiều chân trời khác…
Mặc dù, dẫy đèn như những con chim cánh cụt dang tay trong những khoảng cách đều, (tôi tin) cũng vẫn còn đó. Chúng vẫn nhẫn nại chờ những bước chân (sự trở về) của những linh hồn khát bạn. Cháy bỏng. Long đong…
Nhưng, tôi nghĩ, nhiều phần sẽ không ai cất tiếng hỏi, như tôi những ngày qua, từng hỏi rừng maple rằng, không biết sau chúng tôi, ai sẽ là người bước vào, ở lại cùng bướm, dơi, biển, mưa, gió, nắng và tượng vườn sau…đời sống này?
Riêng tôi, tôi biết! Tôi đã. Tôi đang thả nốt những mùa trăng cuối của mình, xuống đáy vườn sau ngôi nhà bạn tôi, Hùng Nguyễn, với băn khoăn:
“Trước và sau chúng tôi, ai đã / sẽ là người đến, ở với cánh rừng nọ?”
Cũng vậy. Tôi đã. Tôi đang thả nốt những mùa trăng cuối của mình, xuống vườn sau ngôi nhà những ân tình, bằng hữu khác…
Dù cho vườn sau ngôi nhà của những tình thâm và, nghĩa trọng các bạn tôi, không có chiếc cần cẩu đủ sức nâng đáy vườn lên khỏi mặt đất của hiện thực cảnh tượng. Và, mai này, (vẫn dù cho) cây cỏ rừng sau ngôi nhà Hùng Nguyễn, có khước từ vai trò nhân chứng cho sự thật “lịch sử đã bắt đầu” từ mối tương thông giữa kẻ sống và, người chết!!!
Du Tử Lê
—————————————————————————————
Chú thích:
(1) “Lịch sử chưa bắt đầu” lời Gaston Berger, một nhà tương lai học, kiêm triết gia, kỹ nghệ gia người Pháp. Ông sinh ngày 1 tháng 10 năm 1896, mất ngày 13 tháng 11 năm 1960. Tên ông được đặt cho hai đại học ở Senegal, công trình hỗn hợp Pháp – Senegal. (Theo Wikipedia.) –
(2) Bài thơ nhan đề “và nguyễn mạnh hùng,” trích “Chấm dứt luân hồi: Em bước ra,” tr. 26. Tủ sách Văn Học Nhân Chứng, California, 1993.
(3) Trích “Thơ tình / Loves poems,” bản in lần thứ tư, tr. 143. Tủ sách Văn học Nhân Chứng, California, 1996.
Kỷ Niệm Kiễng Chân Soi.
Du Tử Lê
thả nốt những giọt-tôi,
ngang đời mưa yếu đuối.
kỷ niệm kiễng chân soi
trong mắt người. gương mới.
thả nốt hạt lệ-tôi
giữa môi cười giả dối.
cuối cùng mọi niềm vui
cũng chỉ như đá. sỏi.
thả nốt cảnh, tình-tôi,
xuống vai người phút cuối.
chăn, gối buông mình rơi
theo nỗi buồn níu. gọi.
thả nốt nhớ, quên-tôi
trên ngực-đời hấp hối.
tìm nhau. không một lời.
vô nghĩa thôi! tiếng nói.
thả nốt thân, tâm-tôi
cho những quầng cát. bụi.
mai sau cuối chân trời,
ai thấy tôi trở lại?
Ngọc Lan Và, Nơ Vàng.
hãy hình dung ngày tôi gắn nơ vàng, cho cây ngọc lan
(dù) nơi gốc, nhiều chiếc lá xanh / mang tên mẹ tôi
đã rụng.
hãy hình dung ngày tôi gắn nơ vàng, cho cây ngọc lan
như tập quán người Mỹ
cầu nguyện cho chồng, con, người tình…
bình an. trở về từ chiến địa.
bây giờ là tháng tám,
tháng mẹ tôi phải nhập viện (cách đây 16 năm).
những viếng thăm, hỏi han của con, cháu..
theo thời gian:
cũng…rụng.
tôi hiểu đời sống không cho chúng ta nhiều lựa chọn.
khi lãng quên là mặt bên kia của mọi mất đi.
và, trí nhớ bền bỉ ít khi dành cho người đã chết.
hãy hình dung ngày tôi gắn nơ vàng, cho cây ngọc lan
thắp nhang dưới gốc.
như mỗi ngày tôi hằng thắp nhang cho mẹ tôi và, H.C.
nơi nhà lưu niệm.
(lưu niệm, sớm. T. và, Orchid dành cho tôi).
ai đó kể:
“chúng ta chỉ có thể nói chuyện với người khuất
nhờ trung gian nhang khói!?!”
tôi nói chuyện với mẹ tôi, với H.C.
mỗi ngày.
(như nói chuyện với em
nhờ trung gian nhang khói, khác).
bây giờ là tháng tám,
hãy hình dung ngày tôi gắn nơ vàng, cho cây ngọc lan
(không thắp nhang)
cầu nguyện cho mọi cuộc đời
(trong đó có em)
dù dưới gốc bao nhiêu lá xanh
(mang tên mẹ tôi đã rụng),
vẫn sống tiếp đời, còn.
với niềm vui nồng hương kỷ niệm, trắng.
khi tôi phải giã từ cuộc sống này.
bây giờ là tháng tám.
tôi hy vọng không một người thân nào của tôi,
(luôn tình yêu ta)
phải nhập viện.
bây giờ là tháng tám,
hãy hình dung ngày tôi gắn nơ vàng, cho cây ngọc lan
và, bứng nó khỏi sinh phần, riêng.
em đừng hỏi tôi sẽ trồng lại ngọc lan ở đâu?
(câu hỏi không cần thiết).
hơn ai hết,
ngọc lan biết
nơi đến, mới.
nơi (không cần nhang khói)
mọi người đều có thể nói chuyện với ngọc lan.
chốn mang tên:
vĩnh cửu!?!
(cách nói, khác!
của bất cứ điều gì không thể, khác.)
Du Tử Lê
* Garden Grove, Aug. 10 2014
Hà-Nội-Tôi.
Du Tử Lê
Hôm nay, cách nửa vòng trái đất, dù không hứa với ai, nhưng tôi biết, tôi sẽ nhớ (mãi nhớ) một phần đời chúng tôi, đã tháp nơi cây xà cừ “trấn môn” ngôi nhà 39 Lý Quốc Sư. Ngay cả khi, một ngày nào, cả hai chúng tôi đều không còn nữa.
Và, cây xà cừ vẫn ở đó. Tịnh không một lời!?.
Đó là lúc sen hồng của Phương Liên và, Nguyễn Thúy Hằng, đã rụng dăm ba cánh, khi tôi trở lại địa chỉ 39 Lý Quốc Sư. Bóng tối và ánh đèn vừa đủ, trả sự yên tĩnh lại cho căn nhà; cho những bức tranh, những pho tượng tự thân vốn lắng tâm, tĩnh lặng. Tôi không thể không tự hỏi, thực chăng, chỉ mới vài tiếng trước, số lượng người khắp nơi tìm đến, đã nêm cứng căn phòng, nong nghẹt những bờ tường muốn nẻ, nứt? Những người đến muộn, không thể chen chân, vây kín cửa lớn, gây ngạc nhiên cho gốc xà cừ trăm tuổi, trước sự kiện chưa bao giờ xẩy ra! Những chiếc lá bất ngờ bị bứt khỏi cành, nhánh, cũng tự hỏi, chuyện gì vậy?
