Phạm Ngọc

Pham Ngoc

Bài Tình Ca Của Nắng

Không còn trong tôi những khát khao chờ đợi
em im lặng như buổi chiều
đêm giã từ mộng mị
trăng nghiêng xuống giữa đời
tìm kiếm mãi một vì sao
đã lạc mất nơi đâu
thời yêu dấu cũ
ngày em cầm trên tay đóa hướng dương
hát bài tình ca của nắng
ngày em cầm trái tim tôi
ru từng lời lãng mạn

Không còn trong tôi tình yêu của em
đứng giữa đại ngàn
tôi nói gì với gió
những chiếc lá xanh
những hàng cây ngơ ngẩn
nhìn tôi như khóc, như cười
ước mơ một lần đãng trí
để quên một điều không thể
em – vẫn buồn như mưa
tôi – cũng chẳng còn như ngày xưa nữa
đã một lần yêu em
để trái tim bất thường nhịp đập
đã một lần xa em
để thấy được vô chừng khoảng cách
em như biển lặng thầm
cứ xô mãi vào tôi muôn ngàn ngọn sóng
dẫu lặng thầm cũng đủ bạc đời nhau

Không còn trong tôi những nỗi đau
chỉ còn lại nỗi buồn tiền kiếp
chỉ còn lại niềm tin mỏi mệt
và cơn mưa rũ lá ngậm ngùi
dẫu em chẳng còn yêu tôi
vẫn đi qua những mùa hoa tím
vẫn nâng niu một trời kỷ niệm
tất cả sẽ bình yên
dù chẳng biết có còn em không nữa
bình yên cùng nỗi nhớ
bình yên cùng năm tháng yêu em

Bài Tháng Chín

Mùa Hạ đã đưa em về đâu?
còn lại tôi giữa buổi chiều tháng Chín
còn lại tôi ngủ vùi trong kỷ niệm
mùa thay mùa, tan vỡ những giấc mơ
em ra đi không biết tự bao giờ
tôi bước qua một nỗi buồn rất cũ
nắng cũng tan rồi, lá chẳng còn xanh nữa
rơi cuối ngày rả rích một cơn mưa
em đi rồi tất cả hóa xa xưa
chạm vào đâu cũng đau miền ký ức
(dẫu ký ức mong manh những điều không có thật)
vẫn ngậm ngùi trong giây phút chia xa
mất nhau rồi mà sao vẫn thiết tha
ai tìm nhau trong những ngày sắp tới
em về đâu tôi buốt lòng chờ đợi
với nỗi buồn năm tháng chẳng bình yên
mưa rơi đều, những hạt mưa nghiêng
tôi trượt ngã trên muôn vàn nhung nhớ
Thu sang rồi Hạ không còn đây nữa
tháng Chín dài thành phố mịt mù xa
con đường nào em đã đi qua
tôi về giữa những mù sương hò hẹn
không còn ai ngồi cùng chia kỷ niệm
chỉ cơn mưa dài ngọn cỏ ngậm ngùi đau
đã qua rồi một thuở kiếm tìm nhau
khi lối cũ đã chia thành hai ngả
khi số phận đã dìm sâu tất cả
mà khát khao như ngọn sóng dâng đầy
biết nói gì cùng những hạt mưa bay
tình yêu đó trăm ngàn lần cũng vậy
vẫn quay cuồng một khúc hát chia xa…

Vết Tích

Paul Klee chia tay người tôi sẽ về đâu
không còn nhau con phố dài đến thế
phố vẫn đông bỗng thấy mình đơn lẻ
đầy những nụ cười mà ray rứt cơn đau

Chia tay người tôi biết sẽ mưa mau
mưa che khuất những ngày xưa đầy nắng
khi tất cả đắm chìm trong im lặng
quanh quẩn một mình cùng nỗi nhớ khôn nguôi

Chia tay người tôi đứng gọi tên tôi
giữa khoảng trống có tiếng buồn vọng lại
giữa đất trời bỗng thấy mình thừa thải
một nửa đời còn mắc nợ với cô đơn

Chia tay người tất cả sẽ khói sương
sẽ tan biến trên giòng sông kỷ niệm
dấu vào đâu những yêu thương thề hẹn
khi nỗi buồn là vết tích buổi chia tay…

Sao Cứ Vọng Vào Nhau

khi còn sót lại chỉ một lời tạ lỗi
tạ lỗi với con đường
tạ lỗi với dòng sông
ở nơi này chỉ còn lại những mênh mông
những nhớ quên rủ nhau về lũ lượt
kỷ niệm hôm qua biết làm sao giữ được
khi cơn mưa không bắc nổi nhịp cầu
tôi bây giờ chẳng biết sẽ về đâu
nơi tôi đến mùa thu vàng trong mắt
em muôn đời vẫn thuộc về người khác
tôi muôn đời vẫn xưng tụng tình yêu
như hàng cây cứ đợi mãi buổi chiều
nghiêng nắng xuống cho xanh mùa hạ cũ
cho đêm nghe rất gần từng hơi thở
trên môi người còn vướng lại trong tôi
và nỗi buồn thì còn mãi chưa vơi
trái tim đau chưa qua ngày bão tố
chân bước đi cứ quay về quá khứ
ngoảnh lại nhìn chỉ thấy những hư không
lời yêu thương xa cách đã muôn trùng
chưa quên được bóng người trong ký ức
còn trong tôi một mùa thơ thao thức
tan vỡ rồi sao cứ vọng vào nhau
những con đường hoang vắng phía sau
những dòng sông lặng thầm phía trước
cuộc tình buồn trôi theo con nước
bến bờ xa thương nhớ ngậm ngùi
hạnh phúc nào từ mảnh trăng rơi
đêm tha thiết vang lên lời tiễn biệt
ôi giấc mơ cuối ngày đã khép
tan vỡ rồi sao cứ vọng vào nhau. ..

Khúc Hát Trăm Năm

“chia cho em một đời thơ
một đam mê, một dại khờ, một tôi…” (PQ)

Hun hút gió mùa thu và nỗi nhớ
con đường xưa hoang vắng bước chân người
ngày đã vỡ heo may tràn qua phố
chiều thì thầm giọt nắng cuối mong manh

Đêm sẽ xuống phủ tình tôi ngây dại
trăng đổ dài lối cũ bóng cô đơn
có nỗi buồn trở mình như khắc khoải
thu ngân vang âm điệu cũng dỗi hờn

Em ở đâu cơn mộng vẫn chập chờn
bài thơ viết không làm sao gửi đuợc
để trong tôi hoài nghi lời từ khước
trách làm gì chữ nghĩa đã vô tâm

Hát một mình khúc hát trăm năm
bài tình ca bây giờ nghe lạc giọng
còn tôi giữa đất trời lồng lộng
rơi vô tình chiếc lá mùa thu….

Khúc Tháng Mười

Tháng mười em có gọi tên tôi?
để biết mình vẫn còn hiện diện
hoa cúc nở vàng nơi tôi đến
mà heo may ướt sủng cả chiều

Cây thở dài đổ xuống quạnh hiu
im lặng quá nỗi niềm chưa cạn
cứ nương theo lối về không nắng
đi tìm hoài một chút bâng khuâng

Tháng mười rồi em có còn không
những chiếc lá bay tràn qua phố
những nỗi buồn xoay cùng ngọn gió
mùa thu và ký ức xa xôi

Em đành lòng lỗi hẹn cùng tôi
để vầng trăng giữa trời bỗng khuyết
ngọn đèn khuya mãi còn thao thức
đón tôi về một phiá không em…

Phạm Ngọc

Phạm Cao Hoàng

Pham Cao Hoang-001

Bây Giờ
Tặng Cúc Hoa và tôi, một thời lưu lạc

bây giờ nhớ núi nhớ rừng
nhớ sông nhớ biển nhớ trăng quê nhà
thương em ngày nắng Tuy Hòa
chiều mưa Đức Trọng, sáng Đà Lạt sương
thương em và những con đường
một thời tôi đã cùng em đi v

bây giờ lạ đất lạ quê
bước chân phiêu bạc biết về nơi đâu (*)
thương em nắng dãi mưa dầu
đau cùng tôi với nỗi đau riêng mình
chia cùng tôi một chút tình
của ngàn năm trước và nghìn năm sau

về đâu chẳng biết về đâu
thôi thì về lại buổi đầu gặp em
dòng sông xưa ấy êm đềm
mùa thu năm ấy bên thềm lá bay
bàn tay nắm chặt bàn tay
dìu nhau qua những tháng ngày gian nan

bây giờ ngồi nhớ Việt Nam
bên trời tuyết lạnh hai hàng lệ rơi

Dù Sao Vẫn Cám Ơn Đời
* Tặng anh Trần Hoài Thư

dù sao vẫn cám ơn đời
cỏ cây và gió mặt trời và hoa
cám ơn những đám mây xa
đang bay về phía quê nhà chiều nay
cám ơn những sớm heo may
lạnh se sắt lạnh bên này đại dương
cám ơn giọt nắng vô thường
lung linh ở cuối con đường khổ đau

mười năm nước chảy qua cầu
chuyện về đất nước là câu chuyện buồn
mười năm sống kiếp tha phương
thân nơi biển bắc mà hồn biển đông
mười năm thương ruộng nhớ đồng
lòng còn ở lại sao không quay về
mười năm nhớ đất thương quê
bước đi một bước nặng nề đôi chân
mười năm một thoáng phù vân
tiếng chim vườn cũ mùa trăng quê người

dù sao vẫn cám ơn đời
biển xanh và sóng núi đồi và em
cám ơn những sáng êm đềm
khói cà phê quyện bên hiên nhà mình
đứng bên bờ vực tử sinh
vẫn nghe em hát bản tình ca xưa

mười năm như một giấc mơ

Sau Chiến Tranh
Trở Lại Tuy Hòa

khi về thăm lại cố hương
thấy quê nhà nghĩ càng thương quê nhà
hắt hiu một bóng mẹ già
một ngôi mộ cỏ xanh và khổ đau
bâng khuâng một chút vườn sau
ngậm ngùi ngõ trước lao xao nắng vàng
đã qua chưa cuộc điêu tàn
đám mây năm cũ biết tan nơi nào

Mây Trắng
* Tặng anh Trần Huiền Ân

ngày đi về phía mặt trời
tôi nghe tiếng gọi của người năm xưa
và nghe tiếng mẹ ầu ơ
bên dòng sông với đôi bờ quạnh hiu
xóm thôn một thuở tiêu điều
gian nan cùng với cuộc phiêu lãng này
ngày về trắng hai bàn tay (*)
người về ôm lấy cụm mây trắng buồn
khói ngày xưa ấy còn vương
sương còn đọng lại bên dòng cổ thi
ngày về nhớ lúc ra đi
biển gào lên khúc biệt ly sao đành
vậy mà…
biền biệt bao năm

Ngày Tôi
Trở Lại Miền Đông

ngày tôi trở lại miền đông
tôi mang theo một nụ hồng cao nguyên
vẫn là tôi, vẫn là em
vẫn khu vườn cũ, vẫn thềm nhà xưa
đi cùng tôi nhé, Cúc Hoa
trên con đường mịt mù mưa xứ người
và xin cảm tạ đất trời
đã cho em lại nụ cười hồn nhiên
đi cùng tôi, giọt sương đêm
nhẹ nhàng như nhạc và hiền như thơ
mơ cùng tôi nhé Cúc Hoa
Giấc mơ Đà Lạt
thời chưa biết buồn
vẫn là tôi, vẫn là em
vẫn khu vườn lạnh tiếng chim gọi đàn
vẫn là mây trắng ngàn năm

Thương Em
Và Những Con Đường…

Đến 3 giờ chiều thì ca mổ xương chậu hoàn tất và hai tiếng sau đó họ đưa tôi vào phòng hồi sức gặp Cúc Hoa. Tôi bước vào, nhìn thấy Cúc Hoa. Mặt Cúc Hoa hơi sưng và có một vết bầm nhỏ trên mũi, còn chân trái thì băng kín mít. Cúc Hoa mở mắt nhìn tôi, không nói gì, rồi hai dòng nước mắt từ từ lăn trên má. Khuôn mặt và đôi mắt của Cúc Hoa buồn một cách lạ lùng. Suốt đời tôi, tôi sẽ không bao giờ quên khuôn mặt Cúc Hoa và những giọt nước mắt ấy. Khuôn mặt của sự chịu đựng một đời gian khó cùng những giọt nước mắt của hạnh phúc xen lẫn khổ đau.

Chúng tôi yêu nhau thời chiến tranh, cưới nhau lúc hòa bình, cuộc sống triền miên vất vả, và bây giờ Cúc Hoa phải chịu những đớn đau ghê gớm về thân xác trong những ngày lưu lạc ở xứ người. Tôi tự hỏi tại sao không phải là tôi mà lại là Cúc Hoa. Tôi cũng không ngờ có một ngày Cúc Hoa phải rơi vào một hoàn cảnh như thế này vì Cúc Hoa vốn là người lái xe rất cẩn thận.

Đêm đó ai cũng muốn ở lại trong bệnh viện với Cúc Hoa nhưng họ chỉ cho phép một người . Tôi nói các con cứ về đi làm bình thường, còn tôi sẽ là người ở lại. Trong những giờ phút khó khăn nhất của Cúc Hoa, tôi cần phải có mặt bên nàng.

Cúc Hoa nằm đó, trên giường bệnh, lặng lẽ, hơi thở mệt nhọc. Tôi ngồi bên cạnh, nghĩ lan man đủ thứ chuyện, nhớ mênh mang đoạn đường đời mà hai chúng tôi đã đi qua. Chúng tôi quen nhau trong một đêm thơ nhạc do nhóm bạn Phan Bá Chức, Nguyễn Ngọc Phong, Trần Minh Triền, Nguyễn Khắc Nhượng và Nguyễn Hiền Tiên phối hợp với Lê Uyên Phương tổ chức ở quán Lục Huyền Cầm, Đà Lạt. Thuở ấy tôi mê thơ và nhạc hơn bất cứ thứ gì trên cõi đời này. Tôi là một con ngựa hoang chỉ thích rong ruổi lang thang đây dó. Khi quen Cúc Hoa, mọi thứ bắt đầu thay đổi, và tôi biết đã đến lúc tôi cần phải dừng bước giang hồ. Cúc Hoa đến với tôi nhẹ nhàng , nồng nàn, và vô cùng lãng mạn.

Thế hệ chúng tôi, mà Trần Hoài Thư gọi là “thế hệ chiến tranh”, là một thế hệ không may mắn. Thời chiến tranh thì sống trong chết chóc, lo âu, sợ hãi. Khi hòa bình thì sống trong cơ cực, khó khăn. Sự nhẹ nhàng, nồng nàn, và lãng mạn của Cúc Hoa đã giúp tôi vượt qua những khó khăn nhiều lúc tưởng chừng như không vượt qua nổi.

Cúc Hoa nằm đó, trong nỗi đớn đau của thân xác.

thương em ngày nắng Tuy Hòa
chiều mưa Đức Trọng sáng Đà Lạt sương
thương em và những con đường
một thời tôi đã cùng em đi về
bây giờ lạ đất lạ quê
bước chân phiêu bạc biết về nơi đâu
thương em nắng dãi mưa dầu
đau cùng tôi với nỗi đau riêng mình
chia cùng tôi một chút tình
của ngàn năm trước và nghìn năm sau

Cúc Hoa nằm đó, vẫn khuôn mặt thánh thiện nhưng có hằn lên những nét khổ đau. Một đời Cúc Hoa hết tình hết nghĩa với tôi và các con. Tôi cầu mong sao vết thương không nặng lắm để Cúc Hoa có thể vượt qua tai ách này.

Đến gần nửa đêm, Cúc Hoa tỉnh thuốc mê và đã có thể gượng nói chuyện với tôi.
– Em có nhớ mọi việc xảy ra như thế nào không?
– Em chỉ nhớ là mình lái xe chạy trên đường Westfields, qua khỏi bưu điện thì không biết gì nữa.
– Em thấy trong người thế nào?
– Đau nhức và ê ẩm khắp người. Em bị thương có nặng không anh?
– Chân trái em bị rạn hai chỗ. Chiều nay họ đã mổ và chỉnh sửa phần bị rạn ở xương chậu.
– Chừng nào họ mổ chỗ còn lại?
– Họ nói phải theo dõi sự hồi phục và sức chịu đựng của em rối mới tính tiếp.
– Liệu sau này chân em có bị tật hay không?
– Không đâu em.

Tôi nói để Cúc Hoa an tâm chứ thật ra chỉ có trời mới biết rồi đây Cúc Hoa sẽ như thế nào.

Cúc Hoa trầm ngâm, im lặng hồi lâu.
– Em đang nghĩ gì?
– Em buồn quá . Hết chuyện này đến chuyện khác. Muốn yên mà vẫn không yên.
– Em cứ bình tĩnh, mọi việc rồi cũng sẽ ổn thôi.
– Em nhớ Đà Lạt. Mai mốt lành bệnh anh đi với em về Đà Lạt anh nhé.
– Ừ, anh sẽ đi với em. Sao em lại nghĩ về Đà Lạt trong lúc này?.
– Thật ra, không phải lúc này, mà lúc nào em cũng nghĩ về Đà Lạt. Em tìm thấy sự bình yên ở đó.
– Anh cũng nghĩ như em.

Trở Về Mái Trường Xưa

* Tặng Nguyễn Đình Cai, Phạm Thành Long,
Đoàn Việt Hùng, Nguyễn Thị Trang,
Phan Thị Thanh Trúc, Nguyễn Thị Ruộng

chiều nay ghé thăm trường cũ
nép mình bên gốc phượng xưa
chợt nghe trăm ngàn thương nhớ
hình như thu đã sang mùa

tìm lại tuổi thơ chốn này
lần theo những tháng ngày qua
lần theo những dòng kỷ niệm
tuổi thơ và nhũng nụ hoa

chiều nay ghé thăm trường cũ
cây bàng xưa vẫn còn đây
hỏi thăm những người thuở ấy
bạn tôi nay ở phương nào

tìm lại người xưa chốn này
thầy ơi, con đã về đây
ai còn, ai đi, ai nhớ ?
cuối trời hiu hắt mây bay

chiều nay ghé thăm trường cũ
nghe mùa thu hát ngoài kia
chợt nghe trong lòng man mác
những ngày thơ ấu xa xưa

Mỗi Người
Chia Nhau Một Chút Khổ

1.
Những ngày đầu tháng 5.1975 Sài Gòn lên cơn sốt thuốc tây và xe đạp. Thiên hạ đổ xô đi mua thuốc tây và xe đạp vì có tin đồn rằng tiền miền nam sẽ không còn giá trị và hai mặt hàng này sẽ trở nên khan hiếm trong những ngày sắp tới. Giá thuốc tây và xe đạp tăng vùn vụt nhưng người mua vẫn cứ tranh nhau mua.

Trong gia đình tôi, anh Bảy vốn là người nhạy bén với những biến động kinh tế theo kiểu này nên ngay từ lúc bắt đầu cơn sốt anh mua một chiếc xe đạp do Nhật sản xuất, sau đó anh tìm mua các loại thuốc tây thường dùng.

Sáng hôm ấy, anh Bảy tiếp tục đi mua thuốc tây rất sớm. Ở nhà chẳng biết làm gì, tôi lang thang ra chỗ đường Lê Văn Duyệt tìm một quán cóc để uống một ly cà phê sáng. Khi đi ngang qua tiệm thuốc tây, tôi thoáng thấy anh Bảy trong đó.

Tôi bước vào tiệm thuốc tây.
– Xong chưa? Đi uống cà phê với em.