Đó là lúc sen hồng của Phương Liên và, Nguyễn Thúy Hằng, đã rụng thêm dăm ba cánh, khi tôi bước qua những chiếc xe đạp dựng ngay nơi cửa vào, tay phải. Tôi không biết những chiếc xe đạp của Lê Thiết Cương, những bức tranh, tượng, thậm chí những bình gốm của người họa sĩ họ Lê này, có nhớ, chỉ ít giờ trước đấy, những bằng hữu mới, cũ của tôi, như Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Quang Thiều, Bằng Việt, Nguyễn Thụy Kha…đã nói về thi ca, nói về văn chương, như nói về những lượng máu tươi, nhuận nuôi sống văn học Việt, vượt trên mọi bất cập, gập ghềnh thế sự…
Đó là lúc T. đã được trở về khách sạn “Indochina Soutique Hotel” gần đầu đường Ấu Triệu. T. không còn hồi hộp khi không nhìn thấy tôi (dù chỉ qua khoảng trống hẹp chút, là những đôi chân người. Tôi không biết T. có tìm được giấc ngủ sau một ngày vất vả, tiếp tay với Phương Liên và, Nguyễn Thúy Hằng, chuẩn bị từng lọ hoa, sắp lại từng bình gốm, ngay ngắn từng tấm khăn trải bàn. Và, nhất là T. không còn phải dặn dò Phương Liên lo cho tôi. Nhắc nhở tôi, nhớ điều này, đừng quên điều kia… Tuy chúng tôi chỉ cách nhau chừng chục thước; nhưng chẳng những T. không thấy tôi mà, T. cũng chẳng thể bước lại gần!
Không chỉ lo cho tôi chai nước, Phương Liên còn chậm cho tôi những dòng mồ hôi, trong lúc Đinh Hương quạt bằng quạt (?) hay bằng một cuốn sách (?) Tôi không nhớ. Ngay chiếc bàn, chiếc ghế tôi ngồi ít giờ trước đó, (đã được dẹp đi), tôi tin, chúng cũng không nhớ…
Chỉ biết, nhờ thế mà những giọt mồ hôi tươm khắp mặt tôi, đã không rớt xuống những trang chữ còn thơm mùi giấy mới. Chỉ nhớ, Đinh Hương không ngớt đấm lưng cho tôi. Tôi quay lại, nói với Đinh Hương:
“Có khi nào cảnh tượng này, kéo dài mãi mãi?”
Tôi không biết phản ứng của Đinh Hương. Chỉ nhớ dường như những cái đấm lưng đã tăng tốc. Luôn cả sức nặng…
Đó là lúc một người nào đó, đứng gần tôi, nói với người bên cạnh, đại ý, buổi chiều ở 39 Lý Quốc Sư như một “cơn địa chấn thương yêu”, không ai tiên đoán được, dành cho một đứa con của Hà Nội, trở về, sau bao nhiêu năm, thất lạc…
Nói về đứa con của Hà Nội, trở về, tôi không biết khi tôi bước từng bước cẩn trọng trên chiếc cầu thang dẫn lên tầng hai, nơi làm việc và, tiếp bạn (giới hạn) của Lê Thiết Cương thì, những người bạn trẻ, những người tôi được gặp lần thứ nhất, ở cách Hà Nội nhiều giờ xe, đã trở về, bình an, dưới mái nhà êm ấm của họ? Điều tôi biết rõ, là Hà Quang Minh, người bạn trẻ thân thiết của tôi, chắc chắn đã về tới ngôi nhà nhiều tầng, phố Vĩnh Tuy.
Hình ảnh người bạn trẻ viết văn, làm thơ, viết nhạc, tần ngần đứng trước hai cánh cửa gỗ lim thấm đậm hưng phế, trước khi quyết định lòn tay qua ô vuông khoét sẵn, nâng then cài (bụi phủ?)
Cùng với mỗi bước chân dọc theo chiều sâu hun hút của căn nhà, là tiếng gọi “Ba ơi! Ba ơi! Ba ơi!…”
Tôi nghĩ, âm vang của tiếng gọi kêu không chỉ chạy suốt chiều dọc sâu hút của căn nhà mà, còn va đập lên những bức tường, mái trần tô vữa dở dang, trước khi dội lại người gọi…
Hình ảnh Hà Quang Minh trở về phố Vĩnh Tuy, cất tiếng gọi cha mình, khiến tôi liên tưởng tới câu chuyện mang tính ẩn dụ trong Tân Ước. Đó là chuyện đứa con út của một ông trưởng giả, trở về mái nhà xưa, sau nhiều năm biệt tích. Sự trở về của đứa con hoang đàng, khiến ông trưởng giả hân hoan mở tiệc mời hết thẩy mọi người. Dù cho sự việc này, làm người con trưởng của ông, buồn lắm! Anh nghĩ trong bao nhiêu năm, người em bỏ đi biền biệt, anh đã tận tụy phục vụ cha, lo toan, quản lý tài sản của gia đình…Vậy mà chưa một lần nào, cha anh tỏ dấu mừng rỡ, mở tiệc, như khi người em “đi lạc” trở về…
Thân phụ người bạn trẻ Hà Quang Minh của chúng tôi, không mở tiệc mừng đứa con trở về. Nhưng ông lại dành cho chúng tôi một bữa tiệc tinh thần khác: Những cuốn sổ ngậm vàng tháng, năm hoen ố. Những cuốn sổ tâm cảm ghi chép từng bài thơ, từng giai đoạn thi ca Hà Quang Minh, khi Minh còn niên thiếu.
Tôi nghĩ, cũng như tôi, T. đã xúc động trước giọng đọc dõng dạc, cẩn đầy những hạt ngọc hãnh diện thầm kín mấy chục năm, như những vòng nguyệt quế bất hoại của người cha, dành cho tài hoa của con mình. Với tôi, đó là một bữa tiệc lớn ở phố Vĩnh Tuy. Với tôi, nó ý nghĩa không kém bữa tiệc mà, ông trưởng giả trong Tân Ước, khoản đãi sự “hồi đầu” của người con út.
Tôi chỉ không biết, có một liên hệ gần xa nào giữa phố Vĩnh Tuy và phố Mã Mây? Khi chỉ một ngày sau, buổi tối chớm khuya, Phương Liên, Phương Nhi và chúng tôi mới ăn những hạt cơm đầu tiên nơi chiếc bàn kê ngoài hiên nhà hàng “Một Ngày Mới”.
Khác với Vĩnh Tuy, kín kẽ nhịp đập êm đềm của trái tim Hà Nội, trước 1954; lòng đường Mã Mây chảy, trôi như một giải lụa mosaic, trên nền giải ngân hà di vãng, lấp lánh nhan sắc một Hà Nội, khác. Nhan sắc Hà Nội về đêm: Rực rỡ. Hăm hở. Sinh động. Giải lụa mosaic truyền thừa từ trăm năm, xưa, Hà Nội, cũ.