Anh Bảy quay lại, thay vì trả lời tôi, anh nhìn ra ngoài đường, mặt biến sắc, hốt hoảng, lắp bắp:
– Chiếc xe đạp. Chiếc xe đạp mới mua. Đứa nào lấy rồi. Anh mới vừa bước vào đây thôi mà.

Cạnh tiệm thuốc tây có một con hẻm nhỏ. Tôi phản ứng rất nhanh:
– Chắc nó đi chưa xa. Em đuổi theo con hẻm này, còn anh đuổi theo hướng đường Lê Văn Duyệt.

Nói xong, tôi chạy vào con hẻm. Chưa bao giờ tôi chạy nhanh như bữa đó. Cứ lao về phía trước. Không thấy gì cả. Được khoảng 200 mét thì thấm mệt. Tôi bắt đầu giảm tốc độ, chạy chậm hơn. Vừa lúc ấy một bé trai khoảng hơn 10 tuổi, dáng vẻ lanh lợi, đang đứng trước cổng nhà, hỏi:
– Có chuyện gì vậy chú?

Tôi dừng lại:
– Cháu có thấy ai đi một chiếc xe đạp mới ngang qua đây không?
– Xe màu gì vậy chú?
– Màu đỏ.

Đôi mắt cậu bé sáng lên:
– Có. Cháu thấy thằng Thảo vừa đi chiếc xe đạp màu đỏ ngang qua đây.

Tôi thoáng thấy một tia hy vọng:
– Cháu này. Hồi nào tới giờ thằng Thảo có xe đạp không?
– Không đâu chú. Nó thường chơi với bọn cháu, cháu biết rõ mà. Nó làm gì có xe đạp.
– Cháu biết nhà nó ở đâu không?
– Biết chứ chú, ở gần đường xe lửa phía sau ga Hòa Hưng.
– Cháu có thể đưa chú đến nhà thằng Thảo không?
– Được mà chú. Cháu sẽ đưa chú đến nhà thằng Thảo.

Trên đường đi, tôi hỏi:
– Cháu tên gì?
– Cháu tên Thắng.
– Cháu học lớp mấy?
– Cháu học lớp năm.
– Thằng Thảo học lớp mấy?
– Nó lớn hơn cháu hai tuổi nhưng nghỉ học lâu rồi. Nhà nó nghèo lắm. Cha nó đi lính chết trận. Nó phải nghỉ học theo mẹ đi lượm ve chai để bán.
– Trước giờ nó có thường ăn cắp không?
– Không đâu chú. Nó chơi thân với cháu, cháu biết rõ mà. Nó rất đàng hoàng. Chú này, lát nữa tới nhà thằng Thảo chú đừng vào. Mẹ nó sẽ đánh nó nếu biết nó ăn cắp. Cháu sẽ vào gọi nó ra gặp chú.

Thắng đưa tôi đi thật xa, dọc theo đường rầy xe lửa, rồi chỉ vào một căn nhà nhỏ tồi tàn, cũ kỹ, mái tôn, vách ván.
– Nhà thằng Thảo đó chú. Chú đứng né vào chỗ lùm cây kia chờ cháu.

Một lát sau Thắng trở ra, chạy nhanh đến chỗ tôi.
– Nó không có ở nhà. Mẹ nó nói nó đi từ sáng sớm đến giờ chưa về.
– Tối nay chú trở lại chỗ này, cháu cố gắng tìm thằng Thảo để chú gặp. Được không?
– Thôi chú. Biết giờ nào nó mới về. Chú cứ để đó cháu tìm nó rồi đưa nó lên phường gặp chú. Cháu biết chú là “cách mạng đang làm trên phường” mà.

Câu nói của Thắng làm tôi ngớ ra vì bất ngờ. Tôi là giáo chức trong chính quyền cũ, từ miền trung di tản vào đây, có biết trụ sở phường nằm ở chỗ nào đâu, bỗng dưng cậu bé này lại gọi tôi là “cách mạng đang làm trên phường”.

Tôi hỏi Thắng:
– Sao cháu biết chú là “cách mạng đang làm trên phường”?
– Chiều hôm qua cháu theo mấy thằng bạn chơi đá banh ở trên phường. Cháu thấy chú ở trong đó.

Như vậy là Thắng đã lầm tôi với một người nào đó trên phường. Tuy nhiên, tôi không giải thích.
– Thắng này, nếu cháu tìm được thằng Thảo, cháu đừng đưa nó lên phường, mà đưa nó đến nhà chú vào buổi tối. Được không?
– Phải đưa nó lên phường nó mới sợ chú ơi!
– Đừng cháu. Đừng làm nó sợ. Cứ đưa nó đến nhà chú là được rồi. Nhà chú cũng ở gần đây thôi.

Tôi đưa Thắng địa chỉ chỗ tôi và mấy anh em trong gia đình đang ở nhờ và hỏi Thắng:
– Cháu biết địa chỉ này không?
– Biết chứ chú. Dễ mà. Trong xóm này, hẻm nào cháu cũng biết mà.

2.
Về nhà, tôi kể lại mọi chuyện cho mấy ông anh nghe. Nghe chuyện tôi là “cách mạng đang làm trên phường” anh Năm cười ngặt nghẽo:
– Có khi như vậy cũng hay. Để đó xem sao.

Anh Bảy bàn với tôi sẽ đi mua một chiếc xe đạp khác. Xem như chiếc kia đã mất. Không mua, vài hôm nữa sẽ chẳng còn xe để mua. Chưa chắc thằng Thảo ăn cắp chiếc xe đó, và nếu nó ăn cắp thì chuyện lấy lại chiếc xe cũng không phải là dễ dàng.

Ngay sáng hôm sau, anh Bảy xuống các cửa hàng bán xe đạp để mua xe như đã bàn. Tuy nhiên, dự tính bất thành vì giá xe đạp tăng ngất ngưởng; số tiền ít ỏi còn lại trong túi anh Bảy không đủ để mua chiếc thứ hai.

Buổi tối, trời rất nóng. Tôi và anh Bảy đang ngồi trước hiên nhà bàn công chuyện cho ngày mai bỗng nhiên có hai cậu bé dừng trước cổng nhà, ngần ngừ một chút rồi bước vào.

Trời hơi tối, chưa kịp nhận ra hai cậu bé này là ai thì một trong hai đứa nói lớn:
– Cháu đưa thằng Thảo đến gặp chú. Nó lấy chiếc xe của chú đó chú ơi.

Thì ra là Thắng. Khi đưa địa chỉ nhà cho Thắng, tôi cũng đưa theo kiểu cầu may, không nghĩ Thắng sẽ đến.

Tôi bước ra, nói với Thắng:
– Cháu giỏi thật. Cám ơn cháu rất nhiều.

Để cho Thảo không sợ, tôi đến vỗ vai nó:
– Cháu vào đây chơi, nói chuyện với chú.

Tôi đưa hai đứa vào hiên nhà, ngồi trên bậc tam cấp. Thảo có khuôn mặt hơi khắc khổ, tóc khô, nước da ngăm đen. Tôi chưa kịp nói gì thì Thắng lại lên tiếng:
– Cháu tìm được nó chiều nay ở ngoài chợ Hòa Hưng. Cháu nói chú là “cách mạng đang làm trên phường” nên nó sợ lắm.

Anh Năm từ trong nhà nói vọng ra:
– Đem nhốt nó lại.

Nghe vậy, Thảo khóc rống lên:
– Cháu sợ lắm. Đừng nhốt cháu.

Anh Năm là sĩ quan trong quân đội vừa tan hàng, chưa biết sẽ bị người ta nhốt lúc nào, bây giờ anh lại dọa, đòi nhốt thằng Thảo. Quả là buồn cười. Tôi không nhịn cười được, nói vọng vào:
– Không nhốt thằng Thảo. Nhốt anh thì có.

Thảo thật thà:
– Thiệt hả chú? Không nhốt cháu hả chú?

Nãy giờ anh Bảy ngồi im nhưng mừng ra mặt. Anh dỗ Thảo:
– Cháu để chiếc xe đạp ở đâu? Cháu đừng sợ. Sẽ không nhốt
cháu đâu.
Thắng chen vào:
– Nó bán cho ông Bốn thợ mộc rồi.
– Tiền bán xe cháu để ở đâu?
– Cháu đã lấy một ít để mua thuốc và đồ ăn cho mẹ cháu. Gần một tuần nay bán ve chai không ai mua, nhà chẳng còn tiền, mẹ cháu lại bị đau…

Nói xong, nó lấy một gói nhỏ gói bằng giấy từ trong túi quần soọc đưa cho tôi:
– Tiền vẫn còn đây. Xin chú tha tội cho cháu.

Tôi đưa gói tiền cho anh Bảy đếm. Đếm xong, anh Bảy có vẻ không vui. Anh nói với Thảo:
– Chú muốn mua lại chiếc xe đạp này. Cháu dẫn chú đi gặp ông Bốn thợ mộc được không?

Thảo có vẻ do dự:
– Cháu không có tiền để trả lại ông Bốn. Chú ơi, cháu không dám gặp ông Bốn đâu.
– Cháu dẫn chú tới đó, còn mọi việc cứ để chú thương lượng.
– Mấy chú không nhốt cháu thì biểu cháu làm gì cháu cũng làm. Giờ này chắc ông Bốn đã đi ngủ.
– Sáng mai đi được không?
– Dạ được.

Thắng và Thảo chào rồi ra về. Tôi đi với hai cậu bé một đoạn, vừa đi vừa hỏi Thảo:
– Chú trông cháu cũng là người đàng hoàng, sao lại ăn cắp xe đạp?
– Gần một tuần nay ve chai lượm bao nhiêu cũng có nhưng bán chẳng ai mua. Mẹ cháu lại bị đau, nhà hết tiền, cháu làm liều kiếm tiền mua thức ăn và mua thuốc cho mẹ cháu.
– Cháu tự làm chuyện này hay có ai bày không?
– Thằng Toán ở cùng xóm bày cháu. Thằng này rất giỏi chuyện ăn cắp. Nó nói theo kinh nghiệm của nó, sau khi dựng xe đạp, người ta đi thẳng vào trong tiệm, ít khi quay lưng nhìn lại. Do vậy, mình canh sẵn, họ vừa quay lưng là mình chớp thật nhanh và chạy đi ngay. Cháu làm theo lời thằng Toán bày.
– Cháu có biết là ăn cắp thì sẽ bị ở tù không?
– Cháu không biết, nhưng mẹ cháu thường nói với cháu ăn cắp là không tốt, mai mốt chết xuống sẽ bị trừng phạt. Cháu đi lượm ve chai với mẹ, thấy đồ đạc người ta để quanh nhà nhưng không bao giờ cháu lấy. Chú ơi, chú tha tội cho cháu. Cháu lỡ lần này thôi.
– Chú sẽ chẳng làm gì cháu đâu. Chú cũng không phải là “cách mạng đang làm trên phường đâu”.

Tôi quay sang Thắng:
– Chắc Thắng lầm chú với người nào trên phường.

Thắng cười bẽn lẽn:
– Vậy mà cháu cứ tưởng …. Làm thằng Thảo hết hồn.

Tôi hỏi Thảo:
– Nghe nói mẹ cháu bị đau. Mai cho chú ghé thăm mẹ, rồi hẵn đến gặp ông Bốn thợ mộc. Được không?

Thảo lắc đầu quầy quậy:
– Không được đâu chú ơi. Lỡ chú nói với mẹ chuyện cháu làm bậy, mẹ sẽ đánh cháu.
– Chú sẽ không nói gì hết. Chỉ thăm mẹ thôi.
– Thôi chú. Cháu sợ lắm.

Tôi lấy một ít tiền lẻ dúi vào tay Thắng:
– Cho cháu cái này. Cháu mua cái gì cho Thảo cùng ăn. Chắc nó đang đói. Mai hai đứa nhớ đến, đưa chú đi gặp ông Bốn thợ mộc.

Thắng thích chí:
– Đúng đó chú. Chiều đến giờ thằng Thảo chưa ăn gì. Cháu sẽ mua bánh mì pa-tê. Mai tụi cháu sẽ đến sớm.
Tôi quay về, nói với anh Bảy:
– Có thiếu chút ít nhưng dù sao nó cũng trả tiền lại rồi. Đi tìm ông Bốn thợ mộc làm gì cho mất công?

Anh Bảy lật qua lật lại gói tiền Thảo đưa, cười buồn:
– Hồi nãy chưa kịp nói với chú. Đã nghèo còn gặp cái eo. Tiền thằng Thảo đưa chỉ hơn nửa số tiền anh bỏ ra để mua chiếc xe đạp. Chắc nó bán rẻ. Rẻ người ta mới mua. Bây giờ chỉ còn cách tìm người mua để lấy lại chiếc xe đạp.

3.
Sáng sớm, vừa mở cửa, Thắng và Thảo đã ngồi sẵn trước hiên nhà.
– Các cháu đến sớm vậy?

Thắng nhanh nhẩu:
– Thằng Thảo nói với cháu nó rất hối hận. Nó muốn đưa chú đến gặp ông Bốn thợ mộc ngay để lấy lại chiếc xe. Đêm qua nó chỉ mong trời sáng để sang gặp chú.
– Chờ chú một chút. Chú vào thay quần áo rồi đi.

Anh Bảy và tôi theo hai cậu bé đi lòng vòng qua nhiều đường hẻm ở phía ga xe lửa Hòa Hưng. Mất hơn 20 phút đi bộ mới đến nhà ông Bốn thợ mộc. Căn nhà không đến nỗi tồi tàn như nhà thằng Thảo nhưng nhìn vào có thể nhận ra ngay nhà của dân nghèo.

Bốn thợ mộc trạc 40 tuổi, người hơi thấp, tóc cắt ngắn, khuôn mặt trông có vẻ thật thà. Đặc biệt, đôi chân của ông hơi khập khiểng. Thấy chúng tôi đi với Thảo và Thắng, có lẽ ông đoán được chúng tôi là ai. Ông bước ra, mặt hơi ngượng ngùng, mời chúng tôi vào. Thắng và Thảo cũng vào theo.

Bước vào nhà, tôi thấy một bé trai và một bé gái khoảng hơn 10 tuổi, nước da tái, tóc tai bù xù, đang ngồi ăn cháo với cá khô. Nghề ông là thợ mộc, nhưng nhìn quanh nhà không thấy bàn, tủ, hay đồ đạc gì đáng giá. Tôi có ý quan sát để xem ông để chiếc xe đạp ở đâu nhưng không thấy.

Anh Bảy làm ra vẻ thân thiện:
– Chào anh Bốn. Chị đâu rồi? Sao không ăn sáng với mấy cháu?
– Bà ấy bệnh và qua đời cách đây hai năm. Tôi gà trống nuôi con.
– Anh làm nghề thợ mộc lâu chưa?
– Hơn 10 năm.
– Trước anh cũng ở trong quân đội?
– Không. Chân tôi bị tật nên được miễn dịch vì lý do sức khỏe. Từ khi mẹ cháu qua đời đến giờ, một mình nuôi con, cực khổ quá, có gì không phải mấy anh bỏ qua cho.

Tôi trấn an:
– Không có gì đâu anh Bốn. Thảo nói nó bán chiếc xe đạp cho anh?

Bốn thợ mộc gật đầu:
– Nó bán cho tôi trưa hôm qua. Nó đi ngang nhà, hỏi tôi có muốn mua xe không, nó bán.
– Anh có biết đó là đồ ăn cắp không?
– Thật tình tôi không biết. Tôi thiệt thà, ai nói gì cũng tin. Nó nói đó là xe của nó thì tôi tin là của nó nhưng khi thấy các anh đến đây tôi mới hiểu ra.
– Sao anh không mua xe ngoài tiệm, có hóa đơn, có nguồn gốc đàng hoàng?

Bốn thợ mộc thở dài:
– Bữa trước tôi có tính mua ngoài tiệm nhưng không đủ tiền.

Anh Bảy đứng dậy, nhìn quanh, rồi nói:
– Anh Bốn này. Thằng Thảo đã đưa tiền bán xe cho tôi, bây giờ tôi trả lại anh, anh cho tôi lấy lại chiếc xe đạp.

Nói xong, anh Bảy để gói tiền trên bàn.

Bốn thợ mộc ngồi im một một lúc, khuôn mặt thẫn thờ.
– Tôi bán lại cho người khác rồi.

Anh Bảy không tin:
– Mới trưa hôm qua anh mua của thằng Thảo, bây giờ anh nói anh bán cho người khác rồi. Sao mà nhanh vậy?

Bốn thợ mộc chùng giọng:
– Thấy rẻ thì ham và mua. Mua xong thấy kham không nổi. Gần một tuần nay không đi làm vì chẳng ai thuê. Nhà hết gạo, hết đồ ăn. Vốn liếng chỉ có chừng đó. Chiều hôm qua phải bán lại cho một người qua đường, cũng bằng giá tiền đã trả cho thằng Thảo, không lời lỗ gì. Tôi thật có lỗi với các anh.

Anh Bảy quay sang nhìn tôi, lộ vẻ thất vọng. Tôi nhìn Bốn thợ mộc. Khuôn mặt chơn chất hiền hậu thoáng có chút sợ hãi của ông trông thật tội nghiệp. Hai đứa nhỏ vừa ăn cháo xong, đang dọn chén bát mang ra ngoài sân rửa. Thảo đứng khép nép trong góc phòng. Thắng đứng bên cạnh, cầm bàn tay Thảo.

Tôi nói với anh Bảy:
– Thôi anh Bảy. Tiếc làm gì? Đáng lẽ mình đã chết trong chiến tranh, bây giờ vẫn còn sống là may lắm rồi. Còn người còn của mà. Anh Bốn đây thì nghèo, mình cũng khổ, mà mẹ thằng Thảo cũng cơ cực. Thôi thì mỗi người chia nhau một chút khổ trong lúc khó khăn này./.

Mây Khói Quê Nhà

bữa đó con về thăm Phú Thứ
gặp lại mùi hương của ruộng đồng
gặp lại những năm và tháng cũ
mây khói quê nhà nhẹ bước chân

mùi hương của đất làm con nhớ
những giọt mồ hôi những nhọc nhằn
cha đã vì con mà nhỏ xuống
cho giấc mơ đời con thêm xanh

mùi hương của đất làm con tiếc
những ngày hoa mộng thuở bình yên
nồi cá rô thơm mùa lúa mới
và tiếng cười vui của mẹ hiền

ngày mai con lại ra đi nữa
cứ đi hoài mà chẳng đến nơi
ước mơ ngày ấy giờ chưa đạt
mà bóng thời gian đã muộn rồi

Giáng Sinh Ở Việt Nam

nghe trong tiếng nhạc vàng réo rắt
gót chân ai bước xuống bên đời
cả trần gian nở hoa thơm ngát
hãy cùng nhau quì xuống đợi tin Người

lạy Chúa tôi đêm nay Người đã đến
mưa ngoài trời đang tạt giữa hồn tôi
tim có se nhưng máu tôi vẫn chảy
đời buồn tênh vẫn mỉm môi cười

giữa phù vinh có khi buồn ứa máu
sống như là đã chết giữa vô tăm
vẫn biết Người có trái tim nhân ái
mặt đất này còn đợi phúc Người ban

vẫn biết Người sáng danh Thiên Chúa
trong hồn tôi là bóng mát hiển linh
nên đêm nay tôi nghe lòng phơi phới
dù phúc kia đâu phải riêng mình

lạy Chúa tôi đêm nay Người có thấy
đường tôi đi lớp lớp mộ bia xanh
có phải sống là tự mình hủy diệt
tự lưu đày giữa biên giới phân tranh

có phải sống là rơi nước mắt
khóc ngậm ngùi bên những dải khăn tang
Chúa tôi ơi Người có nghe tiếng súng
nổ bên trời hiu hắt giọt mưa sương

tôi vẫn đợi một ngày được thấy
chút yên bình của thuở xa xưa
và trên cánh đồng thơm lúa chín
cánh diều bay trong gió dật dờ

tôi vẫn mơ có một chiều trở lại
những con đường rộn rã bước chân quen
hay giữa lòng heo may tháng chạp
tiếng còi tàu giục giã đêm đêm

nhạc vẫn trổi bên bờ vô tận
hãy cúi đầu chờ đợi phút linh thiêng
dìu dặt tiếng thánh ca trong mưa bấc
nghe vang vang trên mặt đất ưu phiền

lạy Chúa tôi đêm nay Người đã đến
trong hồn tôi hoa nở đóa nhiệm mầu
trăm năm sau dưới trời cô độc
tạ ơn Người này một trái tim đau

Trở Về Mái Trường Xưa

Chiều nay ghé thăm trường cũ
nép mình bên gốc phượng xưa
chợt nghe trăm ngàn thương nhớ
hình như thu đã sang mùa

tìm lại tuổi thơ chốn này
lần theo những tháng ngày qua
lần theo những dòng kỷ niệm
tuổi thơ và nhũng nụ hoa

chiều nay ghé thăm trường cũ
cây bàng xưa vẫn còn đây
hỏi thăm những người thuở ấy
bạn tôi nay ở phương nào

tìm lại người xưa chốn này
thầy ơi, con đã về đây
ai còn, ai đi, ai nhớ ?
cuối trời hiu hắt mây bay

chiều nay ghé thăm trường cũ
nghe mùa thu hát ngoài kia
chợt nghe trong lòng man mác
những ngày thơ ấu xa xưa

Phạm Cao Hoàng
Friday, 28 February 2014 15:01
Written by Phạm Cao Hoàng
Nhớ…* Phạm Cao Hoàng

Nhớ Cúc Hoa

đất anh ở và rừng anh thở
sáng anh đi chiều lại trở về
rừng vi vút những đêm gió thổi
bóng anh chìm với bóng hư vô

đôi khi đứng bên triền đá dựng
anh hoang mang sợ núi đè mình
có khi thấy con chồn con cáo
anh giật lùi lòng thoáng hãi kinh

anh đi qua rừng cao quá đỗi
anh đi về rừng quá đỗi cao
anh thu mình như con sâu nhỏ
nằm rung rinh giữa đám lá rì rào

và buồn thảm ôi những chiều lặng lẽ
núi và anh thành hai kẻ đăm chiêu
núi ngó anh và anh ngó núi
núi đụng trời anh đụng nỗi đìu hiu

đất anh ở và rừng anh thở
quá lâu ngày nên thấy hoang mang
anh sống dở và anh chết dở
giữa núi rừng cao ngất ngàn năm

Hành Phương Đông

Hỡi ơi trời đất vô cùng rộng
Nào biết tìm đâu một mái nhà
Nguyễn Bính

bạn ta, áo ngươi sao bạc thếch
chiều nay còn một ngươi với ta
ngươi nhớ gì dưới trời mây trắng
ta nhớ màu hoàng hôn năm xưa

ngươi phong trần ta cũng giang hồ
vó ngựa qua nhịp khua lóc cóc
buổi ra đi đâu mơ ngày về
nhưng chiều nay ngươi ơi ta muốn khóc

ngươi ba mươi ta cũng ba mươi
kể cũng đã mười năm rồi, xa lắc
thì vui đi cho hết một đời
rằng ta kẻ trời cho sống sót

đôi khi ta mơ một căn nhà trống
dù thu sang hay lồng lộng buổi mưa về
gõ trên quãng đời xưa mà hát
rằng ngàn năm mây trắng đời ta

bạn ta, còn đây lưng chén rượu
ta mời ngươi cạn nốt cùng ta
dẫu lòng ta bạc hay ngươi bạc
cũng cầm bằng như bóng mây qua

cũng như là những giọt máu hồng
đã nhỏ xuống trong mùa xương máu
bên trời kia, ngươi nghe gì không
tiếng ai vọng đau mấy chiều cố xứ

trong lòng ta có một dòng sông
dòng sông xưa đục mù bến nước
lau lách khuya sương lạnh hàng hàng
bạn ta hỡi, làm sao quên được

ta chợt thấy trong đôi mắt ngươi
có điều gì ngươi chưa thể nói
mây vẫn còn giăng trắng một trời
hồn ta cũng giăng đầy sương khói

có nỗi buồn nào đang len trong từng mạch máu
có mũi nhọn nào đâm trong tim ta từng cơn
cạn chén rượu thấy trời đất sụp
ta cũng như ngươi, có vui gì hơn

bạn ta, ngươi sống có bao năm
mà sương gió đầy trên mái tóc
ta cùng ngươi đi giữa phương đông
đất rộng quá nên ngàn năm còn cô độc

mây trắng quá và chiều tê tái lắm
biết về đâu giữa lúc hoàng hôn phai
ta cùng ngươi những bóng đời lếch thếch
chiều tan mau rồi vẫn bóng đêm dài

sống nửa đời chẳng có một quê nhà
buổi lận đận thân gửi nhờ đất khách
chẳng lẽ ta ôm lòng mà chờ
chờ một thuở huy hoàng trên mặt đất

chẳng lẽ ta bắt chước người xưa
ôm chí lớn đi cùng trời đất
trăm năm rồi như bóng mây qua
chí đã cùn nên thiên thu đành chôn chặt

chẳng lẽ ta học người thất thế
mượn dăm chén rượu lãng quên đời
hay ngửa mặt ngâm câu khí khái
giữa chợ đời lê gót rong chơi

bạn ta, vui chi mà cười ngất
buồn chi đập chén vỡ tan tành
mây phương nam có khi mù phương bắc
có khi là mây chia cắt ngàn năm

ta có khi đứng bên tuyệt lộ
thấy một màu nắng úa dưới nhân gian
lớp lớp những mồ xanh bóng cỏ
huyệt sâu kia ta đã có phần

thời xuân thu chẳng thấy ngọn ngô đồng
chim phượng bay dưới trời tan tác
thời hoàng kim của mưa đổ máu hồng
kẻ thất chí nhìn trời rơi nước mắt

ta với ngươi đứng giữa vực tử sinh
vẫn thấy bay một trời mây trắng
nghe quanh đây trời đất quá điêu tàn
không còn ai giữa chiều thoi thóp nắng

trong mắt ngươi có bóng đời ta tan vỡ
có mùa đông quê cũ rét mưa phùn
có đầu thu rụng đầy bông khế
có bông cúc vàng nở rộ chớm sang xuân

có chuyến tàu đi trong chiều sương lạnh
nhả khói buồn tan với hoàng hôn
có chiếc khăn tay vẫy ngang mắt lệ
bánh sắt lăn như nghiến nát cả lòng

chiều nay đèn nhà ai thắp sáng
nghe rộn ràng bên lớp khói đùn quanh
mười năm, ta hay ngươi người viễn khách
rét về chưa mà hồn lạnh căm căm

ta cùng ngươi đi giữa phương đông
giày đã rách nhưng chân chưa thấy mỏi
vỗ trên lưng ngày tháng mà ca rằng
giữa trần gian ta như hạt bụi

bụi dẫu có ngàn năm chờ đợi
cũng ngậm ngùi tan với hư không
ngươi dẫu cạn bao nhiêu hồ rựou
cũng dễ chi đã ấm được lòng

cũng không bằng một sớm mùa đông
quàng khăn rét ngồi bên cửa sổ
hay co ro bên bếp lửa hồng
ấm đời nhau dăm câu chuyện kể

thời bây giờ ta như chim bị đạn
kêu đau thương nay đã suốt bao chiều
bay lảo đảo dưới trời hiu quạnh
đợi tan tành cùng mặt đất buồn thiu

thời bây giờ, của những giọt nước mắt
ướt đẫm khăn hồng người con gái năm xưa
thời của những khăn tang chít vội
thời ruột đau như cắt nỗi chia lìa

thời huy hoàng của những bầy quạ đen
bay phơi phới giữa phương đông hực lửa
thời của những người đã đánh mất trái tim
chỉ còn bóng hận thù vây mọi phía

cắn trong răng một trái bồ hòn
không thể nói những điều muốn nói
ta cùng ngươi những bóng đời thầm
nhìn mây trắng lòng đau vời vợi

đã bao năm dòng máu ta sắp cạn
mà nơi đây không một bóng ai về
rụng tan tác những mùa hoa rụng
mà mây thì mây trắng lê thê

ta cùng ngươi vẽ bóng mà chờ
cùng mặt đất quay theo thời chiến quốc
chiều nay còn một ngươi với ta
bước khập khiểng dưới trời cô độc

có tiếng tù và vang vang trong gió
âm thanh buồn xé vỡ không gian
cũng là lúc nụ cười ta héo hắt
chiều thê lương trời đất quá điêu tàn

có tiếng ai vọng từ muôn kiếp trước
bông hồng nào vừa rụng giữa lòng ta
trong mắt ngươi có chút gì u uất
soi long lanh bóng dáng một quê nhà

kể cũng đã mười năm rồi ngươi hỡi
ngửa nghiêng cùng lịch sử thăng trầm
vui có khi cười ra nước mắt
có khi là rượu say khướt hoàng hôn

ruột có khi tưởng lìa chín khúc
máu có khi ứ giữa buồng tim
cũng đành sống cho qua thời mạt kiếp
dù tháng ngày chụp xuống những oan khiên

bạn ta, bên kia sông là núi
núi của ngàn năm đá vọng bóng người đi
núi tiếp sông và sông tiếp biển
sông tiễn người qua bến phân ly

sông ngậm ngùi vỗ sóng thiên thu
mùa bão tới gầm lên hồi bi thiết
gờn gợn trên sóng bạc những căm thù
bởi máu đã nhuộm hồng sông nước

bấc đã lụn nên đèn leo lét
gót ai qua rờm rợp khắp non sông
trên mặt đất người người rơi nước mắt
và nơi đây ta ngậm nỗi căm hờn

ta cùng ngươi đi giữa phương đông
thương vườn ai đìu hiu dăm xác lá
mái rêu phong cửa khép im lìm
nhà ai đó giống quê nhà ta quá

giậu ai đó đỏ hàng dâm bụt
ngỡ như màu mực tím thuở mười ba
nghe thoang thoảng mùi hương sách mới
có chút gì nghèn nghẹn giữa tim ta

bóng chim nào lạc cánh cuối trời xa
đất rộng quá biết đâu là cố lý
và nơi đây hiu hắt những đời người
dài râu tóc ngồi mơ thời thịnh trị

lúc tuổi trẻ đã tan rồi chí khí
sống nửa đời ta chẳng thấy quê hương
nhìn lên cao mây còn bay lớp lớp
ta cùng ngươi quay với bóng tang thương

Bây Giờ

bây giờ nhớ núi nhớ rừng
nhớ sông nhớ biển nhớ trăng quê nhà
thương em ngày nắng Tuy Hòa
chiều mưa Đức Trọng, sáng Đà Lạt sương
thương em và những con đường
một thời tôi đã cùng em đi về

bây giờ lạ đất lạ quê
bước chân phiêu bạc biết về nơi đâu (*)
thương em nắng dãi mưa dầu
đau cùng tôi với nỗi đau riêng mình
chia cùng tôi một chút tình
của ngàn năm trước và nghìn năm sau

về đâu chẳng biết về đâu
thôi thì về lại buổi đầu gặp em
dòng sông xưa ấy êm đềm
mùa thu năm ấy bên thềm lá bay
bàn tay nắm chặt bàn tay
dìu nhau qua những tháng ngày gian nan

bây giờ ngồi nhớ Việt Nam
bên trời tuyết lạnh hai hàng lệ rơi.

Mùa Phượng Hồng

có ai qua đó góp dùm tôi
những đám mây bay trắng một trời
những bông phượng đỏ màu nhung nhớ
gửi làm quà tặng buổi chia phôi

sẽ xa, thôi cũng đành xa nhé
người về cuối bãi kẻ đầu sông
có chút gì đau như cắt ruột
tay chào, tay vẫy, nón che ngang

sẽ xa, ừ thôi nhé đành xa
rồi mai trên những lối tôi về
tôi biết lòng tôi nghe rộn rã
nhịp guốc ai đùa trong nắng trưa

bỗng dưng tôi thấy mình tiêng tiếc
những tà áo trắng nắng nghiêng nghiêng
những bàn tay giở lần trang sách
e ấp tờ thư trước cổng trường

có ai qua đó hái dùm tôi
những đóa hoa thơm ngát một thời
ép vào tim để nghe thương nhớ
để nghe sầu giạt đến muôn nơi

sẽ xa, thôi cũng đành xa nhé
người về cuối bãi kẻ đầu sông
bóng hoa bay mấy chiều tan tác
hoa rụng ba năm trắng bến hồng

rồi mai khi gió mùa thu tới
khi nắng tàn phai trên lối xưa
có biết người xa xôi trở lại
hay là biền biệt đến muôn thu

trời bỗng mang mang, đất ngậm ngùi
những tà áo trắng năm xưa ơi
có ai qua đó cho tôi gửi
một trái tim đau của một thời

Chiều New Delhi

chiều New Delhi
có tiếng chim tu hú gọi mùa
có nắng reo trên lối tôi về
khói quê nhà quyện cuối phương xa

tôi nghe chiều Delhi
xôn xao mùa phượng tím
bên kia trời quê hương
nhớ em lúc Phục Sinh

tôi thương chiều Delhi
nên yêu màu phượng tím
yêu con người quanh tôi
và yêu cả đất trời

chiều New Delhi
tiếng sáo đâu đây rất êm đềm
bỗng thấy nao nao nhớ quê mình
dáng em gầy
và mái tranh xưa

chiều New Delhi
có niềm vui dù rất muộn màng
có bóng tôi
trên xác lá vàng
với trái tim
thơm ngát tình người.

Dù Sao Cũng Cám Ơn Đời
* Tặng anh Trần Hoài Thư

dù sao vẫn cám ơn đời
cỏ cây và gió mặt trời và hoa
cám ơn những đám mây xa
đang bay về phía quê nhà chiều nay
cám ơn những sớm heo may
lạnh se sắt lạnh bên này đại dương
cám ơn giọt nắng vô thường
lung linh ở cuối con đường khổ đau

mười năm nước chảy qua cầu
chuyện về đất nước là câu chuyện buồn
mười năm sống kiếp tha phương
thân nơi biển bắc mà hồn biển đông
mười năm thương ruộng nhớ đồng
lòng còn ở lại sao không quay về
mười năm nhớ đất thương quê
bước đi một bước nặng nề đôi chân
mười năm một thoáng phù vân
tiếng chim vườn cũ mùa trăng quê người

dù sao vẫn cám ơn đời
biển xanh và sóng núi đồi và em
cám ơn những sáng êm đềm
khói cà phê quyện bên hiên nhà mình
đứng bên bờ vực tử sinh
vẫn nghe em hát bản tình ca xưa

mười năm như một giấc mơ

Chia Tay Đà Lạt

và tôi lại chia tay Đà Lạt
trở lại quê người với những cơn bão tuyết mùa đông
tôi mang theo nỗi buồn xa xứ
và nỗi hoài hương nặng trĩu trong lòng
tôi lại thấy bóng tôi bên dòng Potomac
bên bờ Đại Tây Dương nghe quê hương réo gọi trái tim mình
đi không phải là đi biệt xứ
thương quê nhà còn lại phía sau lưng
lại cùng em lang thang bên hồ Thạch Thảo
nói với em về một đoạn đời buồn
nói với em về những dòng sông lưu lạc
trôi về đâu rồi cũng muốn trở về nguồn

và tôi lại chia tay Đà Lạt
chia tay những con đường in dấu chân xưa
chia tay rừng thông và cỏ cây sương khói
chia tay mây trời và gió núi Langbiang
mong bình yên đến với Kim Huê
và những người ở lại
mong một ngày về…
dù chưa biết khi nào…

Chia Tay Ngựa Ô

ở lại nhé, Ngựa Ô thương mến
tôi sẽ đi và sẽ nhớ nơi này
nơi bạn bè tôi một thời ấm áp
chia cùng nhau nỗi buồn lưu lạc
nơi anh Đinh Cường viết Đoạn ghi đêm Centreville
nơi em trở về sau lần ngã gục
tôi dìu em lên những bậc thềm đớn đau và hạnh phúc
gần ba trăm ngày em mới tìm lại được những bước chân
mới biết quê người không chỉ có hoa hồng
mà có cả những cơn lốc dữ
mới hiểu không có nỗi buồn nào hơn nỗi buồn viễn xứ
nhớ và thương mây khói quê nhà

ở lại nhé, Ngựa Ô thương mến
tôi sẽ đi và sẽ nhớ nơi này
nơi những ngày mưa em nhắc cùng tôi chuyện của ngày xưa
ngày xưa, ngày xưa, ngày em và tôi lang thang trong sương mù Đà Lạt
ngày xưa, ngày xưa, ngày em đạp xe chở con đi học
ngày xưa, ngày xưa, bữa ăn chín phần mười là bắp
đêm em nằm trằn trọc
vì không đủ sữa cho con
rồi cũng qua đi những tháng năm buồn
giờ nhớ lại
thôi thì cũng cứ cho là kỷ niệm

ở lại nhé, Ngựa Ô thương mến
tôi sẽ đi và sẽ nhớ nơi này
sẽ nhớ từng ngọn cỏ hàng cây
khu vườn phía sau nhà
và tiếng chim buổi sáng
những chiếc lá vô tình rơi trên mái tóc
tiếng cười của các con những chiều Chủ Nhật
chút khói cà phê quyện ở hiên nhà
và những giọt sương đêm
những giọt sương đêm em và tôi thấm đẫm
những giọt sương đêm dịu dàng như tiếng nhạc Cortazar

Phạm Cao Hoàng

Như Phong

Như Phong

Tiếng Sóng Vỡ

Vạt nắng mong manh
theo chân em về biển
bãi cát nằm nghe tiếng sóng rì rào
cánh hải âu sãi cánh lưng trời
mây chở về một đôi tim khờ khạo
tóc em thề trên suối nguồn hư ảo
dấu chân ngoan trên những ngã đường trần
tiếng sóng gọi
tình yêu ngàn năm
hồn đá xanh rêu ngủ vùi trên bờ cát lỡ
dấu thời gian hằn lên nỗi nhớ
thuở dấu yêu tuổi đá cũng xanh xao
ngồi đây nghe tiếng ru của biển
giấc mơ tình yêu vỡ òa khánh kiệt
như cánh hải âu đi hoang trong ngàn trùng ly biệt
giữa hồng hoang khản tiếng gọi tìm nhau
những ái ân xưa phút chốc hóa dã tràng xe cát
em về đâu khi tắt nắng hoàng hôn
ta về đâu để sưởi ấm linh hồn
vẫn còn đây muôn thuở tình yêu em
vẫn còn đây khúc nhạc tình rất mhớ
cánh chim về lặng lẽ buổi hoàng hôn
dấu chân về trên biển cát cô đơn
bờ vai phong trần chênh vênh
trái tim thương tích từng cơn
nghe từng cơn đau nhói lên ngọt lịm
giữa hoang vu đời thường
bước chân trần rướm máu cô đơn
đường trăm tuổi mai về nơi góc núi
giữa trăng suông ngồi tưởng niệm tình em

Bước Chân Lãng Du

Đường phố mưa đêm
giọt trăng rưng rức
ta khách lãng du say đời cô độc
bước chân nghiêng lạnh buốt linh hồn
từ độ em về vạt nắng hoàng hôn
dấu phong trần oằn vai cát bụi
về đây nghe tuổi đời dong rủi
cuộc rong chơi vay trả một kiếp người
lật những trang đời nghe như cổ tích
tình yêu, tình người … bổng như cơn mưa
nghe tiếng côn trùng khóc giữa đêm khuya
lời gió âm u thổi về từ vùng huyệt lạnh
chợt rùng mình nghe đắng bờ môi
trăm năm là giấc mộng hời
mộng chồng lên mộng nên đời trầm luân
từ em bước qua cửa luân hồi nhập thế
ta hóa thân làm kẻ tình si
đường nhân gian xuôi ngược
ta cõng tình em đi
trên đỉnh đời dốc đứng
hàn phong buốt chân trần
giữa muôn trùng cát bụi
linh hồn đã rêu xanh
về đây nằm nghe xôn xao niềm tục lụy
những khát khao hơi ấm thịt da người
sao bổng thèm say vùi một giấc
để mơ về nơi chốn yêu em…!