Cảnh tượng ấy cho tôi thấy lại tôi, những năm tháng đầu thập niên 1950s, mỗi lần mẹ tôi từ Hà Nam ra Hà Nội cất-hàng, trong ánh điện chan hòa, tôi lon ton theo mẹ và, người chị dâu sớm góa bụa của mình, từ phố Phúc Kiến ra tới hàng Đào qua hàng Bồ…, trước khi cuộc khám phá “tân thế giới” của tôi, chấm dứt bằng bữa cơm tối, tại một Hiệu-Khách nào đấy.
Đó là những năm, tháng Hà Nội nuôi nấng thơ ấu tôi, không phải bằng…hoa sữa mà, bằng hương thơm ngọc lan trong ngôi biệt thự gần nhà Bác Cổ hay sân trước ngôi nhà đường Đồng Khánh. Hà Nội nuôi nấng thơ ấu tôi bằng mùa thu, heo may, sương mù, bánh Tây, những trái sấu-dầm, kẹo vừng, kẹo kéo…
Đó cũng là những năm, tháng Hà Nội cho tôi những người bạn, cuối cùng đã buông tha tôi với bàn tay sáu ngón của mình. Các bạn tôi cho tôi đứng một mình đâu đó, trong sân trường Hàng Vôi, dưới những gốc bàng, đổi mầu, lá đỏ… Với trí tưởng ngây ngô, một ngày nào, ngón tay thứ sáu của tôi, sẽ tự động mất đi, như những người anh, người chị của tôi, đã mất đi trong chiến cuộc!!!
Hè đường phố Mã Mây,tháng 6-2014, nhà hàng “Một Ngày Mới”, không cho lại tôi hương thơm ngọc lan, mùa thu, heo ma, sương mù, sấu-dầm, kẹo vừng, kẹo kéo… Hà Nội cũng không cho lại tôi những người bạn thơ ấu một thời, đã siêu tán trên nửa thế kỷ…. Nhưng Mã Mây cho lại tôi cái nhan sắc tôi không gặp được, ở những lần trước, trở về.
Những tưởng nhan sắc kia đã tàn. Ước mơ sống lại kia, đã khép. Những tưởng Hà Nội: Rực rỡ. Đêm. Đã như một thứ trầm tích, theo sông Hồng, ra biển!?!
Nhưng, hơn thế, buổi tối chớm khuya, dưới ngọn đèn được dòng giây, từ trong quán, Hà Nội, tháng 6-2014 còn bất ngờ, cho tôi thấy được sức sống, phong cách nền nếp của Phương Nhi, lễ phép thăm hỏi và, kể tôi nghe ngành học của cháu: Báo chí. Năm thứ nhất. Tôi đọc được nơi đôi mắt trong veo niềm tự tin, trên khuôn mặt đẹp-mộc của cháu, một điều gì, tựa lời đính hôn với một tương lai mới mẻ. Trân trọng. Linh cảm Phương Nhi sẽ đi tiếp con đường phục vụ văn chương của bố mẹ, ở một kênh mạch khác: Kênh mạch báo chí, tôi buột miệng:
“Bốn năm nữa, ngày con ra trường, ông bà sẽ có mặt…” Tôi chỉ quên nói thêm:
“Nếu ông còn sống tới ngày đó…!”
Tuy nhiên, khi nhớ tôi lại, tôi nghĩ, cũng không cần thiết lắm đâu, “chú thích” này. Tôi nghĩ, nếu có bất cứ một bất trắc nào xẩy đến cho đời sống tôi, trước hạn kỳ 4 năm kia, chắc chắn T. sẽ báo cho Phương Liên… Đó cũng là cơ hội, để Phương Nhi thấy rằng, dù trẻ mấy, chúng ta cũng nên dọn mình, đón nhận những điều bất ưng ý…
Tôi giữ lại được điều tôi định nói thêm với Phương Nhi, đại ý: Đời sống là tổng số những bất ưng. Nhưng là con người, nên chúng có khả năng vượt qua mọi ngọn núi thách thức. Vượt qua, để mang lại cho đời sống, những gì tốt đẹp hơn, vốn nằm ở mặt bên kia của những đồng tiền thách thức ấy.
Sau này, tôi thấy nín lặng kia, cũng tốt thôi, cho tôi, trong chạm mặt lần đầu với giải lụa mosaic trên nền giải ngân hà dĩ vãng, lấp lánh một nhan sắc Hà Nội, khác và, đẹp-mộc của cháu Phương Nhi.
Đó là lúc sen hồng của Phương Liên và Nguyễn Thúy Hằng, đã rụng thêm dăm ba cánh. Trên tầng hai, sau “địa chấn thương yêu” những người bạn còn ở với Lê Thiết Cương, có Nguyễn Thụy Kha. Có Trịnh Tú. Có Phan Thanh Phong. Có Hà Quang Minh…
Cửa sổ mở vào đêm Hà Nội, dưới thấp, chưa ngủ. Những bức tranh, gốm, tượng đồng, sắt, thiếc…chưa ngủ. Những tượng Phật ngồi trên các kệ sách, chưa ngủ…
Trịnh Tú hỏi mượn bút Nguyễn Thụy Kha; xin Lê Thiết Cương xấp giấy. Một chân dung phác họa hoàn tất, chóng vánh. Làm thành kỷ niệm. Kỷ niệm của bốn người, Nguyễn Thụy Kha nhấn mạnh.
Họ Nguyễn nhắc tôi, tương lai, nếu có in sách thì, sẽ không thể có một tựa nào hay hơn “lưng sóng” – – “Bèo trôi từng lớp trên lưng sóng…” Tôi nói, tôi sẽ nhớ. Nhớ. Nhớ.
Tôi sẽ nhớ, như tôi nhớ, trước khi trở lại Saigon, buổi tối, Hà Nội mưa. Tôi và T. nhường phần dù che, cho nhau. Chúng tôi rảo bước dưới những tàng sấu, âm u, chập choạng.
Tôi sẽ nhớ, như tôi nhớ tầng thứ hai, ngọn đèn mờ. Những ly rượu (cũng mờ) trên tay Lê Thiết Cương, Trịnh Tú, Hiền… Cửa sổ mở. Mưa, vỗ về Hà Nội, thức. Sấm, chớp xoải vó, thúc lay hồn đất, cũ. Cây xà cừ “trấn môn” ngôi nhà 39 Lý Quốc Sư, oằn mình. Trút lá. Mưa rầm rập, chạy nhàu qua con ngõ dẫn vào ngôi nhà tác giả “Bên kia sông Đuống”.
Tôi và cả T. nữa, sẽ nhớ (mãi nhớ) đôi lần, rất khuya, tạm biệt Hoàng Cầm, người thi sĩ lừng lẫy nhất thời kháng chiến, bịn rịn cầm tay tôi, hỏi:
“Có còn gặp lại nhau?”
Câu hỏi ngậm ngùi bất trắc (tuyệt vọng?) của ông, tuồng không chỉ muốn gửi vào tâm trí chúng tôi mà, ông còn muốn ghim vào da, thịt chúng tôi nữa!
Tôi sẽ nhớ, như tôi nhớ, trước khi trở lại Saigon, buổi tối, Hà Nội mưa. Lầu hai. Nơi thư phòng Lê Thiết Cương. Cửa sổ mở. Sấm, chớp xoải vó thúc, lay hồn đất, cũ. Cây xà cừ “trấn môn” ngôi nhà 39 Lý Quốc Sư, oằn mình. Trút lá. Mưa rầm rập, chạy nhàu qua con ngõ dẫn vào ngôi nhà tác giả “Bên kia sông Đuống”. Bất ngờ, Trịnh Tú nói, để anh đọc tôi nghe, thơ Đặng Đình Hưng:
Tôi có trăm xu, tôi đi tám phố
Mua con đường dài, vừa đi vừa nghỉ.