Đường phố mưa đêm
giọt trăng rưng rức
ta khách lãng du say đời cô độc
bước chân nghiêng lạnh buốt linh hồn
từ độ em về vạt nắng hoàng hôn
dấu phong trần oằn vai cát bụi
về đây nghe tuổi đời dong rủi
cuộc rong chơi vay trả một kiếp người
lật những trang đời nghe như cổ tích
tình yêu, tình người … bổng như cơn mưa
nghe tiếng côn trùng khóc giữa đêm khuya
lời gió âm u thổi về từ vùng huyệt lạnh
chợt rùng mình nghe đắng bờ môi
trăm năm là giấc mộng hời
mộng chồng lên mộng nên đời trầm luân
từ em bước qua cửa luân hồi nhập thế
ta hóa thân làm kẻ tình si
đường nhân gian xuôi ngược
ta cõng tình em đi
trên đỉnh đời dốc đứng
hàn phong buốt chân trần
giữa muôn trùng cát bụi
linh hồn đã rêu xanh
về đây nằm nghe xôn xao niềm tục lụy
những khát khao hơi ấm thịt da người
sao bổng thèm say vùi một giấc
để mơ về nơi chốn yêu em…!

Một Cuộc Rong Chơi

Cuộc rong chơi
trăm năm qua rất vội
những ngậm ngùi nhân thế chợt phù vân
mãi lãng du giữa chốn đường trần
được mất/hơn thua
nhục vinh/thành bại
cũng phù du sau ba vạn sáu ngàn ngày
quay quắt một đời vay trả, trả vay
cũng mãi quẩn quanh với sân si hỷ nộ
đêm qua đóa Quỳnh Lan nở rộ
sáng nay hoa không thấy mặt trời
đến thế gian làm một cuộc rong chơi
thuyền trôi dạt vào biển mê, sông ái
bến giác bên kia ai người lèo lái
tiếng thét gào vang vọng giữa nhân gian
nước mắt em rơi
tình còn kia sao chợt bẻ bàng
phút chốc phù du tan trong sương khói
bổng thấy nhọc nhằn trên bờ mi em ngoan
ánh mắt rủ buồn như rất xa xăm
cứ ngỡ đời trăm năm
giữa nhân gian làm khách
mai về nơi lòng đất
người khóc người ngàn năm
còn lại lời kinh suông
trên tháp buồn nhỏ lệ
và còn người si tình
ngồi tụng lời đam mê
đường trần gian một cõi đi về
đường tình yêu sao vẫn mãi si mê !…

Nợ Em Một Cuộc Ái Ân

Nợ em một cuộc ái ân
chăn nghiêng gối lệch
giọt trăng lạnh lùng
lời hẹn thề không trọn thuỷ chung
mộng xanh tan vỡ
muôn trùng chia xa
từ thuở em về xanh xao giấc mộng
ta oằn vai nặng nghánh phong trần
rướm máu chân đời cõng tình đi quanh
mấy cuộc phong vân say đời lãng tử
ta còn nợ em một cuộc ái ân
trên đỉnh đời dốc đứng
chợt thấy tình mong manh
cuộc hành trình về nơi trăm tuổi
sỏi đá chông chênh khấp khểnh đoạn trường
tình yêu em còn nặng một niềm thương
rụng bao mùa trăng lạnh
ta mấy mùa say gục giữa đường
đông lạnh lùng gió bấc
hạ trắng mấy mùa thương
em người tình mắt lệ sầu vương
tóc nghiêng thề bên bờ trăng lạnh
môi tím đợi chờ giữa đêm hoang
ta miệt mài lãng tử
còn nợ em mấy khúc đoạn trường
hãy hát đi em
lời ca đau thương của người cô phụ
hãy khóc đi em
cho thương nhớ ngục tù vỡ nát tim ta
ngày sẽ đến và tình sẽ nở hoa
ta sẽ đền em vòng tay siết chặc
ta sẽ hôn em nụ hôn dài nhất
giữa thiên đàng màu nắng rực môi em
mai ta về trả nợ ái ân !…

Nhân Tình Khúc

Vẫn là em làm hồn ta nghiêng chao
vẫn là em làm tim ta xanh xao
từng bước chân giữa đêm khuya vụn vỡ
cõi đi về rượt bắt những hư hao

xin hãy là một tình nhân liêu trai
đường phố gầy ta đi trong điên say
mặc cho đời có đi về chốn nào
vẫn lả em hớp hồn ta đam mê

mai có về em ngang qua đời ta
dù nhọc nhằn và đắng cay xót xa
vẫn là em, vẫn là em muôn thuở
là nhân tình ta say đắm ngu ngơ

xin hãy về cho tình yêu nở hoa
dù muộn màng vẫn đam mê tương tư
cám ơn đời còn tình yêu loài người
cho thế gian còn điệu buồn ru em

nắng có tắt và hoàng hôn rụng xuống
đêm có sâu và vầng trăng có nghiêng
dù mong manh như những hạt sương
vẫn là em về từ ngàn năm trước

từ luân hồi em hoá thân nhập thế
ta tìm về từ cổ tích duyên xưa
đường nhân gian tình hồng vừa kết nụ
đóa tình hoa bật sống dậy vươn mầm

em vẫn mãi là tình nhân ta đợi
từ ngàn năm về nội trú trong ta
nếu mai kia trăng có đến tuỗi già
em vẫn mãi là nhân tình ta nhé….!

Những Nỗi Buồn Đi Qua

Có một nỗi buồn
miên man miên man
có một cuộc tình như mây đi hoang
có người si tình
nghe đau con tim
ngồi say gục đầu giữa đêm hoang vu
một hồi kinh cầu vang lên u buồn
và em mơ hồ đi ngang qua đời
để lại muộn phiền dài đêm tương tư

có một nỗi buồn
êm như dòng sông
chảy vào lòng người mênh mông mênh mông
và cuộc tình buồn mong manh như sương
lạnh buốt linh hồn từng đêm mơ hoang
em lung linh về mắt môi huyền hoặc
gót chân lụa là ngang qua địa đàng
ta dang tay chờ vòng tay muộn màng

có một nỗi buồn
như mưa giêng hai
ray rức lòng người ngàn năm chưa phai
một cuộc tình nào về trên nhân gian
sưởi ấm tình người bao năm đợi chờ
em mang nụ hồng về tươi trên môi
thịt da ươm mầm trái cấm thơm tho
cho ta si tình trăm năm đọa đày

có một nỗi buồn
trôi êm trôi êm
như làn mây chiều tím loang hoàng hôn
ta nghe thật thà đau cơn tương tư
và em muôn đời dấu yêu tình nhân
cho ta say tình ngất ngây hồn thơ
từ trăm năm về em như hoàng hôn
ta ngồi gục đầu say hương tương tư

Lộn Ngược

Lộn Ngược ngẩng đầu
nguyệt khuyết treo ngang
nâng ly đối ẩm
ngỡ ngàng nhìn nhau
em từ thượng giới
trắng phau
ta
từ tục địa
nhuốm màu tục nhân
càn khôn còn mãi xoay vần
nên khi lộn ngược
trắng
đen
vẫn là
co mình nằm giữa Ta Bà
phân hai ranh giới
cũng là
âm
dương
gát chân
nói chuyện yêu đương
thì cho hợp lẽ vô thường đó thôi
nên ta
dốc hết một đời
yêu em cho kịp
kẻo trời nổi cơn
nắng mưa
chuyện của càn khôn
yêu em
trút bỏ thần hồn của ta

Trên Đỉnh Cô Đơn

Em đi giữa xanh xao đời
hát lên lời tình buồn muôn thuở
ta ngồi giữa chợ đời
bụi phong trần phủ lấp bóng xanh xao
em mang theo một nỗi buồn hư hao
trũng sâu lòng mắt
đường nhân gian đêm hoang vu lạnh ngắt
ta mang nặng tình em
tiếng cú kêu vỡ nát màn đêm
lời con tim si tình bật khóc
có tiếng gió mang về lời thương khúc
có nỗi buồn người sương phụ cô đơn
có phiến lá bay ngang qua trần gian rất vội
không kịp nói lời giã biệt trần gian
như tình yêu ly tan
và như dáng em vụt qua đời nhân ảnh
đêm hoang vu
cho loài côn trùng rủ nhau về khóc thương phận mình
ta nghe mắt cay cho một cuộc tình
từng bước độc hành đi trong tuyệt vọng
ta nghe trái tim nhói đau cho thân phận mình
trái tim vỡ nát
trái tim đơn côi
trái tim đợi chờ
tình nhân ơi….!
ngày tìm nhau thật rất xa xôi
em có còn hát lời tình buồn nhân thế
em có nghe khúc tình ca dang dở
có nghe ngày tháng buồn trên đỉnh cô đơn

Đêm Rượt Bắt Hư Không

Đêm thức trắng
ngỏ đời sao hoang vắng
đường trần gian sỏi đá cũng rong rêu
ta lãng tử bước chân đời đã mỏi
đêm mù khơi ngồi hoá đá ven đường
em chợt về giữa cơn mơ huyền hoặc
ta vươn tay chộp bắt bóng hư không

đêm trắng xóa một màu tang trắng xóa
người với người phút chốc hóa hư vô
gió giao mùa ru buồn hồn phiến lá
xanh xao gầy trên đỉnh gió cô đơn
còn nỗi nhớ nào thoi thóp từng cơn
đêm hoang vu nghe hồn quyên réo gọi

bước chân hoang lạc loài riêng nỗi nhớ
lạnh nhân gian mù mịt cõi đi về
cuộc tình sầu tương tư dài lê thê
ta trú thân giữa trần đời oan nghiệt
thờ phượng em một tình yêu bất diệt
trái tim ta vừa quấn mảnh tang buồn

đêm sâu thẳm ngồi nhớ em rất nhớ
gọi hồn nhau rờn rợn tiếng vô hồn
bước chân nghiêng nghe trái tim thổ huyết
tình yêu nào bất chợt hóa cơn điên
đi về đâu giữa đêm tàn oan nghiệt
hơi thở xanh xao giữa cõi u miên

Dấu Ấn Tình Yêu

Có cánh gió chở hồn ta qua đó
có phiến lá mang tình thư em đến
có hạt sương long lanh như giọt lệ
khóc tình mình ướt đẩm vũng trời sầu

tiếng mưa đêm ru canh tàn lạnh buốt
tiếng gối chăn trằn trọc thức thâu đêm
em bổng về từ trăm năm hoang dại
đóng khố đi quanh khắp chốn địa đàng

lời tình ca vang lên trên đỉnh đời dốc đứng
làn môi em hoang vu trên ngàn năm băng giá
giữa trần gian sao thiếu vết chân người
em nghe không có tiếng rên của đá

lời đá ăn năn
lời đá trối trăn
lời đá rong rêu ru tình tuyệt vọng
lời ru ngàn đời khóc tình yêu ly tan
ta độc hành mang trái tim hành khất
những giọt máu vỡ tung trên suối nguồn em
món quà đức chúa trời ban cho nhân thế

đêm ma quái bắt hồn ta khờ dại
em bắt hồn ta mãi mãi khó quay về
thịt da em huyền hoặc những đam mê
cho trái tim ta suốt đời mang dấu ấn

vẽ chân dung em giữa đêm dài vô tận
rờn rợn bàn tay rượt bắt một linh hồn
tình yêu là trò chơi cho trái tim rướm máu
ta như người chết hóa oan hồn đi giữa nhân gian

Mắt Em Đọng Một Cõi Buồn

Cõi buồn về đọng mắt em
như xa vời vợi nghe man man buồn
nghe như lỡ nhip cung đàn
như trang cổ tích tiền nàng Huyền Trân

cõi buồn như áng phù vân
trôi về lảng đãng mộ phần cỏ hoang
trăm năm ru một điệu buồn
ừ thôi em! dẩu muộn màng xanh xao

buồn về gọi những hư hao
chợt thương em giữa nhân gian lạc hồn
thôi em trầm khúc lỡ làng
về trang điểm lại dung nhan thuở nào

tình xưa dạo khúc thương vay
nắng lên sưởi ấm tim này nở hoa
tình kia lạnh buốt mấy mùa
tương giang mấy độ nắng mưa lỡ làng

em về điểm lại dung nhan
cho đời tươi nắng xuân vàng cánh hoa
cho tim nở nụ tình xưa
em về khoác áo lụa xưa ngọc ngà

thôi em !… tình dẩu chia xa
gởi tương tư ấy theo làn gió bay
cõi buồn …buồn những thương vay
cõi tình cũng đã…nhạt phai lâu rồi…!

Đợi Em Lạnh Buốt Đỉnh Sầu

Em như vạt nắng hoàng hôn
sưởi ta ấm lại mảnh hồn thương đau
ta như cánh lá phai màu
tàn thu sương lạnh nhớ nhau mấy mùa

nằm nghe sóng vỗ trong lòng,
lời buồn khúc hát từ trăm năm
ta như người chết còn hơi thở
em giận hờn chi lời trối trăn

như tiếng quyên buồn kêu khắc khỏi
ta gã si tình nên khóc nhau
em về phía ấy ta đỏ mắt
hồn tan tim nát quay quắt đau

gió bấc từng cơn giật ngoài song
đông về buốt giá ngọn đông phong
ta ngồi chuốc ta say gù gật
ừ em! nỗi buồn sao mênh mông

khản cổ gọi em từ đáy vực
đợi em lạnh buốt trên đỉnh sầu
mai ta có chết em đừng khóc
hảy chúc lành cho kiếp mai sau

em về tụng nốt lần kinh cuối
phổ độ hồn ta khỏi ngục hình
bởi yêu nên em ta có tội
mai có luân hồi ta tìm em

Bềnh Bồng

Chiều đông mưa bụi
nghe bâng khuâng buồn
ngồi trông cố quận
nghe lòng lệ tuôn
ta từ đâu đến
mai về nơi đâu
tình em là sắc
ta đi tìm không
đêm rơi vào vọng
ta ngộ sắc không

em xõa tóc thề đi tìm bến giác
chiều về mắt ướt đọng dư âm
nhân gian xuôi ngược đời hư ảo
ta đã tụng nhầm mấy trang kinh
chiếc lá cuối cùng mùa thu trước
đêm qua rụng chết trước sân thềm
làm sao em biết đâu bờ giác
rượu sân si vẫn ngọt môi mềm

em về từ thăm thẳm
ta chân đời ngả nghiêng
bồng bềnh trong bể khổ
em mất trí ta điên
bụi trần gian phủ tóc
ta bất lực tìm nhau
đời mình như cánh gió
len lách đi tìm nhau

bỗng nghe ra đời như trăn trối
chợt sắc chợt không chợt xót xa

Khung Trời Cũ

Chiều qua phố
em cài lên vạt nắng
gió chiều lên
lồng lộng tóc em bay
hoàng hôn rơi
tím loang trời chân mây
và áo em
tím khung trời hò hẹn

em về đó
chiều buồn
con phố nhỏ
dấu tích buồn
khe khẻ một niềm dau
bàn tay xưa
mười ngón mộng xanh màu
như màu mắt em
một thời mộng mị

em xuống phố
nắng lụa
vàng muôn thuở
mắt xanh xao
thiên thanh màu ngây thơ
ta say trong mắt em
nụ tình hoa chớm nở
xanh thăm thẳm màu trời
vùng tiếc nhớ
ngày tháng cũ
qua mau….!

Hồn Đá Ngậm Ngùi

Ngậm ngùi hồn đá rêu phong
hồn trăng đã ngủ giấc trăm năm buồn
tương giang sóng vỗ gọi nguồn
gọi cơn gió lạnh nhớ thương đôi bờ

tình ai mộng giấc hửng hờ
đàn ai réo rắc cung tơ lạnh đời
hồn ta thả nhịp chơi vơi
rơi trên sỏi đá gọi lời tri âm

tim ta nhỏ giọt thì thầm
giọt tương tư cũng trầm ngâm vỡ òa
tiếng lòng réo rắc hương xưa
đường trăng năm cũ cũng vừa vỡ đôi

giã từ những bước chân đời
ta về đóng cửa cuộc chơi trả người
trả ta nhịp thở trối trăn
trả em nước mắt ăn năn mấy mùa

ngậm ngùi hồn đá đêm mưa
nằm nghe trăng khóc thuở chưa ngọc ngà
hồn tan trên những xót xa
em ơi! là những ngọc ngà thương vay

dẩu còn một chút tình say
mắt môi cũng đã phôi phai bạc màu
tình ơí! còn những hao gầy
ngậm ngùi hồn đá giữa đời buồn tênh

Hóa Duyên Em

Từ thuở em về xanh giấc mộng
ta ngồi phủi bụi những trang kinh
bụi bay phủ lấp lời bát nhã
nhìn xuống nhân gian bạc trắng tình

em chưa khoát áo lam về núi
làm sao ta mặc áo sa di
nên bước xuống đời đi khất thực
khi tăng, khi tục, lúc sầu bi

ta hóa duyên em chút tình thôi
mai đem về núi lánh xa đời
cũng có chút tình nơi nhân thế
để thương để nhớ để chơi vơi

từng bước chân rơi trên sỏi đá
bình bát trống không hồn đi hoang
gió tục mưa trần ta hành khất
em nơi nào sao không hóa duyên

em lửng lơ giữa cõi nhân gian
lời kinh chưa thuộc sao vội vàng
em lánh xa đời xa trần thế
hay sợ lạc loài giữa nhân gian

Đi Tìm Cái Lẽ Huyền Không

Có khi nào ngồi một mình
em nghe tiếng gió về thì thầm
lời yêu đương từ kiếp trước
có bao giờ em đi
giữa chợ đời xuôi ngược
em nghe gót chân mình
rã rời trên sỏi đá không em

có bao giờ em thức trắng đêm
nghe xót xa một kiếp người lầm lỡ
và em có mơ
thấy kiếp tiền thân
đâu đó ở trên trời
em vui say nên làm rơi chén ngọc
và em bật khóc
và ta cũng khóc
khi mình đoạ đày xuống trần gian
em mất đi hạnh đạo mấy ngàn năm
ta theo em lội khắp nhân gian khốn khổ

đã nhiều đêm
ta tụng kinh phổ độ
mong một ngày em giác ngộ sân si
chốn vô thường mỗi một sát na đi
ta nghe gần gủi hào quang Phật
mai mốt về ngồi nơi tịnh thất
tìm về cái lẽ Huyền Không
phía ấy vươn lên chiếc cầu vổng
ta đi nhé lên chiếc cầu ngũ sắc…
đường về quê xưa còn xa lắc
đi thôi em mình còn xa cách một vầng trăng

Như Là Giọt Sương

Em như giọt sương mai
Tan trong nắng sớm
hình hài
bốc hơi
ta đi
trong cõi mù khơi
câu ca thổ mộ
ru đời hát rong
trần gian
là cõi nhọc nhằn
nằm nghe trăng rụng
hồn tan vào hồn
từ em xõa tóc nghê thường
từ ta run rẩy trên nguồn mắt em
lụa là
trải nắng chi em
cho ta điên dại
giữa đêm
lạnh lùng
mai sau
nếu có tương phùng
thì xin em
hãy
ngại ngùng
mắt môi…

Vin Vai Đi Giữa Cuộc Đời

“Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say”*
(phạm thiên thư)

Người xưa cỡi áo từ quan
nay ta cỡi gió đi trong phong trần
em ơi! Dù có nhọc nhằn
lội sông vượt suối cũng đành nghe em

vì rằng vận nước đỏ đen
nên ta lên dốc xuống nghềnh hụt hơi
vin vai đi giữa cuộc đời
gai tươm áo lụa, mưa trơn gót hài

em ơi! cuối đoạn trần ai
về đây thở dốc dù rằng xanh xao
lần mò đi lên núi cao
tìm nơi tịnh cốc bỏ xôn xao đời

vén mây cho nắng xanh trời
ngồi trong hang đá gõ vài hồi kinh
may ra tìm lại được mình
lỡ quên đánh mất thuở tình long đong

tóc râu thoi thóp từng cơn
ngồi nhìn lá rụng mà ăn năn buồn
tụng câu sám hối,vô thường
trăm năm xuôi ngược như phường hát rong

về đây đếm lại nhọc nhằn
được thua như hạt bụi lăn qua đời
ta về rời bỏ cuộc chơi
trả sân si lại cho đời tranh đua

Khúc Trường Sinh Cho Mẹ

Con đi mãi Mẹ cứ ngồi đợi mãi
Ba mươi năm tóc mẹ đã phai rồi
Thương nhớ mẹ trái tim con hóa đá
Đông về rồi Mẹ nhé vẫn đơn côi

tối đêm qua con gọi về thăm mẹ
đầu giây kia Mẹ như có tiếng cười
sao con nghe nghẹn ngào trong tiếng nấc
Giáng sinh về con kính Mẹ mùa vui

Con đi mãi và Mẹ ngồi đợi mãi
dấu chân con còn lạc lỏng cuối trời
xin kính Mẹ những tháng ngày tuổi Hạc
một cánh hoa tươi đẹp nhất trên đời

đường xa lắm và đời con bão nỗi
nhưng Mẹ ơi con đã lạc lối về
và Chúa ơi xin người nhìn xuống thế
ban hồng ân cho Mẹ tháng ngày vui

mai con về cho Mẹ nở nụ cười
con sẽ nấu ấm trà thơm Tiên Hạc
giả cối trầu cay, nấu nồi canh ngót
mời Mẹ dùng trong chất ngất yêu thương

con đưa Mẹ đi dạo khắp phố phường
Mẹ khoe hàng xóm thằng hai về đó
Ba mươi năm trời lang thang mây gió
Nay nó về hạnh phúc lắm đời tui

Hóa Thân
Ngồi Giữa Hao Gầy

Mai lên núi ngồi nhìn vách núi
tìm lại ta cái thuở tiền thân
bản lai diện mục như có khác
lụy tình em nên lạc xuống trần

nên ta bị đày đi hành khất
gội nắng mưa tắm bụi phong trần
hằng đêm ta về ngồi lần hạt
đi kinh hành tìm lại tiền thân

nhìn vách đá tụng kinh bát nhã
bụi trần gian thấm đỏ trang kinh
sao nghe hồn lạc cõi u minh
bởi hồn phách còn vương tục lụy

ta lên núi nghe đời lạc chợ
trăng rụng trên tay mảnh vô thường
đá rong rêu nằm nghe muôn thuở
suối vô ưu rửa sạch muộn phiền

ta lên núi theo mây về núi
nắng cũng vui về ẩn quanh đây
gió về góp vần thơ thoát tục
ta hóa thân ngồi giữa hao gầy

Độc Hành

Ta đi
giữa mùa gió bấc
bước nhọc nhằn
giữa phố
lạnh căm
từ thuở em lỗi hẹn
ta quay về tụng niệm sắc không
bụi thời gian
vàng thâm những trang kinh
sao khói nhang vẽ hình em lên vách
trông như bóng Phật
cũng giống bóng ma
đêm độc hành giữa chốn ta bà
ta đi vào miên viễn
gió hú
mưa gào
bất chợt thôi miên
bước kinh hành
nhân thế gọi ta điên
ta mỉm cười
cúi đầu
tụng niệm
có qua cầu
gặp lại ấy là duyên
buồn vui
như khói
sao vẫn man man một cõi ưu phiền
tiếng khánh ngân
lời phổ độ
trông thấy em về khoác áo sa di
đông phong như lưỡi hái
chưa chém chết sân si
tóc em còn thề muộn
sao dứt được ưu phiền

Gởi Em Còn Mái Tóc Thề

tóc em thề vạt nắng thưa
sợi vương nắng sớm sợi vương mưa chiều
sợi chìm trong giấc cô liêu
sợi rơi đáy cốc những chiều thoáng say

ta ngồi tụng khúc kinh này
sao nghe bóng Phật mang hình dáng em
đêm vào trong giấc vô minh
ta đi hóa đá trên ghềnh sân si

đi ngang qua cõi A- tỳ
tóc em vẫn chảy sân si vào hồn
nửa đêm trời đất giao hoan
ta nghe máu chảy trên nguồn tóc em

ta đi vào cõi thôi miên
tóc em thề giữa bình yên ta bà
một tay gõ nhịp Di Dà
tay kia lại vướng ra ngoài hư không

hương tóc em chín nụ hồng
cho ta về lại bến sông năm nào
trang kinh tụng đã nhạt màu
mà sao hương tóc vẫn nao nao lòng

ngỡ rằng tình đã thong dong
tóc em thề cõng tháng năm nhọc nhằn
tóc xưa rụng xuống ăn năn
hư không trắng xóa về trong Tâm thiền

Như Phong

Nguyễn Đình Toàn

Nguyễn Đình Toàn 12

Khi Em Về

Khi em về trời xanh và gió mát
Con đường mòn thơm lá mục quê hương
Vườn cải ngồng đỗ ong bướm về sân
Anh nằm đấy buổi trưa và tiếng nắng

Mặt đất mềm bước chân em chợt nặng
Lá tre vàng dồn thổi mùa thu đi
Luống huệ ấy xòe những vồng hoa trắng
Và đầy thềm lá rụng liếp phên che

Quê mẹ đấy ưu phiền nhiều quá lắm
Hàng cau già mo thương bẹ quắt queo
Anh nằm đếm những ngày rồi những tháng
Đi qua dần khi nước mắt buông theo

Kỷ niệm cũ vẫn còn nguyên vẹn đó
Trời tháng giêng, tháng bảy buồn như nhau
Gió vẫn thơm mùi hoa bưởi, hoa ngâu
Rồi tết đến, rồi lòng anh nhớ quá

Khi em về bước xưa chừng xa lạ
Và cỏ hoa tất cả đã vắng im
Giấc ngủ ấy một đời anh ao ước
Từ máu mình hoài rứt khỏi đường tim

Em đừng khóc, đừng buồn, đừng nhìn nữa
Cứ cúi đầu, cứ thế, rồi ra đi
Trời sẽ tối, tiếc thương rồi sẽ hết
Và dấu giầy mai sẽ lá sương che

Nguyễn Đình Toàn
Viết Về Hoàng Hải Thủy

Hoàng Hải Thủy là một trong những nhà văn đã nổi tiếng ở Sài Gòn trước năm 1975. Ông nổi tiếng trước nhất như một người viết phóng sự, sau đó, như một dịch giả và một người viết tạp văn.
Từ tạp văn ở đây hiểu theo nghĩa, gặp gì viết nấy, trộn lộn cả phóng sự, văn chương, trích dẫn thi ca, âm nhạc, những ngôn ngữ do ông sáng tạo, bịa đặt ra.

Cái cách viết của ông có thể có nhiều người không thích. Nhưng khi người ta nói không thích cách đùa cợt trớt nhả của ông, có nghĩa là người ta đã đọc ông rồi.
Có phải như vậy chăng?
Phải công nhận rằng, tất cả những gì Hoàng Hải Thủy viết , đều có một sức hấp dẫn, dù nó được ký tên Hoàng Hải Thủy hay Công Tử Hà Đông. Đang viết bình thường, ông thêm vào một chữ “vưỡn“, “em vưỡn yêu anh, mí nị em thơm như múi mít.” Trong ngôn ngữ miền Bắc của chúng ta, hai từ “mí nị“, cũng có người nói là “mí lỵ” là hai tiếng “mới lại” được phát âm trẹo đi. Hoặc, những tiếng “ê, a” không có nghĩa gì, nhấn mạnh vào những chữ ấy chỉ để chê bai, chọc quê. Nghe một người con gái nói: “Em vưỡn yêu anh” thì có lẽ không anh nào dám tin đó là sự thật. Cái phần sự thật có thể có đó, so với cái phần sự thật có thể không trong câu nói nghiêm chỉnh hơn “Em vẫn yêu anh” có gì khác.
Các bông đùa của Hoàng Hải Thủy luôn ở trên lằn ranh vui buồn, thật giả đó.
Đọc “Sống và Chết ở Sài Gòn” người ta được biết những chuyện liên quan tới một số văn nghệ sĩ, trí thức, như Vũ Hoàng Chương, Thượng toạ Trí Siêu ( Lê Mạnh Thát ), Thanh Nam, Vũ Bằng, Duyên Anh, Thái Thủy, Mai Thảo, Trịnh Viết Thành, Hoàng Anh Tuấn, Uyên Thao.. .., về Trại Giam Phan Đăng Lưu, nơi Hoàng Hải Thủy đã trải nhiều năm tù.
Chương Hoàng Hải Thủy kể lại những năm tù ở Trại Phan Đăng Lưu với nhiều tù nhân khẳng khái được Nhà văn Đặng Trần Huân coi là một chương tuyệt tác.
Người ta nhớ lại những năm sau 1975, hầu hết các văn nghệ sĩ ở Sài Gòn cũ, đều bị bắt giam.
Hoàng Anh Tuấn sau khi được thả, đã được thân nhân bảo lãnh ra khỏi nước. Hoàng Hải Thủy có mấy câu thơ gửi Hoàng Anh Tuấn được các bằng hữu của ông thỉnh thoảng nhắc lại:
Hai chuyến xe hoa về đất mẹ,
Bây giờ xa-lộ sáng đèn chưa ?
Ở đây thì chán, đi thì nhớ,
Sài Gòn mưa mà Mỹ cũng mưa.
Hẳn nhiều người đều biết Hoàng Anh Tuấn ngoài việc làm thơ còn là một đạo diễn điện ảnh. “Hai Chuyến Xe Hoa” “Đất Mẹ” và “Xa Lộ Không Đèn.” Hoàng Hải Thủy nhắc trong bài thơ tên những cuốn phim Hoàng Anh Tuấn đã thực hiện.
Sống và Chết ở Sài Gòn được viết theo kiểu tùy hứng, nhớ đến đâu viết đến đấy.

Chương ông viết về việc ông bỏ lỡ chuyến di tản năm 1975 là một chuyện cười ra nước mắt.
Khi đó, Hoàng Hải Thủy đang làm việc cho USIS tức Sở Thông Tin Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Trước ngày 30/4 ông Giám đốc USIS cho biết sẽ cho nhân viên đi nhưng con trai các nhân viên phải dưới 17 tuổi mới được đi theo bố mẹ. Nhân viên phàn nàn, ông nói ông phải làm theo lệnh của chính phủ Việt Nam, không thể làm trái luật pháp, cũng không thể nhận diện em nào trên hay dưới 17 tuổi. Ngay lúc đó Hoàng Hải Thủy thật thà không hiểu câu nói của ô. Giám đốc Alan Carter, ý ông muốn bảo “các anh cứ khai các con anh 16 tuổi chứ tôi có cần các anh chứng minh đâu“. Y hệt như câu thơ của T.T.K.H, “đến khi tôi hiểu thì tôi đã” muộn mất mấy chục năm rồi.
Trong cuốn sách Hoàng Hải Thủy có nhắc đến cái chết của các nhà văn Vũ Bằng, Nguyễn Mạnh Côn, nhà báo Minh Vồ, nhiều chi tiết về những năm đen tối, khốn khổ sau 1975 mà người dân miền Nam đã phải trải qua.
Được biết cuối năm 2002 nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội/Hà Nội đã cho xuất bản cuốn “Hai Mươi Nhăm Năm Một Vùng Tiểu Tuyết” ý muốn nói tiểu thuyết ở miền Nam, nội dung đề cập tới tiểu thuyết miền Nam từ 1887 tới Hồ Biểu Chánh rồi nhẩy vọt qua tiểu thuyết từ 1975 đến 2000 đề cao những tác giả cộng sản nhất là các tác giả từ miền Bắc vào. Tất cả văn học miền Nam ( từ 1954-1975 ) không có một dòng.
Nhà văn Đặng Trần Huân viết: “Với chủ trương rõ ràng của nhà cầm quyền cộng sản tại Việt Nam hiện nay như thế, thử hỏi nếu không có những bộ sách như Văn Học Miền Nam của Võ Phiến hay những tạp bút như Sống và Chết ở Sài Gòn thì sau này lấy đâu ra tài liệu về văn học và đời sống của văn nghệ sĩ Việt Nam Cộng Hoà ? Ta phải cám ơn Võ Phiến, cám ơn Hoàng Hải Thủy đã giúp ta tài liệu để còn nhớ không quên những văn nghệ sĩ một thời sáng chói, dù nhớ cách nào đi chăng nữa.”
Các văn nghệ sĩ của chúng ta sống ở miền Nam trước 1975, cho đến nay, đã mất đi nhiều lắm. Người chết trong tù, chết trong nước, người chết già, chết bệnh, người chết nơi xứ lạ, quê người, số còn lại e rằng ít hơn số đã mất.
Và, trong số những người còn lại, Hoàng Hải Thủy là người duy nhất cho đến nay vẫn viết và viết được một cách đều đặn. Cách viết của ông gần như không có gì thay đổi, pha trộn văn chương với phóng sự, nửa đùa, nửa thật. Nhưng với cái nhìn sâu sắc của người đã ở ngoài cái tuổi “cổ lai hy”, đọc ông, người ta có cảm tưởng mọi sự trên đời đều hình như lúc nào cũng có ha mặt, một mặt bi thương và một hài hước.
Nói đến mọi sự trên đời, bởi vì, Hoàng Hải Thủy đề cập tới rất nhiều chuyện trong các bài viết của ông, bằng hữu, nghề nghiệp, kỷ niệm, tình yêu, chính trị, thời sự, tù đầy, cảm khái trước cái đẹp của thiên nhiên, thời tiết, kiếp sống tha hương.
Loạt bài mới nhất của ông cho đăng trên các báo chí gần đây, những phê phán chua chát của ông đối với chế độ cộng sản, sách báo của các tác giả ở trong nước và những người ông cho là đến bây giờ vẫn còn bị cộng sản mà mắt, được rất nhiều người đọc. Dù có cùng quan niệm với ông hay không, người ta vẫn thấy ở ông một tấm lòng thiết tha với đất nước, yêu cái đẹp, yêu sự thật.
Tập Đất Hồ Ngàn Năm của Hoàng Hải Thủy cho xuất bản mới đây gồm tám đoản văn: Huyền thoại Vương Chiêu Quân, Giang Tả Cầu Hôn, Rồng Nằm, ngựa chạy, Sự Tất Như Thử, Trăm Năm Binh Lửa, Thơ và Sự Khốn Cùng, Mơ Ngày Về Vẽ Lông Mày, Thiên Long Tình Sử.

Hoàng Hải Thủy cho biết ông bắt chước ông Lê Quý Đôn ghi lại những chuyện hay hay đọc được cùng với những suy luận, những nhận xét của mình.
Qua cuốn sách người ta được biết thêm một Hoàng Hải Thủy rất yêu thơ, đọc rất nhiều thơ Đường, dịch nhiều thơ Đường và còn có thể làm thơ bằng chữ Hán nữa.
Đoản văn về “Thơ và Sự Cùng Khổ” của Hoàng Hải Thủy gây nhiều xúc động trong lòng độc giả. Hoàng Hải Thủy viết đoản văn này sau khi đọc một bài thơ của Nguyễn Du trong “Bắc Hành Thi Tập”, chắc Nguyễn Du đã sáng tác trong chuyến đi sứ sang Bắc Kinh và qua nơi có ngôi mộ Đỗ Phủ.
Thi hào Đỗ Phủ trong một chuyến đi xa đã nhuốm bệnh và chết trên một con thuyền trên sông Tương. Vì nhà nghèo, vợ con không đưa được ngay di hài ông về quê nhà, phải tạm chôn ở Nhạc Châu. Bốn mươi năm sau, người cháu của Đỗ Phủ là Đỗ Tư Nghiệp mới rời được hài cốt Đỗ Phủ về Yểm Sư, mai táng trên núi Thú Dương, thuộc Hà Nam.
Tuy vậy ở Lỗi Dương vẫn có ngôi mộ giả của Đỗ Phủ do viên Huyên lệnh Lỗi Dương họ Nhất xây để tưởng niệm nhà thơ lớn.
Người Hoa ngày xưa thường xây những ngôi mộ giả các nhân vật họ kính trọng.
Đỗ Phủ thơ hay tuyệt thế nhưng suốt đời nghèo khổ, nghèo đến độ không nuôi nổi vợ con và thân mình, để đến nỗi một người con nhỏ của ông phải chết vì thiếu ăn.
Nguyễn Du đặt câu hỏi, ông (Đỗ Phủ) cùng khổ đến thế phải chăng vì thơ ? Phải chăng ta có thể quy tội làm ông khổ là thơ ?
Chính Đỗ Phủ khi nhớ tới Lý Bạch, nhớ tới Khuất Nguyên tự trầm mình ở sông Mịch La đã than thở: “Làm thơ hay như Khuất Nguyên, như Lý Bạch mà cuộc đời khổ sở đó là vì văn chương ghen ghét những người mệnh đạt. Văn chương không cho những người làm thơ được thành công trong đời.”
Bàn về thơ và sự cùng khổ Âu Dương Tu, một danh sĩ khác của Trung Quốc viết: “Không phải thơ làm người ta cùng khổ. Chính vì người làm thơ có cùng khổ thơ của người đó mới hay.”
Đỗ Phủ nói: “Văn chương ghét mệnh.”
Nguyễn Du cho rằng: “Làm gì có chuyện văn hương ghét mệnh. Làm gì có chuyện trời ghen với người.”
Nhưng trong truyện Kiều Nguyễn Du lại viết :
Lạ gì bỉ sắc, tư phong.
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Hoàng Hải Thủy viết: “Đây không phải một điều mâu thuẫn trong quan niệm về nhân sinh của thi sĩ. Không phải Nguyễn Du bất nhất trong quan niệm của ông về đời người. Ý thức của chúng ta rất phức tạp, đa dạng. Nguyễn Du tất nhiên là phức tạp hơn người thường.”
Hoàng Hải Thủy lấy trường hợp của ông để nói thêm về câu hỏi được nêu ra: Thơ có làm cho người làm thơ phải khổ sở không ?
“Viết tiểu thuyết từ năm 25 tuổi, có thể nói tôi suốt một đời yêu thương, gắn bó, sống chết với việc viết truyên. Với tôi, viết là hạnh phúc. Tôi đã sống để viết, viết để sống và trước năm 1975, tôi đã sống được với việc viết truyện của tôi. Trước 1975, ở Sài Gòn, Thủ đo Quốc Gia Việt Nam Cộng hòa của tôi, trong hai mươi năm, tôi đã sống để viết và đã viết để sống. Sau 1975, tuy biết viết là tù tội, tôi vẫn viết. Dù vậy tôi vẫn không thể trả lời thỏa đáng câu hỏi: “Thơ có làm cho người làm Thơ cùng khổ hay không ?”
Tôi thấy Nguyễn Du đúng khi thi sĩ nói: “Chữ tài liền với chữ tai một vần.”, “ngu si hưởng thái bình.”
Người có tài thường gặp tai họa. Chuyện đó tôi thấy thường xẩy ra trong đời và trong thời loạn.
Tôi chịu câu nói của Âu Dương Tu: “Thơ không làm cho người làm thơ cùng khổ. Chính vì có cùng khổ thơ mới hay.”