Mua 5 xu ánh sáng, sống nghe mặt trời
Mua 5 xu chơ vơ, mủi lòng viên đạn
Mua 5 xu mưa lay phay, trang hoàng dậu sắt
Đến phố Hàng Kèn, gặp thằng trĩ mũi
Tôi mua 5 xu lá chuối, tôi cho nó xem
Nó mua 5 xu loa kèn, nó cho tôi ngửi
Đôi bạn èn èn chia tay đầu phố
(Đặng Đình Hưng)
Bài thơ ngắn, nhưng vực sâu. Giọng đọc chậm, rõ, nhưng cũng vực sâu của họ Trịnh.
Tôi hỏi xin Cương, copy một bài thơ cũ.
T. và, Hiền đứng dạy, đi về cuối lầu, nơi có những tượng Phật ngồi trên các kệ sách…
Họ cho lại tôi: “Thơ, gửi một họa sĩ, ở cách tôi nửa vòng trái đất”. Tôi đọc, như một lời cảm ơn Trịnh Tú… Cảm ơn những người vắng mặt:
“…khi bóng đêm xập xuống giá vẽ,
đó là lúc không chỉ sắc mầu trong tranh họ Lê đứng lên
bước ra và,
đi tới thế giới.
(mà,) tôi còn nghe được bước chân của những người đã khuất
đem nắng, mưa, buồn vui thuở trước,
vun, xới gốc hôm nay!
(ai dám bảo những hồn siêu, phách tán không cần nơi nương náu?)
như dòng máu liên tục
chảy dọc thân tổ quốc,
tới mai sau!
nhờ trái tim họa sĩ tháp vào hình tượng.
(cách của ông).
“khi bóng đêm xập xuống giá vẽ trống trơn,
tôi đứng lên.
nghe được nhịp đập trái tim họ Lê.
những điều ông không nói.
cõi thinh lặng mênh mông nhắc tôi:
– hãy cảm ơn Lê Thiết Cương!
– cảm ơn Vũ Phương Liên!
– cảm ơn Hà Quang Minh!
những Con Người (viết hoa).
những nhịp-cầu-chữ-nghĩa,
nối tôi với họ Lê:
– một họa sĩ,
ở cách tôi nửa vòng trái đất!!!” (*)
Hôm nay, cách nửa vòng trái đất, dù không hứa với ai, nhưng tôi biết, tôi sẽ nhớ (mãi nhớ) một phần đời chúng tôi, đã tháp nơi cây xà cừ “trấn môn” ngôi nhà 39 Lý Quốc Sư. Ngay cả khi, một ngày nào, hai chúng tôi đều không còn nữa.
Và, cây xà cừ vẫn ở đó. Tịnh không một lời!?.
Trôi Tận Cùng Cõi Khác.
* Du Tử Lê
không phải tôi,
chính em mới là người nghe được:
– bản hợp ca của đám loa kèn,
sớm mai, thức giấc cùng nao nức cá và, suối.
tiếng chim cu.
cây lựu thoa son cho những bông hoa:
– bầy con nghìn hạt của nó.
(xin em,
đừng bắt lỗi những đứa trẻ nằng nặc đòi cho được điều chúng muốn.
như em từng đòi đủ thứ nơi tôi
và ngược lại).
không phải tôi,
chính em mới nghe được:
– tiếng thầm thì của cát.
mặt trời chờ thủy táng.
bãi biển không tiếng sóng.
âm bản chiều, tuột tay.
rớt nụ hôn giường bệnh.
tiếng kèn thổ dân treo trong những chiếc lều,
chôn, ngặt nghèo chiếc bóng.
(xin em hãy khoan tâm để thấy:
– cái chết cũng tuyệt vời như sự sống.
tựa mỗi chúng ta,
cùng lúc là ta hôm qua và, hôm nay, kẻ khác!)
không phải em,
chính tôi mới là người nghe được:
– bước trở về của kỷ niệm
khi những trận mưa tháng Năm choàng qua tháng Sáu,
thôi giận hờn.
dù mái vẫn nghiêng tai chờ chuyến xe buýt muộn.
nhưng chẳng có người khách lỡ độ đường nào,
kể chúng ta nghe:
– hạnh phúc vốn lao lung. ngược dốc.
và, cũng đáng quý thay:
– đau khổ!?!
(khi chúng ta làm người
cửa thiên đàng đã đóng!)
không phải em,
chính tôi mới là người nghe được:
– hơi thở những sợi tóc,
đêm đêm / lẻ loi / thức cùng / chăn, gối /
tựa ngón tay mồ côi
tìm đường ngôi mất tích.
(có thể em không biết
dòng sông đã đi xa,
sao thấy được những bông hoa bèo
tím thêm nỗi biền biệt. héo.
không phải tôi,
chính em mới là người nghe được:
– tiếng hát bên kia vầng trăng
khu vườn xưa, trái trĩu cành thơ ấu.
từ bên này vầng trăng tôi đã thấy em:
– xiết bao thơm-thảo trái cấm,
nhờ chiếc viễn vọng kính tiên tri.
(cũng chẳng có gì sai,
nếu tôi nói thêm:
– chính định mệnh ân cần dặn dò tôi
ráng đợi ngày gió lớn!?!.)
giờ đây,
không phải em,
cũng chẳng tôi,
nghe được nỗi buồn của trái tim trước giờ ngưng đập,
vẫn nhớ những ngày còn là gương.
đường phố. chung cư. công viên. chim muông. cây cỏ
cùng gió, hát:
mắt, môi chưa lạc dòng,
trôi tận cùng, cõi khác!
Du Tử Lê
Tóc Trên Đầu Vẫn Từng Ngọn Riêng Tây – Du Tử Lê
“đời tẻ nhạt liếm môi mình cũng nhạt.
“tóc trên đầu vẫn từng ngọn riêng tây.”
(thơ dtl.)
1. Chiếc xe hối hả như muốn chạy đua cùng mặt trời đang bị những sợi giây vô hình vội vã kéo lên cao. Nắng sớm từng chùm lọt qua cành, nhánh những rặng xoài nặng trái. Nhác trông, như những chiếc võng xanh ương, treo lửng, đu đưa bởi gió đồng.
Trên những thửa ruộng lúp xúp chân lúa mới gặt, nước đọng từng vũng do sự nấn, nuối của những trận mưa rào mấy ngày trước. Xa xa, đôi ba cánh cò trắng soải chân, buồn bã, bay. Tựa chúng không chút bận tâm về việc hình ảnh chúng bị hắt lại từ những tấm kính không gian trong suốt, dựng theo chiều thẳng đứng; được chia lô bởi những thân cổ thụ cụt đầu, đã khô quắt; nhưng vẫn muốn phô diễn lần cuối, sự có mặt ngạo nghễ (dẫu tuyệt vọng) của mình.
Nếu không kể tài xế, chiếc xe có bốn người cho ba hàng ghế.