Ngày Tháng

Tôi bước xuống lối đi, và mặc cho mưa hắt vào mặt rát và lạnh. Ông khách nhìn theo tôi trong mái hiên tối. Trời mưa tầm tã. Dưới những tàn cây cao và quãng trống hai bên đường gió thổi bạt hơi và mây đen dầy đặc. Sự rét mướt hắt hủi quấn lấy tôi. Đường vắng ngắt, chỉ còn những ngọn đèn đường tỏa ánh sáng xuống các vũng nước trên mặt nhựa, gió thổi làm lướt đi từng loạt. Tôi bỏ mũ cho mưa dội trên đầu và khi về đến nhà thì ướt hết cả người. Bà bạn chưa về.

Tôi thắp đèn, tắm rửa thay quần áo, nhớ đến tiếng nước dội của bà bạn hôm qua tôi không khỏi rùng mình, những dòng nước lấp lánh sáng và trong tuôn chảy trên người. Đó là hạnh phúc hay sự nhơ nhớp, bất hạnh ?

Thêm một lần nữa tôi cảm thấy mình mất mát một cái gì. Một cái gì đó không phải nó đã lọt khỏi tay gìn giữ của tôi mà như tự nó đã tách rời, đã lìa xa mình, một sự tự băng rã. Mấy ngày liền tôi sống trong tình trạng vừa ngẩn ngơ vừa nóng nảy. Bà bạn có vẻ nghi ngờ nhưng bà không hỏi gì tôi cho mãi tới hôm đi chơi chùa. Lúc chúng tôi lễ xong và ra ngoài sân chùa ngồi chơi trên ghế đá dưới gốc cây điệp lớn, bà mới nói bóng nói gió hỏi. Trời hôm đó rất đẹp. Nắng trong, sân chùa lơ thơ những ngọn cỏ non mọc ở những khe gạch, hơi mát tỏa từ những vòm lá xanh lẫn mùi thơm của hoa dại. Ở phía sau chùa là những ngôi nhà do các Phậ tử cất, và các em nhỏ đang tập hát một bài hát đạo trước thềm sau giọng cao của một huynh trưởng.

Bà bạn nói:
-Chúng ta tiếp tục cuộc rong chơi tay ba này cho đến khi ông không còn ở đây nữa.
Ông khách nhìn bà bạn bảo:
-Tôi sắp phải về Saigòn rồi.
Tôi nghe tiếng hát của bầy trẻ, nói:
-Bản nhạc này tôi thuộc từ hồi còn bé.
Bà bạn ngửa cao mặt lên nhìn trời. Tôi cũng nhìn theo bà. Ở sau ngọn cây cao nhất, là những cành khô, trụi lá của những cây chung quanh, mặt trời chiếu những tia vàng chói và linh động. Ánh sáng bay múa bằng những vồng, hạt và những tia nhọn.
Bà bạn bảo:
– Cứ nhìn một lúc chắc hoa mắt. Mọi người sống đều kỳ cục, lúc nào và ở đâu cũng tìm cách che dấu, trong nhà cửa, trong quần áo, bộ dạng.

Ông khách nói:
– Khi già thì người ta không dấu gì được nữa. Tóc trắng và da nhăn. Như tôi đang bắt đầu đây.
Tôi nhìn ông khách và bà bạn thấy họ sống thật dễ dàng: muốn ăn, ngủ, đi chơi, nói gì thi nói. Khuôn mặt ông khách không xấu quả thật ông bắt đầu già. Tôi nghĩ giá đừng có gì trở ngại tôi có thể ở gần ông và tôi sẽ truyền hết cái tươi trẻ của tôi cho ông. Chúng ta sẽ san bằng hạnh phúc phải không anh? Bằng đủ mọi cách.
Bà bạn hỏi tôi:
– Cô không nói gì sao ?
Tôi cười với họ, bảo:
– Tôi nghe bà và tôi sung sướng lắm.

Bà bạn lắc đầu, nhắm mắt làm một bộ điệu thật là dễ thương. Nắng chiều qua kẽ lá làm thành những vòng tròn nhỏ và đa dạng xao động trên sân, bám trên người bà bạn. Bà ngồi vắt chân lên nhau và hơi nghiêng về một bên, đùi bà tròn, dài, trông lớn, trông đẹp và khoẻ mạnh. Tôi tự hỏi sao trông bà như thế mà bà không có con ?
Bà nói với ông khách:
– Nếu Tết này ông dựng được kịch thi chúng tôi sẽ về Saì-gòn xem.
Ông khách cười bảo:
– Ôi cả đời tôi chỉ có mỗi một việc tôi làm được trọn vẹn đó là việc tôi chẳng làm trọn được việc gì cả.

Bà bạn bắt chước tiếng kêu của ông nói:
– Ôi vậy mà đến bây giờ ông vẫn còn chua chát được như thế sao ?
Ông khách cười nhìn mọi người. Bà bạn đứng dậy đi xuống chỗ lũ trẻ đang tập hát bên dưới, bà nói phải đi một tí ngồi mãi bị tê chân.
Còn lại ông khách trên ghế. Tôi mở to mắt nhìn ông.
Ông hỏi:
– Hôm nọ em về có ướt không?
Tôi gật đầu không nói gì. Tự nhiên tôi thấy sự bỏ đi của bà bạn thật đúng lúc. Bà biết để lại sự lố bịch cho người khác. Tôi thấy mọi cử chỉ của tôi đều có vẻ thừa thãi, không cần thiết, không biểu tỏ được gì, ngoài sự ngớ ngẩn. Vẻ bình tĩnh, đến lạnh nhạt của ông khách làm tôi choáng váng hết cả ngườìi. Tôi cảm thấy khốn khổ, nhục nhã, những gì nặng nề nhất trong giây phút chụp lấy mình. Và rất nhanh nước mắt tôi đột ngột chảy ra.
Ông khách nhìn tôi yên lặng giây phút rồi bảo:
– Em nhìn việc gì cũng nặng nề cả.

Tôi thấy lao đao lần thứ hai, không phải vì sự đổi thay trong giọng nói của ông khách mà chính vì tôi vừa chợt nhận ra không có gì lạ đã rơi vào giữa chúng tôi. Nghĩ thế tôi lại sợ. Tôi sợ cái khoảng không đó. Bởi đằng sau nó đã có một cái gì xẩy ra rồi. Tôi bị bao vây bởi sự khốn khó nào đây? Em không dám nói lời yêu anh nữa, dù chỉ với một mình em, ngấm ngầm như một lời an ủi. Em muốn dấu mặt mình cho cả mình không ngó thấy. Chân tay long ngónng, em phơi bầy ra đây sự đần độn của mình.
Ông khách lấy bàn tay vuốt ve, cử chỉ vừa thân mật vữa pha lẫn chút thất vọng. Tôi biết ông thất vọng. Vì cách cư xử quá trẻ con của tôi.
Ông nói:
– Tâm hồn em đuối, em lại thích tạo những xúc động mạnh, em không chịu nổi những xúc động đó, rồi em nhìn gì cũng qua làn nước mắt tủi thân và tự bó mình như thế có ich lợi gì ?
Tôi nói:
– Em sợ anh khinh em.
Ông bảo:
– Em liều lĩnh lại hay sợ hãi. Phải can đảm sống lấy một mình chứ. Không cho ai quyễn về mình cả.

Tiếng nói của ông cho tôi một niềm tin tưởng vu vơ. Như bóng nắng bên ngoài có đó, tôi nhìn thấy, nhưng chẳng nắm giữ, nương tựa được gì. Giữa nó và tôi có một sự chia lìa rõ rệt. Khi anh không còn ngồi đấy, khi em chỉ còn lại một mình nó sẽ đổ vỡ, sẽ tan biến, sẽ đêm tối. Khi em bằng lòng nhận anh vào tận thân thể có thể nào em nghĩ anh không có quyền gì về em không? Chính nghĩ như thế, anh đã đẩy em vào chỗ sa ngã. Đó không phải là một cái quyền người ta có thể cho hay không cho. Mà là một tự nguyện. Em có thể nghĩ đến anh như một niềm an ủi, một nơi nương tựa cái đầu sợ hãi của em khi biết rằng anh không từ chối. Anh có đấy nhưng anh không nhận điều em nghĩ đến anh, thì em nhận gì nơi anh?
Tôi nín khóc và ngồi lại ngay ngắn. Tôi cố lấy lại bình tĩnh để cho mắt khỏi đỏ, ngộ nhỡ bà bạn trở lại nhìn thấy.
Ông khách nói:
– Có lẽ tôi phải cho em biết điều này; bằng tuổi tôi khi người ta nói yêu một người, câu nói ấy không còn có cái nghĩa như khi người ta còn trẻ nói nữa. Nó không phải câu nói vồ vập, gìn giữ, hòa mình, mà nó chỉ biểu tỏ một chút cảm tình thành thật nào đó trong giây phút. Thế thôi. Người ta không để ý đến sự đằm thắm hay phai nhạt nữa.
Tôi nói tôi phải cám ơn sự thành thật của ông. Thực ra thì vì tôi không được yêu, chúng ta không ở trong tình yêu, nên tiếng nói của chúng ta mới mang vẻ lạnh nhạt của những kẻ đứng bên ngoài. Và chúng ta chỉ hiểu nhau qua sự lạnh nhạt đó. Ông khách bảo, đó là sự tham lam nhầm lẫn của tuổi trẻ. Mỗi người cần có đủ sự lạnh nhạt để có một đời sống riêng: đó là của cải của chúng ta.

Bà bạn trở lại với vẻ mặt của người ban ân huệ. Bà đã cho chúng tôi tự do. Điều đó làm tôi lộn ruột. Lúc nào bà cũng tỏ ra mình ở trên kẻ khách. Sự tức giận xâm chiếm tôi một cách mau lẹ.
Và tôi muốn tỏ cho bà biết như thế. Nhưng bà cười nói tự nhiên, bảo:
– Thôi đi về chứ, trưa rồi, còn ăn cơm không đói.
Tôi tự thấy mình thật là hàm hồ và không thể nào bằng bà được. Một lần nữa tôi lại thấy ghen với bà. Họ xứng đáng với nhau hơn tôi.
Tâm trạng tôi cứ luôn thay đổi không lường như thế. Nên tôi thường khổ một mình. Tôi như kẻ tay này làm tay kia phá đổ.
Ông khách bảo:
– Bà hãy ngồi cho đỡ mệt, mồ hôi ướt cả lưng áo kia kìa.
Bà ngồi xuông bên cạnh tôi, giọng vui đùa:
– Dạo này cô hay sầu dữ. Phải vui lên. Rình mò mình mãi có ích gì đâu.

Tôi có cảm tưởng bà đã trải qua hết những gì tôi sống nên bà đoán và nói đúng. Tôi đã sống như một kẻ rình mò mình. Vết tàn tật kia là cái chết ám ảnh từng giây từng phút. Tôi tức giận đột ngột, yêu thương đột ngột và nguội quên đột ngột. Tất cả những thứ ấy thành một nỗi nhớ không hình ảnh nguyên cớ, là quãng đường tôi đi qua, là đứa trẻ không cha mẹ, là một gia đình đầy sự ghen ghét trẻ con, là tuổi thơ đã mất, không ngừng dày vò không tên.
Chúng tôi trở về quán ăn. Trong lòng tôi vẫn còn ấm ức với bà bạn. Tôi lại nghĩ giá đừng có bà, đừng có những sự ngăn trở vẩn vơ này, có lẽ tôi đã được sống những giây phút hạnh phúc với ông khách.
Bà bạn bảo:
– Có những người viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc, và chúng ta hưởng cái hay ho của họ. Đừng tham dự vào đời họ làm gì.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
– Sao tự nhiên bà lại nói thế ?
Bà bạn nhìn ông khách và tôi tủm tỉm cười. Môi bà ướt bóng, hai mắt long lanh, trời nắng làm cho má bà đỏ hồng, trông bà đẹp và duyên dáng. Bà nói:
– Tôi nghĩ vậy. Em ưa đọc sách và gặp ông ấy tất hai người sẽ nói với nhau truyện sách vở. Và là dịp ông gieo sự khó khăn cho em.

Nói xong bà cười lớn tiếng và nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi chột dạ, và không hiểu thực ra, bà định nói gì. Phản ứng tự nhiên khiến tôi nghĩ nếu quả thật bà định ám chỉ gì tôi, thì tôi sè nói thẳng
với bà, như đã có lần bà nói với tôi: “tôi đã ngủ với ông khách”. Nhưng nghĩ lại tôi lại thôi. Cũng câu nói ấy bà nói với tôi nó chỉ có nghĩa là một sự thật. Đến lần tôi nói ra nó lại có vẻ tục tĩu. Tại sao vậy ? Hình như tại khi nói ra điều ấy lòng bà ngay thẳng còn tôi gian lận.
Tôi nói, và phải vừa nói vừa cười cho lời nói bớt vẻ gay gắt :
– Tôi nghe bà và sẽ giải quyết mọi sự khó khăn một mình, nếu có, và theo đúng ý mình.
Bà lấy khăn chùi miệng, ngước mắt nhìn thẳng vào mặt tôi, dịu dàng:
– Tôi cũng chỉ muốn chúng ta vừa lòng như thế!

Ông khách nói:
– Tôi không ăn tráng miệng nhưng sẽ dùng cà phê. Bà và cô uống gì ?
Chúng tôi đồng ý không ăn tráng miệng và dùng cà phê, bà bạn lấy cớ trưa bà sẽ không ngủ, còn phải thức đánh bài, tôi nói dù uống cà-phê muốn ngủ tôi vẫn ngủ được.
Buổi trưa nắng nhưng gió từ trên núi thổi xuống nên ơn ớn lạnh. Quán hàng vắng chỉ còn ba chúng tôi. Tôi nhìn bóng ba người sâu trong tấm kính cửa và bên ngoài phố người đi lại cùng với xe cộ. Tôi nhìn xuống bao diêm của ông khách để trên góc bàn. Mày sẽ thua thiệt nêu lúc nào mày cũng nhìn mọi sự qua lần nước mắt. Em không muốn nhìn thấy anh qua làn nước mắt của em nữa. Thôi tỉnh dạy đi con nhỏ, đừng nói lẩm cẩm một mình như thế.
Bà bạn hút thuốc cùng vói ông khách. Bà mời ông đến nhà ăn một bữa cơm từ biệt trước hôm ông về Sài-gòn, và bà muốn tôi có đồng ý không? Tôi cười bảo tôi sẽ làm một món ăn đặc biệt đó là bún chả và tự khoe là tôi pha nước mắm rất ngon.
Ông khách cười bảo với tôi:
– Rồi tôi biết trả ơn cô bằng gì ?
Bà bạn xen vào:
– Ông chịu khó sống lâu viết kịch cho cô ấy đọc.
Ông khách tiếp:
– Thế còn bả ?
Bà bạn cười đứng dậy bảo:
– Thôi mình về chứ . Còn tôi ấy à ? Được, nếu muốn gì tôi sẽ điều đình với ông .
Lời nói của bà trao nghiêng hẳn người tôi đi. Tôi không chịu nổi mẩu đối thoại của họ mà đằng sau là cái hình ảnh tôi đã nhìn thấy. Tôi có nghĩ oan cho họ chăng? Tôi không biết. Chỉ biết nghe bà nói như vậy tôi bỗng thấy choáng váng như có người đẩy hẳn đi một cái.

Ra đến cửa bà bạn chia tay tôi và ông khách đi đến nhà bạn bà. Bà mở ví soi qua lại mặt và xem có quên thưốc lá và diêm không, xong bà băng ngang đường đi về phía vườn hoa.

Ông khách hỏi tôi có buồn ngủ thì ông đưa tôi về nhà tôi trước rồi ông về sau. Tôi nói không buồn ngủ và chúng tôi đi chơi với nhau. Một lát mỏi chân chúng tôi gọi xe về nhà ông khách. Ông bắc ghế ra ngoài hiên sau và chúng tôi ngồi nói chuyện. Vườn sau nhà ông ăn liền với khu rừng. Nắng soi vàng các lá cây và chiếu những luồng ánh sáng trong xuống các nền cỏ. Rừng càng sâu trông càng mát, tôi nghe tiếng chim hót nhưng không nhìn thấy một con nào. Ông khách nhường cho tôi chiếc ghế xích-đu nên tôi có thể ngả mình rất dễ chịu. Tôi nhớ đến bà bạn và tự nghĩ trong hai người tôi là kẻ gian lận. Không phải tôi gian lận với bà vì nghĩ cho cùng ra, tôi cũng chẳng có bổn phận gì với bà.

Tôi gian lận với linh hồn vô tội của tôi. Tôi đã bịp bợm nó để sống. Ông khách ngồi trong một cái ghề bành mây có nệm và tựa bằng bông bọc vải vàng. Ông kéo ghế sát vào chỗ tôi và ông hôn tôi dưới chiếc ống sắt của tay ghế. Cuộc đi chơi kéo dài đã cho tôi cảm giác nhàm chán, mệt mỏi nhưng tôi không từ chối cái hôn của ông. Tôi nằm yên lặng trên chiếc ghế vải nhìn ông.
Mùi khói thuốc lẫn trong hơi thở của ông. Gió mát từ khu vườn ùa ra mơn man trên da mặt và chân tay. Khi ông khách hôn tôi lần thứ hai thì tôi phản đối. Tôi xây mặt đi. Tôi không còn gì để gìữ gìn đối với ông, nhưng tôi tự thấy thật là tội nghiệp cả ông lẫn tôi, nếu chúng tôi cứ để lôi kéo vào trong chuyện đó một sự trượt chân.

Tôi giữ ông lại bảo:
– Không thể như thế được. Trước đây chúng ta là người lạ. Nhưng bây giờ chúng ta đã biết nhau. Xin cho em được sống với anh, không phải sự sa ngã.