Hai phụ nữ. Một trung niên. Tóc ngắn. Bề ngoài, cô cho thấy là một người đã miễn nhiễm với tất cả mọi biến động thời thế, xã hội. Nhưng đôi mắt nửa nghiêm khắc, nửa tinh anh của cô, lại cánh giác những ai sáng ý rằng, đó là một người nhạy cảm mà, cái tâm từ của cô, lúc nào cũng sẵn sàng đào những hố, hầm cho cô sập bẫy-xót-xa. Ta cũng có thể nói, đó là người phụ nữ được sinh ra để quên mình, sống cho kẻ khác.
Người còn lại, tóc dài. Còn trẻ. Nhưng dường như mái tóc của cô cũng tự hiểu rằng, nó không đủ tiềm năng cạnh tranh với chiều cao của cô. Chiều cao của một cây…liễu. Đó là một phụ nữ có nét đẹp sang cả của khối…nước đá. (Loại nước đá không tan dù cho bạn có phơi nó dưới ánh nắng hay, sức nóng ở độ nào!)
Họ rì rầm nơi băng ghế áp chót. Chỉ trời hiểu họ nói gì, với nhau!?!
Nơi băng ghế ngay sau lưng tài xế, là phần đất “quy hoạch” của hai người đàn ông. Người trẻ, ở khoảng tuổi trên dưới dưới bốn mươi. Nhưng những nếp nhăn đã thấp thoáng, không chỉ trên vầng trán bướng bỉnh mà, cả nơi đuôi mắt. (Tôi xin nói riêng với bạn mà không sợ sai rằng, đó là loại thanh niên đánh bạn sớm với những con rết nhiều chân.)
Dù ở tư thế nào: Cúi xuống, nhìn thẳng hay ngước lên, người thanh niên đánh bạn sớm với những con rết nhiều chân, vẫn là cái nhìn ưu uất, nhức nhối nhiều thất lỡ? (Có thể tôi đã có cảm nhận không đúng lắm về anh. Nhưng tôi tin, nhiều phần, ngay anh, cũng không đọc hết được chính mình!)
Người đàn ông còn lại ở khoảng tuổi trên dưới bảy mươi. Một ông già hiền từ, ngu, ngơ, như đa số những ông già khi đã bước vào tuổi “tri thiên mệnh,” thường có khuynh hướng trở lại chu kỳ đầu. Chu kỳ tuổi thơ. (Với ông già này, thưa bạn, tôi lại thấy cần phải nói thêm rằng “Ngó vậy mà không phải vậy! Hay…đúng vậy! Tùy người đối diện…”)
Là kẻ bên lề, tôi chỉ biết, chiếc xe vẫn hối hả như muốn chạy đua cùng mặt trời đang bị những sợi giây vô hình vội vã kéo lên cao. Nắng sớm vẫn từng chùm lọt qua cành, nhánh những rặng xoài nặng trái. Nhác trông, như những chiếc võng xanh ương, treo lửng, đu đưa bởi gió đồng.
2.
Mặt trời vươn vai. Cao hơn. Khoảng cách giữa chiếc xe và, chân trời dường ngắn lại chút ít. Bỗng, người thanh niên đánh bạn sớm với những con rết nhiều chân cất tiếng.
Giọng nói khê cứng cơm cháy, trộn lẫn sự kẹo quánh khói thuốc của anh, không liên quan gì tới những thửa ruộng lúp xúp chân lúa mới gặt và, nước đọng từng vũng do sự nấn, nuối của những trận mưa rào mấy ngày trước. Có liên quan chăng là, đôi ba cánh cò trắng soải chân, buồn bã, bay. Tựa chúng không chút bận tâm về việc hình ảnh chúng bị hắt lại từ những tấm kính không gian trong suốt, dựng theo chiều thẳng đứng; được chia lô bởi những thân cổ thụ cụt đầu, đã khô quắt; nhưng vẫn muốn phô diễn lần cuối, sự có mặt ngạo nghễ (dẫu tuyệt vọng) của mình.
Anh kể, tới giờ, dù đã hơn ba mươi năm trôi qua, thỉnh thoảng, trong mơ, anh vẫn gặp hình ảnh chị Chi, người chị lớn, mới chớm thanh xuân, sau tháng 4-1975, xõa tóc, thùng thình trong bộ quân phục đại lễ trắng của cha anh. Với cầu vai đen, hai chiếc ngù, đôi hàng giây tua óng ánh đỏ, nửa đêm chị bước tới bể nước, tự dội cho mình liên tiếp những gáo nước lạnh, như khởi đầu một lễ tấn phong hay, một cuộc tế thần linh, kỳ dị.
“Trong trí óc non nớt với tưởng tượng thô thiển của một đứa nhỏ sáu, bảy tuổi là tôi thuở đó, tôi không biết có phải chị tôi đang cử hành một lễ tế sống cha tôi trong trại tù cải tạo? Hay đó là hình thức mời gọi những linh hồn oan khuất, vất vưởng đâu đó, tụ về chứng giám cái chết oan khốc đang được tính từng ngày của chị?
“Tôi chỉ nhớ, trong ánh trăng trắng nhợt như những tấm da heo đã được cạo sạch, nước biến mái tóc thiếu nữ của chị tôi thành những con rắn đũa, lúc nhúc thả chiếc đuôi đen bóng của chúng xuống đôi vai thanh xuân sớm gầy guộc. Trong khi những giây tua óng ánh đỏ, dính bệt nhau, thành những con đỉa máu trương bụng, trườn mình trên cánh tay chị tôi, nứa lép; là hình ảnh ma quái, ghê rợn nhất thơ ấu tôi…
“Cuộc đời đã chào đón tôi, như thế. Định mệnh nghìn tay, nghìn búa, đã bổ xuống đầu tôi, như thế! Như thế đó, định mệnh nghìn tay, nghìn búa dòng bao nhiêu năm, đã không bỏ sót một người nào trong gia đình tôi. Ngay mẹ tôi, một người đàn bà nếu bước lên bàn cân, với tất cả quần áo, giầy dép cũng chỉ có trên ba mươi kí, cũng không được oan nghiệt nới tay. Hơn thế, tôi cảm tưởng bà còn đưa đầu, nhô vai nhận lãnh bớt những nhát búa hận thù, tủi nhục thay cho chúng tôi…”
(Người thanh niên không cao giọng, không phẫn khí. Anh nói đều đều như thể đó là những vang âm từ một thế giới nào khác. Của một người nào khác. Tôi không biết có phải vì thế mà chiếc xe tuồng đã rùng mình. Chậm lại? Ông già ngu, ngơ đặt tay mình lên bàn tay xương xẩu của người thanh niên. Cái bàn tay đang nắm lại, tựa ra sức bóp chết một sinh vật nào đó, (thí dụ những con đỉa máu?)
Người phụ nữ như được sinh ra để quên mình, sống cho kẻ khác, nhoài người lên băng ghế trước, vỗ vỗ nhánh vai so của người thanh niên. Người phụ nữ có nét đẹp sang cả của một khối …nước đá, nhắm mắt. Cá nhân tôi, cũng đành quay mặt.)