Tôi nói và chợt nghe tiếng mình. Tiếng nói xa lạ như một sự vỗ về của cơn sóng vào bãi bể. Tôi không nói với ông khách. Tôi đã nói với một người khuất mặt nào. Hình như đó là một lời tạ lỗi với ba tôi, một lời cầu xin phù hộ, một sự kêu gọi dẫn dắt nào. Hình ảnh người chết hiện đến mơ hồ lúc ấy làm tôi tủi cực. Bóng dáng mẹ tôi còn xa hơn người chết. Nhưng tất cả các thứ đó có lẽ chỉ là sự liên tưởng. Tôi thấy tôi bị đứt rời khỏi mọi liên lạc, tôi nằm đấy với linh hồn vô tội xa lạ vói mọi cảm giác, mọi sự việc, đó là đứa trẻ đi lạc không có ai kêu gọi. Trong một cơn mê hoặc tôi đã nói lại với ông khách hết cả những điều tôi nghĩ này. Tôi nói và tôi khóc lúc nào không hay. Mãi tới lúc tôi thấy ông lắc mạnh vai tôi và gọi rất lớn tôi mới choàng tỉnh, lúc ấy sự thổn thức dâng nghẹn ngực, và tôi khóc nức nở. Ông vuốt ve tôi và bảo tôi nín đi, nín đi. Sau đó ông dắt tôi vào chơi trong rừng. Khi tôi lấy lại được bình tĩnh hoàn toàn tôi bảo với ông đừng nhớ gì những lời tôi nói. Ông đặt tôi ngồi trên một thân cây khô để trên một bãi cỏ, và ngồi xuống bên cạnh bảo, năm nay ông đã ngoài bốn mươi, ông cũng chẳng có gia đình của cải gì, ông không nghĩ đến chuyện lấy vợ nữa, nhưng nếu tôi muốn thì chúng tôi có thể lấy nhau. Tôi nói, tất cả những gì tôi nói với ông vừa rồi để dẫn đến việc muốn ông hỏi lấy tôi. Tôi cũng nói rằng, ông không thể lấy một người vợ như tôi được, bởi với cái dấu vết tàn tật tôi mang trên mặt có thể là điều trở ngại cho ông sau này. Tôi cũng hỏi ông là sự quyết định vừa rồi của ông có phải vì ông thương hại tôi hay vì muốn nhận lãnh một trách nhiệm gì? Ông bảo mọi sự không rõ ràng như cách tôi đặt câu hỏi, ông không biết trả lời thế nào, nhưng nếu tôi muốn ông sẽ xin cưới tôi. Tôi hỏi thế ông có nghĩ vẻ mặt xấu xí của tôi ông có thể chịu đựng được mãi không, rồi còn bạn bè ông nữa, họ sẽ nghĩ thế nào về ông? Ông bảo ông không định tôn tất cả cái xấu của tôi thành cái đẹp, ông có ít bạn bè, nhưng tất nhiên vẻ mặt của tôi cũng tránh được một vài điều bàn tán gì đó, nhưng điều ấy không có nghĩa gì với ông. Tôi nói, như thế ông đâu có được lấy vợ, ông phải chịu đựng tôi suốt đời sao? Ông bảo, mặc cảm tự ti của em là kẻ thù nguy hiểm nhất. Ông cũng nói, ông không cho việc lấy tôi là một hạnh phúc của đời ông, nhưng ông cũng không cho đó là một tai nạn. Tôi bảo, như thế tôi sẽ trở thành người vợ dửng dưng của ông sao? Ông nói tôi có nhiều vẻ đáng yêu, nhưng từ lâu rồi, đời sống ông ít còn ồn ào. Tôi nói, vậy tôi cũng từ chối làm hòn đá thử chiều sâu của cái giếng yên lặng đó. Ông cầm lấy tay tôi bóp mạnh và nói như tự nói với mình, ông sợ ông không còn đủ nhanh nhẹn để vượt qua cái hàng rào tôi tự rào quanh mình. Tiếng nói của ông làm tôi đau đớn, vì tôi biết rằng ông không hề coi tôi như một vật báu của đời ôNg, không thể không chiếm giữ. Nhưng nếu tôi muốn tôi tin ông sẽ lấy tôi. Nhưng lấy như thế để làm gì ? Không phải chúng tôi lấy nhau mà là giải quyết một vấn đề. Vấn đề đó là gì? Là muốn được nhìn thẳng vào lương tâm mình mà không hổ thẹn sao?
Bỗng nhiên tôi nhìn lên mái tóc khô của ông và vẻ già nua thoáng hiện trên mặt ông và thấy hết sức cảm động. Tôi biết ông thành thật với tôi. Hay ít ra thứ đó cũng là một cố gắng thành thật một cố gắng tốt. Tôi vẫn tin rằng thành thật là một điều khó khăn, thiếu cố gắng và thiện chí không thể thành thật được. Nên tôi nói ông tôi ít giao thiệp, có ít kinh nghiệm trong việc này, nhưng mỗi lần ở gần ông tôi thấy tôi rất dễ cư xử. Suốt buổi chiều ông không tìm cách hôn tôi nữa. Ông dẫn tôi đến các khu rừng rất đẹp có nhiều hoa lạ và lan trắng. Ông bảo khi về Sài-gòn rồi tôi có thể rủ bà bạn hoặc ra đây chơi một mình. Tôi bảo ông đừng nhắc đến việc trở về Sàì-gòn nữa. Chiều bắt đầu nhạt và khói núi bốc lên, gió reo trên các ngọn thông, rừng mờ hơi sương và rét. Chúng tôi trở về nhà, hai bàn tay tôi lạnh giá, trên áo còn thơm mùi hoa. Căn nhà mờ trong bóng tối. Hai chiếc ghế và mặt bàn bỏ không đã đầy lá. Tôi chạy vào nằm luông xuống chiếc ghế vải. Chiếc ghế đu đưa và lần vải mềm ôm sát lấy lưng. Đêm đen dưới lớp ngói mái hiên. Bóng tối ru tôi vào đời sống thật của mình, tôi nhớ đến chiếc bao lơn ở nhà, nhớ tới ông tôi và bà cô, ông chú. Ông khách rủ đi ăn và chúng tôi khiêng vàn vào trong nhà. Nhà tối om. Ông khách nói, mình đi luôn chứ ? Nhưng khi tôi bước lại gần ông, ông bỗng nắm lấy vai tôi kéo lại gần ông. Ông ôm chặt tôi vào lòng và cúi hôn trên môi tôi. Mùi nhựa thông, phấn hoa, thuốc lá trên tay và trên mặt ông làm tôi ngây ngất. Tôi run sợ, nhưng muốn biết bao được ông âu yếm như thế. Bóng tối đã che đậy cho mọi sự giả dối, và chúng tôi đã trở thành những người tình thực sự. Chúng tôi bỏ bữa cơm chiều.

Ba ngày sau, ông khách trở về Sài-gòn. Bà bạn và tôi mời ông ăn một bữa cơm như đã dự định.
Bà bạn tiếp cái ăn và rót rượu cho ông. Sự bí mật giữa tôi và ông khách không biết bà có biết không, nhưng bà thản nhiên, đúng hơn bà cười nói và cư xử rất tự nhiên. Riêng tôì ngồi với họ mà thấy mà thấy tự chính mình mới là kẻ gây ra tội lỗi. Nếu tôi đừng sa vào cuộc, cuộc tình của họ sẽ như trăm ngàn cuộc tình khác. Có tôi vào, nó chia ba và trở thành xấu, thành tội. Lúc ông khách ra về tôi tránh không đưa tiễn ông, tôi đứng trong cửa sổ chỗ giường bà bạn nhìn ông qua lần kính. Bà bạn trở vào nhìn tôi mỉm cười, nhưng rồi bà như nghi ngờ điều gì, mặt bà chợt tư lự. Chúng tôi lo dọn dẹp bữa ăn, sau đó ai về giường người ấy. Bà bạn mời tôi hút thuốc, trở trở dậy đi lại phía giường bà lấy thuốc hút. Khói thuốc cay và đắng xốc lên mũi và làm tê đầu lưỡi.
Tôi cười bảo:
– Có ngon lành gì đâu mà bao nhiêu người nghiện thế.
Bà nhìn tôi cười bao dung nói:
– Vậy đừng tập làm gì.

Bà nói và bảo tôi bắc ghế lại gần bà ngồi và nếu thích thì hát cho bà nghe với. Tôi lấy ghế và đàn lại, dù cay bỏng miệng tôi cũng nhất định không chịu bỏ thuốc đi. Tôi hát cho bà nghe ít câu trong bản nhạc “Ngày Đó Chúng Mình” của Phạm Duy. Bà nằm yên lặng mở mắt mơ màng nhìn lên trần. Khói thuốc thơm vẽ trên mặt bà những đường mỏng mềm mại. Em hát cho anh, cho em, cho cuộc tình không tên của chúng ta: “Ngày đó có em ra khỏi đời rồi, và đem theo trăng sao chết cuối trời u tối…Ngày có kêu gọi hồn người, trùng dương ơi có sót sa cũng hoài mà thôi …”
Nghe tôi hát xong bà bảo:
– Em phải tìm cách chữa cái mặt mới được.
Tôi nói:
– Để tôi có thể trở thành một người vợ đẹp đẽ sao?
Bà tiếp:
– Chúng ta đều là những kẻ tàn tật cả. Nhưng …như thế để đỡ bi thảm đi.
Đây là lần thứ nhất tôi nghe người ngoài đề cập đến vết thương của mình mà không thấy đau sót hay buồn. Vì đó là một ước muốn tốt, thật, của bà đối với tôi chăng? Hay niềm đau ấy đã trải qua quá nhiều cơn và ngày tháng, nên đã trở thành trai cứng ?

Tôi nói với bà, thực ra có lắm lúc tôi cũng không biết có phải ước muốn thứ nhất trong đời tôi là chữa khỏi bệnh chăng? Bà bảo, ôi nghĩ thế thì biết thế nào mà lường, cảm thấy cần làm gì thì hãy cứ làm đã chứ. Tôi nói, lắm lúc tôi thấy bà thật là lãng mạn lúc lại thấy bà thật thực tế. Bà bảo bà ít để ý đến sự phân tách về mình. Vì nếu cứ quanh quẩn với việc dò la mình thì đến phát điên. Nhưng bà cũng tin lãng mạn chỉ là nhận xét của tôi, chứ bà tự thấy bà không phải thế. Tôi hỏi thế cuộc tình của bà với ông khách không mang một chút tính lãng mạn nào sao ? Bà cười đáp, nếu nói như cô thì ai cũng lãng mạn hết. Tôi nói, tôi tin đó là vật báu của đời người nó làm cho chúng ta trở nên dễ thương và đẹp trước mặt người khác. Bà ngồi cao lên dựa lưng vào thành giường,duỗi thẳng hai chân dưới lần chăn mỏng nói, có lẽ sự cần thiết đó đối với mỗi người khác nhau chăng ? Tôi không biết tôi đã có nhìn người khác qua con mắt lãng mạn không ? Bà tiếp, nhưng nếu sống như em mọi quyết định đều quan trọng cả. Tôi nói, nếu quyết định đó liên quan đến mình. Bà bảo, như thế có khi lại có nghĩa ngược lại, không có gì quan trọng đối với em nữa. Lời nói của bà làm tôi sững sờ. Nếu việc gì em cũng cho là quan trọng thì có gì quan trọng nữa đâu, bà tiếp. Tôi bật cười trước lối giảng giải của bà. Buổi trưa giống những buổi trưa khác lọt vào phòng những tiếng động nhỏ của các cành cây và lá va chạm, tiếng máy nổ ở xa. Một cảm tưởng thân yêu chợt nẩy ra trong lòng tôi đối với bà, cùng một lúc tôi cũng nhớ lại hình ảnh bà ở trong khu rừng với ông khách? Treo cây đãn lên chiếc đinh trên tường, tôi nói với bà bạn những lời xua đuổi những ám ảnh bực bội. Bà rủ tôi buổi chiều nếu muốn thì đi chơi với bà xem bà đánh bài. Tôi nhận lời. Bà nói, cô sẽ học được đủ mọi tật xấu. Tôi nói đùa với bà, tôi chỉ còn thiếu có những tật xấu thôi, để trở thành hoàn toàn. Tôi cũng hỏi bà thích đánh bài lắm sao ? Bà chặc lưỡi làm bộ điệu lắc đầu bảo, không nên hỏi một người nào câu hỏi ấy. Nhưng theo bà, đánh bài là một đam mê thích thú. Nói quá ra, nó biểu hiện một tinh thần độc lập và ưa chuộng tự do. Bởi không lúc nào người ta cảm thấy tự do và toàn quyền bằng khi quyết định cây bài. Và bà thêm vào sau hết, nhưng dầu sao thì đó cũng là một biểu hiệu tai hại. Tôi hỏi, bà lục ở đâu ra những lý lẽ kỳ cục đó ? Bà cười đáp, ở trong sự hư thân và những ngày sống một mình. Bà nói và nhìn xuống hai bàn tay mình đang úp trên bụng. Hơi thở của bà phập phồng đưa tấm chăn và hai bàn tay lên cao, xuống thấp.

Tôi hỏi, bà có yêu ông khách không? Bà cười bảo, sao cô cứ băn khoăn về chuyên đó. Ông ấy cũng là người đáng yêu đấy chứ ? Lối trả lời không trả lời của bà làm tôi ngượng. Bà tiếp, đối với tôi tình yêu có thể đến trước hay sau cuộc gặp gỡ giữa hai người cũng được. Tôi nói, tôi đã cố gắng nhưng không thể nào có được một quan niệm sống chắc chắn như bà. Bà vẫn cười, bộ cô tưởng tôi nói như thế có nghĩa là những khuôn số, nếu mọi việc rơi vào trường hợp sẽ có những giải đáp nhất định à? Tôi cũng cười bảo, tôi đang ngớ ngẩn. Chiều tôi đi theo bà xem đánh bài và mặc dầu cố để ý tôi cũng vẫn không phân biệt được vài cái khung với các chữ. Vì không biết chơi, nên ngồi một lúc tôi chán bỏ về nhà nằm đọc sách. Nhưng sách cũng không đọc được. Căn nhà trống trải, tôi thấy buồn, đứng dậy đi lại trong nhà, tới phía cửa sổ, ngó ra con đường ông khách đã đi qua. Ở ngoài đó bây giờ là buổi chiều. Trời xám và những cây thông den thẫm vẽ vào triền núi những cành lay động. Tôi mở toang cửa sổ và nghe tiếng chim sáo kêu rất lớn lọt vào phòng./.

Nguyễn Đình Toàn

Nguyễn Xuân Thiệp

Nguyn_Xun_Thip

Về nhà, về nhà…

Nhà đâu, chỉ thấy đường xa mịt mùng

Hai câu thơ trên là đề từ của một truyện ngắn trong tập Lênh Đênh Qua Cửa Thần Phù của Dương Nghiễm Mậu. Hai câu thơ nghe thật buồn, diễn tả tâm trạng của một con người tuyệt vọng trên đường dài, giữa cõi đời từ nay không còn nơi chốn để đôi chân hướng về.

Với Nguyễn, hoàn cảnh hình như có chỗ tương tự với nhân vật trong truyện. Về nhà, đó là mong ước lớn nhất, thiết tha nhất của một con người. Về nhà, vâng. Nhưng còn nhà đâu nữa mà về. Ở bên kia một con sông, ở bên kia một cánh đồng hay biển rộng, chỗ đó là nhà của ta thuở xưa phải không. Hình như là vậy.

Vâng, thuở xưa Nguyễn cũng như mọi người, từng có một mái nhà thân ái, che mưa che nắng suốt bốn mùa.

xin cho tôi được một lần
trở về trong căn nhà tuổi nhỏ

Nhớ đã có lần mình viết lên như thế. Nó là một ước nguyện. Ngôi nhà đó ở Vương Phủ. À, mới sáng nay thôi, qua không gian ảo, có người nhắc lại: những cây bàng, mái ngói, hàng tre, hàng dừa, cây bưởi bên cửa sổ. Và bờ ao xanh… Có phải rứa không?…Sở dĩ người bạn văn nhớ kỹ như thế vì đã nhiều lần, rất nhiều lần mình tả ngôi nhà ở Vương Phủ trong những bài tản mạn. Đó là căn nhà thời thơ ấu, cạnh nhà của Võ Ngọc Trác, nhà thơ siêu thực. Vừa rồi, Đinh Cường về Huế, Nguyễn có nhờ chụp những cây bàng ở Vương Phủ và ngôi nhà thuở ấy. Nhưng trong những tấm hình Cường gởi, không còn thấy đâu bóng dáng ngôi nhà xưa, chỉ có nhà Võ Ngọc Trác (nay cũng hoàn toàn đổi khác) với bàn thờ nhà thơ. Nguyễn cũng có gọi điện cho Trần Vàng Sao ở Vỹ Dạ, hỏi về xóm Vương Phủ, nơi có ngôi nhà thơ ấu, ngày xưa.… Trần Vàng Sao trả lời: Anh ơi, đã đổi thay hết cả rồi. Vậy đó, làm sao Nguyễn về tắm lại bến sông sau nhà cô Dạ Khê?

Về nhà, về nhà… Đó có thể nào là ngôi nhà ở số 3 Nguyễn Trường Tộ, Đà Lạt. Ngôi nhà nhìn qua hàng thông xuống tận Hồ Xuân Hương. Những bậc thềm đá xưa có bông hoa quỳ nở, cạnh khóm lau gầy. Và trên mái ngói còn mảnh trăng đong đưa? Nguyễn cũng đã hơn một lần nói về ngôi nhà này.

đi qua
đi qua
chiều
trước thềm ngôi nhà ấy
những cánh hồng. khô
của tháng tư. ai vừa đốt
cháy lên
màu nắng. còn đau. ký ức tôi
hay đi qua
khu chung cư trên đồi thông. những bậc đá. và cỏ lau
số 3. nguyễn trường tộ
thấy gì trên con dốc
ngọn đèn. ai thắp lên trong chiều
bông dã quỳ. ôi
đã chết

Ngôi nhà số 3 Nguyễn Trường Tộ. Trịnh Công Sơn và Khánh Ly đã hát ở đây. Lê Uyên Phương đã cho Nguyễn nghe Sử Ca ở đây. Nhà văn Võ Hồng và bạn Duy Năng tới thăm Nguyễn ở đây. Và Thanh Sâm, và Đinh Cường, Lê Văn Ngăn cùng nhiều bạn bè nữa từng lui tới, có người ở lại một đêm hay đôi ngày. Căn nhà, chắc vẫn còn đó, với cây thông già, những bậc thềm đá, và khóm lau… Còn đóa quỳ vàng, e đã chết cùng mặt trời thuở ấy.…

Về nhà… về nhà… Nhà đâu? Căn nhà ở tầng 3 Lô J Cư Xá Thanh Đa nhìn ra mặt sông chăng? Đúng là thế. Ôi con sông, không phải sông Hương mà sáng chiều lúc nào cũng đẹp. Nguyễn và các bạn thường ngồi ở sát balcon, nhìn ra sông uống rượu vào những ngày đầu xuân. Tháng 5 năm 1995, Nguyễn gặp bạn bè ở đây lần cuối rồi ra đi không nghĩ tới ngày trở lại. Từ đó tới nay, tất nhiên bản thân mình và gia đình cũng sống dưới những mái nhà nhưng đó không phải là nhà mình. Với Nguyễn, nhà cha mẹ mình là nhà mình, còn nhà của con cái thì không phải thế huống chi là nhà thuê.

Vậy, xin nhắc lại: về nhà, đó là mong ước lớn nhất, thiết tha nhất của một con người. Về nhà, vâng. Nhưng còn nhà đâu nữa mà về. Ở bên kia một con sông, ở bên kia một cánh đồng hay biển rộng, chỗ đó là mái nhà của ta thở xưa phải không? Hình như là vậy. Nhưng đường về nay đã quá xa.

Vệt Nắng Chiều Nay

chiều
một mảng nắng
bay lạc vào sân
khiến lòng chợt vui
như khi nghe tiếng cười của trẻ
biết mùa xuân đang trở về
bầy chim trốn rét cũng đã trở về
người thi sĩ
với túi bản thảo
và cây đàn gỗ. xưa
cũng đã trở về
dưới mái nhà
nghe bếp lửa reo
nụ cười của mẹ
ôi vệt nắng chiều nay
sao thân yêu thế

Mùa Đông Của Tôi

đêm mùa đông
ngồi đốt một ngón nến
nhớ
bình trà. mùi hương hoa hồng
và những chiếc lá. trên bàn

giấc mơ
của tranh tĩnh vật
ngoài trời
tuyết chưa tan. những mái nhà. im lặng
con chim. đậu trên cây. sáng nay
đã bay chưa
dường như
không còn ai
không còn ai
về lại
con đường của mùa thu trước. dưới lá khô

Những Con Chim Hải Âu

những con hải âu
chiều nay
bay quanh hồ nước. từng đàn. từng đàn
chúng đùa vui. kêu rân. trong nắng
a. có phải đây là những con hải âu mùa nào
lại trở về
mang trên đôi cánh
những ảnh hình
nay chỉ còn là cái bóng của hàng cây
anh chợt nghĩ tới em
giờ này cũng ngồi bên hồ nước. ở chinohill. bên những gốc thông. thơm mùi nhựa mới. trong nắng chiều nhẹ rơi. nắng chiều và chiếc khăn lụa với những bông magnolia màu tím
nghĩ đến một câu thơ đã viết
về một bức tranh
với người chơi vĩ cầm trên những mái nhà
hải âu ơi
hãy bay về phía đó
mang cho người tiếng nói của tôi
và chút hương. của ly rượu. chều nay
chim nhé

Cậu Bé Đi Tìm
Mặt Trời Trong Đám Lá Khô

đôi khi
thấy buồn
anh muốn làm cậu bé
đi tìm mặt trời trong đám lá khô
cậu sẽ gặp
con ong của emily dickinson
kể chuyện mùa hoa loa kèn sắp nở
và cậu cũng gặp
con dế. gáy. dưới bụi cỏ
kể chuyện vầng trăng lãng du
cậu đi lang thang
qua xứ của hoa fuki
tuyết vừa tan
nắng lên rực rỡ
cậu gặp những vị bụt tí hon
cùng nhau múa hát
quên đường về

chỉ là chuyện xưa. cổ tích. thôi
cũng xin gởi tới người

Khúc Thơ
Sáng Mùa Đông
Trời Không Có Nắng

buổi sáng trời không có nắng
ngồi một mình. với tách trà. và nhớ
như sông
collage từ những mảnh vụn. thời gian

chợt thấy lại
con bướm vàng. trên hàng dậu. thuở ấu thơ
tiếng còi tàu
sân ga. không đốm lửa
cây cầu. như cánh con albatross sa trên dòng nước
tôi không về nữa
chỉ có mái ngói màu nâu. vương phủ. và cây bàng thức đợi
chim én ơi
còn bay lượn trên những cột buồm. bến bạch đằng
và mái lầu hotel du parc
tôi đi
mang trong hồn. gầy. những cánh bay. chớp xé
đường chiều
vỉa hè gạch xám. người đứng đợi người. bao năm
tiếng kèn thê thiết
biệt ly. ngàn dặm. nghiêng nghiêng qua trời. sóng chao
những chiếc lá thông khô. dưới chân. mùa thơm cổ tích
th ơi. th ơi
mặt trời treo cổ. trên nóc nhà thờ con gà
ngước nhìn. thời gian. collage hồn. lưu xứ
bay. bay
những cụm tuyết. trưa qua. còn đọng trong hồn
trên khung cửa sổ
chợt thấy
cây sồi
bóng quạ
tôi đi. qua lưu đày. với áo rách vai
hồn du thủ
nửa đêm. tìm bóng. dưới mái gồi
khóc nghẹn. bát cơm chiều. trộn sắn. và muối hột
tôi về
sài gòn chết
vầng trăng. rũ tóc. trên con sông. cầu kinh
mùa hạ
tiếng ve kêu. ôi tuổi nhỏ của tôi
hát lên đi ve
dù bụng đói
như tôi vẫn hát. lời vô ngôn
với cuộc đời. với người. hư ảo ngày trôi qua trong ngôi nhà gỗ rừng hoa fuki
hư ảo. như giấc mơ nơi thành phố biển. với hàng cọ. và căn phòng mặt trăng
và giấc mơ. về lại trên sân nhà
đốt lên đống lửa. lá bàng. sưởi ấm
tôi
hồn lãng du. collage thời gian. của gỗ. và đá

Xin Cứ Bình Yên,
Ngưòi Sẽ Về

mùa đông
còn lại bóng cây khô như trong thơ e. e. cummings
và những mái nhà
mặt trăng trên bức tường. run. trong những lời kinh của gió
nước mắt. những giọt tuyết rơi
đọng lại
cánh chim. bay ngang bầu trời
tơi tả
thôi
hãy bình yên
xin cứ bình yên
người sẽ về
mang theo nắng của mùa hè qua
sưởi ấm
bàn tay. mùi oải hương
những tiếng chuông. của chiếc đồng hồ nhà ga xưa. thầm gọi
đã nghe thấy. từ xa
cỗ xe. và hai con ngựa
chiếc lồng đèn. soi bóng
người về
người sẽ về
với màu đỏ của môi và rượu
trong quán chateau
cô hầu bàn đã bày ly tách
trên mặt bàn gỗ nâu
những bông loa kèn đang chờ đợi
người về
người sẽ về
trong hương nắng mới

Về Như Cây Đứng Khóc

dù ở một nơi xa. thật xa
vẫn nhìn thấy
căn phòng. và ngọn đèn. mắt ai
bên bông hồng đỏ
như lời gọi
của một người, gởi một người
về đi. về đi
kẻo mai
gió lạnh đầy
không còn ánh lửa

dù ở một nơi. xa thật xa. xứ của mặt trời mù. quạ. và cánh đồng
cũng tưởng như trước hiên nhà
nơi có khóm oải hương. và mùi cà phê. buổi sáng
một người ngồi đợi
đã bao năm
đợi ai. chờ ai
từ bức tranh siêu thực. bước xuống
hay từ bài serenade
bay lên
hay từ thơ e.e.cummings
về lại giữa đời này
như cây
đứng khóc

Đà Lạt Ở Một
Góc Khuất Của Virginia

em và bầy chim én
vẫn bay trên phố xưa
những mái nâu. cao. thấp
quán sách. hương cà phê
(NXT)

Người viết đã thật sự được sống cái không khí thoảng mùi nhựa thông của Đà Lạt khi ngồi với các bạn ở nhà Nguyễn Minh Diễm, thành phố Alexandria, Virginia, tối chủ nhật cách đây cũng đã dăm bảy năm. Buổi họp mặt gồm vợ chồng Diễm, vợ chồng Thanh Quang, anh Phúc và vợ là Thanh Trúc, Lê Khắc Huyền và kẻ này. Ngô Vương Toại nói sẽ cố gắng đến, cuối cùng đã không đến được. Tối hôm ấy, món giả cầy chị An Thục Đức vợ Diễm nấu thật tuyệt vời.
Ngồi ở một góc khuất của Virginia mà tưởng như đang ở Đà Lạt, trong ngôi nhà đường Nguyễn Trường Tộ hay Nguyễn Du nhà Diễm hay Calmette nhà Nguyễn Quang Tuyến. Ba mươi năm qua rồi mà như mới hôm qua. Như cùng có mặt Lê Văn Ngăn, Hoàng Khởi Phong, Thái Lãng và bạn Tuyến và bạn Nguyễn Thạc. Như chúng ta vẫn ngồi với nhau như thế này, rất nhiều lần, những năm tháng ấy. Không, không hề có biển dâu, xa cách…
Và Phùng Văn Hưởng vẫn đọc Hồ Trường, hát cho chúng ta nghe ThiênThai -Hưởng nay không còn nữa, than ôi. Bởi trong buổi họp mặt có hai người mà trí nhớ như một cuộn phim chiếu lại từng đoạn từng đoạn –đó là Nguyễn Minh Diễm và anh Phúc, chồng Thanh Trúc- tôi đã thấy lại, tôi đã thấy lại những cây cầu, những con đường, những dãy phố… Và hàng thông sau nhà ga Đà Lạt. Và Nhà Thờ Con Gà đứng trong sương. Những con chim én bay dưới mái Hotel du Parc nơi đặt Đài Phát Thanh. Và ai như tôi đứng trên góc lầu cao nhìn xuống con đường Nhà Chung, đường Tự Đức. Và ai mắt màu hoa pensée trong đêm màu hồng của Night Club. Cầu Bá Hội Chúc, cầu Ông Đạo rồi thì quán cà phê của Dì Ba, ôi cái kiosque thứ hai ấy trên lối đi vào hàng bán hoa dưới chợ Hòa Bình. Chính ở đây, trong cái kiosque đèn màu này, nhiều đêm Đinh Cường, Trịnh Công Sơn, Bửu Ý và kẻ này ngồi ngắm Dì Ba ngây ngất.
Chúng tôi nói với nhau mà không sợ mất lòng các giai nhân khác của thành phố: Dì Ba xứng đáng là trang quốc sắc, người đẹp nhất Đà Lạt ở những năm tháng ấy. Anh Phúc, vì có Thanh Trúc ngồi bên, không dám đồng ý, nhưng anh nói anh quen, rất quen với chồng Dì Ba lúc bấy giờ làm nghề bán bảo hiểm. Ôi, Dì Ba đâu rồi… Nhớ Đinh Cường có vẽ một portrait về Dì Ba rất đẹp trưng bày ở phòng triển lãm Alliance Francaise. Dì mặc áo nhung màu rượu chát, tóc dài, mắt xanh đen. Ôi. mắt em xanh như đêm dài / Để người quên kiếp mai… (Phạm Duy)
Và con đường Duy Tân, chỗ quán sách Nhân Văn nhìn lên là nhà của nhà khảo cổ Nguyễn Bạt Tụy. Không hiểu cái ngôi nhà kiến trúc rất lạ, như tổ chim, nằm trên đầu con dốc ấy, còn không? Và Huỳnh Chùm, người đánh xập xám chuyên binh lủng, và Trần Hoài họa sĩ… nay về đâu. Tôi nói với Nguyễn Minh Diễm: Tuyến vừa email cho biết Hạnh Chi đã sang Mỹ.
Năm 1979, Tuyến về lại Đà lạt, một buổi chiều đi bộ lên con đường dốc Nhà Thờ Con Gà, thấy Hạnh Chi ngồi ôm con trên bậc thềm, mắt nhìn ra phía hồ Xuân Hương. Ôi, Hạnh Chi cũng là một nhân vật đặc biệt tiêu biểu của Đà Lạt. Ngày ấy, nàng thường lững thững đi từ phố, qua cầu rồi lên dốc nhà thờ về ngôi nhà ven đồi dã quỳ trong đường Nhà Chung. Đi bộ, một mình, tóc dài bay theo gió, đôi khi cầm một đóa hoa hồng. Tôi tự hỏi, sau 1975, Chi có còn đi như thế không? Và tôi thấy tôi về lại, như hồn ma nhớ hơi lửa ấm:
đã về. dốc sương mù
đã về. cây hoàng hôn
tiếng gà trưa vẫn gáy
bông phù dung. trong vườn
em và bầy chim én
vẫn bay trên phố xưa
những mái nâu. cao. thấp
quán sách. hương cà phê
Ở đó, những dãy phố rợp bóng dù. Giờ đây trong căn nhà của Diễm, ở một góc khuất của Virginia, kẻ này được thấy lại hình bóng của tiện nội ngày xưa:
Tôi thấy em đi. giữa chiều áo lụa
Dãy phố dài. thấp thoáng. bóng dù xưa
Em. tay dắt con. mắt nhìn trời rộng mở
Khi nắng reo hanh vàng. mùa mới sang thu…
Các bạn ơi, chai rượu màu ráng trời hoàng hôn kẻ này mang tới dường như đã cạn, xin mở chai khác. Hình như lúc chiều trên đường tới đây, kẻ này có thấy xe chạy qua những hàng thông. Đẹp, đẹp lắm, nhưng làm sao đẹp bằng thông Đà Lạt, trên đường lên Dinh 2 tới nhà Hoàng Khởi Phong. Ở đó, trong nhà Hiển nhìn xuống thung lũng đầy thông, một đêm nào họp mặt trong ánh lửa củi ngo từ lò sưởi, có cả Thái Lãng và Trần Hữu Lục, Nguyễn đọc Trong Vườn Tôi Hoa Phù Dung Đã Nở. Diễm chắc chắn còn nhớ, còn Thanh Trúc thì ngoài cuộc, lúc ấy e còn nhỏ xíu?
Đà Lạt, ở một góc khuất của Virginia. Thật ra chỉ là những ảnh ảo, như trong một bức thư Trà viết từ Woodbridge: “Thành phố vẫn chìm trong sương mù. Từ cửa sổ tầng hai nơi làm việc, Trà đang ngắm một Đà Lạt yêu dấu của Th. Không có tháp chuông nhà thờ, không màu đỏ trường Yersin, không có con đường mang tên Nguyễn Trường Tộ, và cũng không có quán cà phê của Th. và bè bạn… “

Trà. Hoa Cúc

bình trà
những cành hoa cúc màu vàng
nỗi nhớ
trong căn phòng
của những chiếc lá và tranh
mù sương. mù sương. ngoài của sổ
k. ơi
anh gọi đó là thơ
là nghệ thuật
haiku

mai sau
sẽ có một lúc nào đó
thấy lại bình trà
và những nhành hoa cúc
trong bình
và trên mặt bàn
anh sẽ kêu lên
thơ ơi. trà ơi
dẫu nhiều ngăn cách
như giấc mơ vượt lên đời sống này
vượt lên nỗi đau. bệnh tật
dẫu chỉ một lần
như chiếc lá khô. bay

Chào Boston Chào Bạn Bè

từ giấc mơ của cơn giông
xứ sấm sét
tôi tới đây. chào boston
chào bạn bè anh em. thành phố cổ

và xin tặng nhau, thơ này
của xứ
hoa hải đào. nở đầy trong màu nắng
tháng mười
theo chim. tôi đến đây. gặp boston
gặp bến cảng mù sương. ánh đèn. soi góc hè gạch xám
ôi. lou giờ đã xa. trăng gầy đỉnh whispering pine. hồn thảo mộc
và ly cà phê. trong trí tưởng. uống ở harvard square. với cái bóng của mình.
và hoàng thị bích ti
không còn thấy. phố tàu. los angeles
mưa sương. mưa sương. cầu longfellow

này anh em. bạn bè
chúng ta đã đi hết biển
qua các đại dương. và châu lục
không về lại mái đình xưa
bá ngọ
thời của quỷ
ngói lở. cột xiêu. sen tàn. mùa hạ chết
để gặp nhau đây. điểm hẹn boston
con tàu may flower. bắc qua thế kỷ. ký ức của tiếng sóng bờ xa
về phố biển. trời.plymouth

vâng. tôi từ xứ bò. miền đồng cỏ
hái bông vô ưu. ngày nắng phai
chào boston. thế giới dường như rất nhỏ
xướng ca. ồn. quên lệ rơi

Đọc:
Mơ Cùng Tôi
Giấc Mơ Đà Lạt

đọc ‘mơ cùng tôi giấc mơ đà lạt”
của Phạm Cao Hoàng
tôi gặp. và yêu
những câu thơ lục bàt. anh viết cho cúc hoa
cả những trang văn
về những ngày cúc hoa bị nạn
ôi. một tình yêu thật đẹp. và sắt son
đọc phạm cao hoàng
tôi còn được về lại
đà lạt
với những bông dã quỳ
và những con đường thân quen
cà phê tùng
quán sách nhân văn. chỉ còn cái bóng. và bạn bè. và những con chim én
quán lục huyền cằm
của lê uyên & phương
nơi đây. noel 1973
cùng với thái tú hạp. hoàng khởi phong. lê văn ngăn
trong ‘đêm đọc thơ & hát thơ’
tôi được sống không khí của nghệ thuật. và thi ca
trong mùi của sương mù. của cà phê và trà tường vi
ôi. làm sao quên
cũng tại lục huyền cầm
trong thơ và nhạc. phạm cao hoàng đã gặp cúc hoa. lần đầu
từ đó đi bên nhau trọn kiếp
tôi còn thấy
gốc thông già
nơi hoàng và hoa chụp chung bức ảnh của thời mới yêu nhau
dung cũng đã chụp cho tôi
noel 1961
một bức ảnh đứng dựa gốc thông
thời mới cưới
bao nhiêu năm. như mây. trôi qua
phạm cao hoàng và cúc hoa. lại ngồi bên nhau. trong nhà thủy tạ
hoàng uống ly hennessy. còn hoa ly cà phê sữa
như thuở nào
ôi. tôi biết về đâu để gặp lại người của tôi
dắt tay nhau ra thủy tạ
ngồi chờ trăng lên
phạm cao hoàng và cúc hoa
có đi lên con đường nguyễn trường tộ
chỗ đối diện với khách sạn au sans souci
là nhà tôi thuở đó
nơi điểm hẹn của diễm. thái lãng. lê uyên phương. đinh cường. khánh ly. trịnh công sơn. thanh sâm…
ôi. làm sao nhớ hết
cảm ơn phạm cao hoàng đã cho tôi sống lại
một thời tuổi trẻ dấu yêu
xin cảm ơn

Nhịp Bước Mùa Thu

sáng nay. tôi lắng bước mùa xưa
chim nhỏ. năm nao. đậu khóm dừa
sông chớm đôi bờ thu quạnh quẽ
đường dài, son đỏ. quán lau thưa

nhà ai. phơi áo. ngoài hiên nắng
nắng tắt trưa qua. lạnh bến chờ
cây ố. sắc tường. vương phủ ấy
trẻ nghèo. nhặt lá. ngói rơi. hư

nghìn mùa. sương khói. dậy âm vang
lộp bộp. hiên sau. trái rụng vàng
bóng sậu. kêu qua bờ mía dại
xa nhau. mùa thu. mưa trong trăng

em đi. nhịp bước dạo đôi mùa
áo biếc. chìm trong dáng núi xa
trống lẻ. trường bên. hờ hững điểm
hoàng thành vừa chợp giấc mơ trưa

thời đại xây trên lòng quá khứ
tiếng mùa. hốt gió. rắc ly tan
này em. nhìn lại nương cày cũ
mặt đất. khô se. bặt tiếng đàn.

Đêm Mùa Đông
Thức Giấc
Nghe Tiếng Hót Chim Họa My

đêm mùa đông
một cơn ác mộng
đánh thức tôi
2 giờ 45 phút sáng
em. em có chờ tôi. trên ngọn đồi sương tím
sao mãi hoài tôi đợi
mong. gặp lại nhau một ngày nào

tôi nằm. nghiêng tai. lắng nghe
dường như. trong vòm lá tối. ngoài khung cửa
có mảnh trăng thượng huyền. và tiếng chim họa mi
hót
tiếng chim họa mi
như từ thơ. tomas transtromer
trong đêm khuya
cất lên. lảnh lót
như lời trẻ reo
ôi. tiếng chim họa mi. đến thăm tôi
ý chừng thấy tôi cô đơn. tuyệt vọng
bảo tôi
sẽ không có chia ly. và cái chết
không có. những cánh đồng của tóc. và môi khô
không có. ngọn gió của gai nhọn
người đi rồi sẽ quay về
em và tôi sẽ bay lên
như trong tranh chagall
lovers and half moon
bay lên trong tiếng hót họa mi
chúc phúc mọi người. và cuộc đời
mãi mãi bên nhau
như chưa bao giờ có chia tay. mùa đông. và những chuyến gió

Nguyễn Xuân Thiệp

1 18 19 20 21 22 34