Chiếc xe như đuối sức sau cuộc rượt đuổi bất cân xứng với mặt trời. Người tài xế cho thấy rõ ý định tìm hàng quán, nghỉ chân. Trong lúc người thanh niên sớm đánh bạn với những con rết nhiều chân, kể tiếp:
“Bây giờ chị Chi tôi đã có gia đình. Hàng ngày chị vẫn ngược xuôi trên những con đường mà, cách đây hơn ba mươi năm, chị từng kéo lê cơn điên lùng nhùng trong bộ quân phục đại lễ trắng, chiếc ngù đỏ, để bán từng chai nước tương phụ chồng nuôi con. Bây giờ chị tôi đã là một người khác. Một người không liên quan dù chỉ một chút, tới những lễ tấn phong hay, những buổi tế thần linh. Quá khứ. Nhưng không vì thế mà tôi dám hỏi chị về những đêm trăng. Bầy rắn đũa. Đám đỉa máu. Có thể tôi, chính tôi (không phải chị Chi) sợ sự sống lại của chúng.
“Bước vào tuổi bốn mươi, tôi hiểu: Nếu có những kỷ niệm chúng ta thường xuyên muốn gặp lại, thì cũng có những kỷ niệm, chúng ta phải dỗ dành, phải nằn nì nó:
“Hãy ngủ! Hãy ngủ! Hãy ngủ! Rán ngủ, nghe con!”
Chiếc xe dường hối hả hơn trong cuộc chạy đua với mặt trời sắp đứng bóng. Tôi muốn nói, nó thở hào hển hơn. Nhưng cảm giác ưu uất lại có phần gia tăng trong lòng xe. Không một người nào trong đám họ, hút thuốc. Cũng không một người nào dám thở mạnh. Vậy mà, độ kẹo quánh khói thuốc ám trong tiếng nói khê cứng cơm cháy của người thanh niên, vẫn bị đẩy tới mức cao nhất.
Đó là lúc những người bạn rết nhiều chân của anh hiện ra, chạy nhầu khắp khuôn mặt đá, sỏi. Đó là lúc anh kể về anh Tuấn, người thứ ba của mình:
“Anh Tuấn tôi chọn sự đánh mất mình, sau cuộc đổi đời. Anh bỏ học, cúi xuống chiếc bóng và đôi chân mười tám, hai mươi sớm nứt, nẻ, cày bừa thay cha nuôi em. Để thấy mình còn là con người, nhiều khuya khoắt, anh tôi ra bờ suối gần nhà. Với cây đàn guitar đã bước vào giai đoạn mục nát và, những tập nhạc mỗi khi mở ra, những trang sách như những cánh bướm rách rưới, cùng tiếng rì rào không nguôi của suối đêm, anh hát bằng giọng của ai đó, như những nhát cuốc đào sâu thêm chiếc huyệt phần số đời mình! Ngặt thay, những ca khúc anh chọn, không chừa cho tôi một khe hở, để có thể phân biệt giữa ca từ và bóng tối…”
Những ca khúc u mị mà, ‘con dế buồn’… đã-sống-từ-cái-chết-của-nó, nơi vô thức của đứa trẻ sáu, bảy tuổi là người thanh niên sớm đánh bạn với những con rết nhiều chân hôm nay, vẫn còn thoi thóp. Thở.
Anh nói:
“Nhiều đêm, tôi không biết tiếng đàn, tiếng hát của anh Tuấn, hay do tiếng rung cánh mơ hồ của ‘con dế buồn’ đã thôi thúc tôi lần ra bờ suối tìm anh. Nhưng, dù bởi nguyên cớ nào, điều tôi nhớ, vẫn là những vòng tay anh Tuấn quàng qua tôi. Anh ôm tôi. Xiết ghì. Như ôm nỗi ghẻ lạnh mà, thời thế đã giáng xuống đầu chúng tôi, giữa khi mái tóc anh em tôi còn xanh, sữa. Cũng có thể anh Tuấn muốn thay cha, truyền chút hơi ấm của người cho tôi! Những phút đó, tôi không rõ anh Tuấn có biết rằng tôi đã khóc?!. Tôi khóc, vì tủi thân. Tôi khóc, vì những giọt nước mắt của anh rớt xuống mặt tôi. Những giọt nước mắt mang theo sự tuyệt vọng, côi cút, của chúng tôi. Của gia đình. Của mẹ tôi và, có thể, cũng là của cha tôi trong tù, nữa!”
Chiếc xe vẫn lao tới như thể đó là định mệnh bất khả chuyển của nó. Trong khi hai người nơi băng ghế sau, tôi nghĩ, nếu không kiềm hãm, có thể họ cũng đã bật khóc.
Tôi hiểu, như chiếc xe, họ không thể khác khi người thanh niên sớm đánh bạn với những con rết nhiều chân, tiếp tục kể về hai người anh còn lại của mình. Anh Trâm và anh Thuần. Hai người anh còn lại, như hai khối thương tâm khác, cùng đi ra từ một gốc cổ thụ. Cụt đầu!!!
(Bạn tôi, xin bạn cho tôi được hỏi: Bằng ngay thẳng tối thiểu, bạn có tin, trong chúng ta, liệu có kẻ nào tự thân không là một khối thương tâm?!?)
Người thanh niên chấm đứt câu chuyện của mình vừa lúc mặt trời đứng bóng. Đó cũng là lúc đám cò trắng đã nhúng đôi chân vào những vũng nước, như sự nấn, nuối của những trận mưa vài ngày trước. Mặc dù chúng vẫn không chút bận tâm về việc: Có phải hình ảnh chúng bị hắt lại từ những tấm kính không gian trong suốt, dựng theo chiều thẳng đứng…?
3.
Biển bị phân cách bởi bức tường đá dài, khiến những chiếc tầu ngoài khơi như những cánh tay dơ cao ngọn đèn đỏ, không ngừng chớp, tắt. Tôi không biết lúc nào thì tín hiệu SOS kia, được đám đông bên này bức tường đáp ứng. Nhưng tôi nghĩ, ta không nên trách họ. Bởi mỗi người cũng vốn là một ốc đảo. Họ bị cắt rời thành từng miểng. Như buổi tối bị cắt thành từng miểng, lúc bàn tay tinh nghịch nào đã vẩy thêm ít, nhiều hắc ín cho bóng đêm.
Trong đám người thả bộ dọc bờ biển, tôi không thấy người tài xế. Có thể anh đã tìm được chỗ ngả lưng, để chuẩn bị cho hành trình ngày mai. Tôi chỉ thấy người phụ nữ được sinh ra như để quên mình sống cho kẻ khác, sánh vai người thanh niên đánh bạn sớm với những con rết nhiều chân. Rất khó đoán họ nói gì với nhau. Tôi đồ chừng có thể họ tiếp tục câu chuyện bị ngưng trên xe, lúc mặt trời đứng bóng. Cũng có thể người phụ nữ nói về quá khứ của cô. Một quá khứ có phần dữ dội, bi thảm hơn quá khứ của người thanh niên mà, tháng Tư, 75, là điểm khởi. Nhưng đó là chuyện tôi sẽ kể với bạn vào một dịp khác, khi hoàn cảnh cho phép. Ngay lúc này, tôi chỉ muốn nói tới người phụ nữ có nét đẹp sang cả của khối…nước đá và, ông già ngu, ngơ ngu, đi sau.
Người phụ nữ khoác tay ông già. Hình ảnh cha, con? Tôi tin nhiều người sẽ nghĩ thế.
Riêng tôi biết, có dễ cũng nhờ tương quan này mà, người phụ nữ kể được những gì cô muốn nói.
Bắt đầu từ đây, để dễ dàng cho người kể chuyện là tôi, xin bạn cho phép tôi ghi lại điều tôi nghe được, ở dạng độc thoại. Nghĩa là người phụ nữ có nét đẹp sang cả của khối…nước đá, sẽ xưng “tôi.” Ông già ngu, ngơ, sẽ vắng mặt. Bạn hãy coi ông như một miểng rời, bị bóng tối cắt ra và, ném đi. Mất tích.
Tôi là đứa con thứ hai trong số 3 chị em gái của ba, mẹ tôi. Tôi sinh ra ở Đà lạt, hai năm sau biến cố tháng 4-75. Tuy không phải là con gái út, nhưng cha tôi lại chọn tôi, để trút tất cả tình thương ông có được. Tôi không nghĩ trong mắt nhìn của ông, tôi đẹp hơn chị Hai hoặc bé Út. Tôi định bụng, sau này, khi lớn khôn, có dịp, tôi sẽ hỏi ông về tình yêu ấy.
Nhưng trước nhất, hiển nhiên nhờ tình yêu thương đặc biệt ông dành cho tôi, như những cánh rừng thông bạt ngàn và, những con suối quanh năm chỉ nói những lời ân cần, dịu dàng mà, tôi được dạy dỗ nhiều điều, ngay khi còn rất nhỏ. Một trong những điều tôi nhận được từ ông, là âm nhạc. Tôi biết, thuộc khá nhiều nhạc xưa. Loại nhạc một thời người ta gọi là “nhạc vàng.” Tôi vẫn thầm biết ơn ông xiết bao! Cũng như tôi những tưởng mình sẽ mãi được là cô “công chúa nhỏ,” trong vòng tay bảo bọc hết mực của cha mình.
Nhưng một ngày kia, thảm kịch bất ngờ, gõ cửa gia đình tôi.
Đó là một buổi tối, đi công việc về, cha tôi bắt gặp hai người em sinh đôi của người, uống rượu say, la lối, đập phá trong phòng. Không dằn được cơn giận, cha tôi lớn tiếng với các chú. Sự kiện này, với tôi, không mới mẻ hay, ghê gớm gì. Nó đã xẩy ra nhiều rồi, trước đấy.
Tôi nhớ hơn một lần cha tôi giải thích với tôi rằng, biến cố tháng 4-75 đảo lộn tất cả một trật tự xã hội, đạo đức… Chỉ không may cho hai chú tôi, ở tuổi vừa trưởng thành, họ đã bị xã hội gạt ra lề đường! Họ trở thành một thứ rác rưởi, cặn bã trong chế độ mới. Mặc cảm ký sinh trùng, sống nhờ, sống bám vào lòng thương hại của ông anh và người chị dâu, dù có tế nhị mấy, cũng vẫn khiến các chú có những cơn điên của con thú bị thúc ké. Khi rẻ. Nhưng cha tôi bảo:
“Con an tâm. Ba nghĩ từ từ rồi hai chú sẽ vượt qua được khó khăn đó. Khi họ nhận ra rằng tình thương ba, mẹ dành cho hai chú, là tình thương chân thật của máu mủ, ruột thịt. Chưa kể rồi đây, ba sẽ cố gắng thu xếp một vài công việc thích hợp cho các chú…”
Tôi tin lời cha tôi. Như tôi hằng tin bất cứ điều gì ông nói.
Buổi tối khi thảm kịch kia xẩy ra trước mắt tôi, thì đó là lần đầu tiên và, cũng là lần cuối cùng niềm tin những gì cha tôi nói, đã hoàn toàn sụp đổ. Nó bị bôi xóa bằng máu của cha tôi, bởi đôi tay của các chú!
Đó là lúc họ như hai con thú điên, lao vào cha tôi, với chai lọ, ghế, bàn có sẵn trong phòng. Họ không ngớt trút xuống đầu cha tôi, những trận mưa thù hận mà, tôi nghĩ, ngay cha tôi, cũng không tài nào hiểu được.
Rất nhanh, vâng, rất nhanh, cha tôi đổ xuống như một thân chuối nát bấy, với đôi mắt mở lớn. Kinh ngạc. Tôi muốn nói, cũng như tôi, có thể đó là điều đầu tiên và, cuối cùng, ông không tin, có thể xẩy ra trong gia đình tôi. Tôi biết, ông càng không tin, nó có thể xẩy ra, cho chính ông!!!
Khi đó, tôi vừa bước vào tuổi mười ba! Cha tôi mới băm ba!
Thảm kịch như lời chúc dữ chứa trong cơn bão lớn, quét sạch mọi thứ. Tôi nhấn mạnh, mọi thứ. Không chỉ đời sống hàng ngày mà, luôn cả đời sống tinh thần của chúng tôi.
Chồng chết, mẹ tôi, cũng mới băm ba tuổi, đã phải bôi mặt, xông ra đường phố, xuôi, ngược buôn bán nuôi con. Không còn cha, chị Hai tôi theo mẹ mỗi ngày ra chợ. Bày hàng. Từ sáng tới khuya khoắt.
Mười ba tuổi, tôi thay mẹ, thay cha lo cho bé Út. Như một thân cây non, được cưng dưỡng trong chậu quý, chờ ngày đơm bông; vậy mà, chỉ một chớp mắt, tôi trở thành cây dại, sau vườn! Nắng, mưa đời thường, phũ phàng biến đổi tôi. Cuồng lũ năm, tháng, suồng sã lột da tôi.
Để tồn tại, để lo được cho em và, sau này, lo cả cho mẹ, tôi không có chọn lựa nào khác hơn: Đổi khác. Từ một đứa con gái được cưng chiều, dễ khóc, quen nhõng nhẽo với cha, tôi trở thành một cô gái lạnh lùng. Tựa…đá. Tôi gần như không cho phép mình được ủy mị suốt thời thiếu nữ. Trong tôi, phần nam tính, kể từ hậu thảm kịch, như nấm sau mưa.
Hơn ai hết, tôi hiểu, tôi biết rất rõ, những người chung quanh nhìn tôi ra sao, thế nào. Không thiếu người đã gọi tôi là “Thằng con trai giả gái!” Không thiếu người đã nửa đùa, nửa thật, bảo tôi, “Nên đi đổi…giống!”
Tôi biết chứ! Đâu phải tôi không tự thấy cái cứng còng, cái khô rốc, khô rác nơi gương mặt, cử chỉ của mình. Nhưng, như đã nói, tôi không có chọn lựa nào khác. Tôi nghĩ, tôi phải tồn tại. Tôi nghĩ, tôi phải sống. Tôi phải sống thay cho phần đời sống bị ngắt đi quá sớm của cha tôi. Mà, muốn tồn tại, muốn sống còn, tôi không thể không có cho mình chiếc mặt nạ, cái áo giáp cần thiết ấy.
Đã mấy ai (ngay mẹ tôi, chị Hai, bé Út) biết rằng, nhiều đêm một mình, tôi nghe những dòng lệ tủi chảy ngang môi. Những giọt lệ tôi tin, sẽ không thể chảy xuống chính môi tôi, nếu không muốn nói là chúng sẽ không có cơ hội trào ra, nếu cha tôi còn sống. Nếu hai chú tôi nương tay một chút thôi…trên đầu, trên mặt, trên thân thể cha tôi (cũng là người anh máu mủ nuôi, nấng hai chú!)
Nếu. Nếu. Nếu…
Nhưng, thôi. Dẫu có nói gì thêm, nói bao nhiêu nữa, thì mỗi con người, mỗi chúng ta, cũng chỉ là một miểng rời, bị bóng tối (sau khi được vẩy thêm ít, nhiều hắc ín,) cắt, chia thành từng miểng phân, ly!?!.
4.
Nhà hàng trên mặt hồ, như kết quả của những kiễng chân, nhón gót quá trớn của chính nó. Nơi chiếc bàn hình chữ nhật, có tất cả sáu nhân vật. Tôi dùng hai chữ “nhân vật” cho có vẻ trịnh trọng. Sự thực, đó là bốn người của buổi tối trước ở biển. Hai người mới, một là em gái của người phụ nữ được sinh ra, dường để sống cho kẻ khác. Cô có vẻ mau mắn, như nụ cười sởi lởi luôn có trên môi. Người thứ hai là một người đàn ông đã bước qua tuổi trung niên. Ông phục phịch, bệu bạo một cách đáng nghi ngại, với khuôn mặt hồng hào của một thứ “hồng hài nhi.”
Gió từng cơn luông tuồng khua khoắng nhà hàng bốn phía không vách ngăn, mang theo trong nó nhiều nhắn nhủ không thành tiếng. Đêm trải từng lớp sương mỏng, như giấy quyến lên mặt hồ. Khá xa, nơi bờ bên kia, những tòa nhà cao tầng sáng đèn, không in bóng xuống mặt nước. Người ta cũng không nghe được tiếng rì rầm của xe cộ chạy trên con lộ bên tay trái nhà hàng. Nhờ thế, khi người đàn ông có khuôn mặt hồng hai nhi kể chuyện bằng giọng Quảng Trị, đôi lúc như bị nghẹt, ríu vì xúc động, mọi người vẫn nghe được.
Ông kể, sau mười năm, ba tháng tù trở về, ông tá túc nơi nhà bà chị. Qua giai đoạn đạp xích lô, ông biết mình thất bại vì không đủ sức. Đối đế, ông viết một bức thư, cho người vợ vượt biên đã lâu, mang theo mấy đứa con chung.
Lá thư được viết một cách rất ý tứ, phòng xa lọt vào tay người đàn ông mà, vợ ông đang chung sống. Ông cẩn trọng gọi vợ ông bằng “chị.” Ông kể cho chị biết, ông mới ra tù. Ông nhắc chút ít tình nghĩa những ngày chung sống, cũ. Mọi sự kiện được đề cập trong lá thư, chỉ nhằm mục đích dẫn đến việc ông xin chị giúp ông năm trăm bạc, để ông có phương tiện làm lại cuộc đời. Trong thư, có đoạn:
“Năm trăm đồng tôi biết với chị chẳng là bao. Nhưng với tôi, trong hoàn cảnh của một người mới ra tù và trong hiện trạng của đất nước mình hiện nay, thì đó lại là một số tiền rất lớn. Mong chị hiểu cho rằng, vạn bất đắc dĩ, tôi mới phải viết thư này. Xin chị an tâm, tự hậu, chị sẽ không bao giờ nhận được từ nơi tôi, một lá thư nào khác…”
Người đàn ông phục phịch, bệu bạo một cách đáng ngại, đọc đoạn thư viết cho người vợ cũ, bằng giọng lên bổng, xuống trầm; lưu loát như thể ông đã đọc nó cả nghìn lần trong hơn hai chục năm qua. (Tôi muốn nói, nếu ông không đọc cho ai đó nghe thì, chí ít ông cũng đọc cho…chính ông, những lúc một mình?)
Đoạn thư của người đàn ông có khuôn mặt hồng hài nhi làm đốm thuốc nơi tay người thanh niên đánh bạn sớm với những con rết nhiều chân, bất dộng. Những người còn lại cúi xuống bàn tay vô duyên, lạc lõng trên mặt bàn của họ. Chỉ riêng người con gái mau mắn, với nụ cười xởi lởi luôn nở trên môi là nhấp nhổm, bứt rứt.
Không thể nín, đợi lâu hơn, cô hỏi:
“Rồi sao anh? Chị ấy gửi ngay tiền cho anh chứ?”
Người đàn ông phục phịch, bệu bạo một cách đáng ngại, lắc đầu. Ông châm cho mình điếu thuốc khác. Không nhìn ai, ông chậm rãi:
“Ngày ấy, nếu có được năm trăm của bà ấy, cuộc đời tôi đã khác. Chắc chắn tôi đã không nhận làm công việc mà, đến hôm nay, tôi biết, anh em, bạn bè cũ vẫn còn khinh tôi. Họ nhìn tôi như một kẻ ‘sớm đầu tối đánh!’ Mà cũng đúng thôi! Họ có cái lý của họ. Chỉ tôi biết, tôi cùng đường. Tôi quá đói! Nghề mạt hạng là đạp xích lô thì tôi không có sức. Sau chừng đó năm tù, được thả ra tôi đã mang theo trong người hàng chục thứ bệnh…Tôi cũng có nghĩ tới chuyện ăn chực một số bạn bè chứ! Nhưng nhà nào, dù có tốt mấy, họ cũng chỉ có thể cưu mang tôi dăm ba bữa! Thời đó, mọi người còn đói lắm. Họ cũng bữa đói, bữa no. Chưa kể còn vợ, con họ…
“Nói thế, không có nghĩa tôi quên ơn người giúp tôi. Anh từng bị anh em tôi ngày xưa, coi là kẻ thù. Giữa lúc tôi sắp chết đói, thì anh ta cho tôi chén cơm…Nhờ thế, tôi còn sống đến ngày hôm nay. Dù sao, tôi cũng không bao giờ quên cái ơn ấy…”
Người đàn ông ngừng lại để thở. Kéo thêm một hơi thuốc, ông tiếp:
“Khi anh ta không còn, tôi cũng nghỉ việc.” Ông thở ra.
“Nhưng cách gì thì tay tôi cũng đã nhúng chàm!” Ông kết thúc câu chuyện.
Tới đây, người con gái mau mắn, với nụ cười xởi lởi luôn nở trên môi không biết nói gì. Tới phiên cô cúi xuống. Cô chẻ những ngón tay mình ra để sau đó, đan vào nhau, một cách ngượng nghịu.
Gió vẫn từng cơn luông tuồng khua khoắng nhà hàng bốn phía không vách ngăn. Về khuya, dường nó mang theo nhiều hơn những nhắn nhủ không thành tiếng. Đêm cũng trải dầy thêm, những lớp sương mỏng, như giấy quyến lên mặt hồ.
Trước khi chia tay, người phụ nữ được sinh ra, để sống cho kẻ khác hí hoáy viết ít giòng trên tấm khăn giấy. Cô chuyển nó cho ông già ngu, ngơ:
“Bất hạnh là thuộc từ của đời sống. Cuộc sống sẽ khác đi biết bao, nếu ta có thể đem lòng biết ơn cả những bất hạnh mà nó đã đem đến cho ta. Dù cho ‘đời tẻ nhạt, liếm môi mình cũng nhạt / tóc trên đầu vẫn từng ngọn riêng tây.”
Đọc xong, ông già gật đầu. Mỉm cười.
Nhưng, liệu ông có hiểu?
Du Tử Lê