Cao Thoại Châu

Cao Thoại Châu-001

Đón Con Về

Con đã hiểu lòng ta không sức mạnh
Chỉ là mây có ở trên trời
Chút gió lang thang ngoài đồng nội
Cánh buồm không có lối ra khơi

Chiếc lá lạc trong mùa thu rực rỡ
Là cánh chim ê mỏi giữa hoàng hôn
Dăm tiếng lỡ rơi trong khuya khoắt
Khi vui nhọn sắc những khi buồn

Con đã biết đường về xa thăm thẳm
Nắng nào không tắt buổi chiều tan
Một đời đan xen tan và họp
Mộ là hồn người hoa nở những bông hoang!

Hôm nay lòng ta không đóng cửa
Đón con về như đón một bài thơ
Tự đâu đó chim bay về chim hót
Ý nổi chìm trong góc khuất tâm tư

Lòng đã nhủ phải vui ngày hội ngộ
Phải mềm lòng nhận một bông hoa
Mà bất giác cay sè trên mắt
Nỗi đau chờ sẵn tự bao giờ

Đây là trái tim bao lần đỏ lửa
Cuộc nhân sinh mang nặng trên vai
Những nghịch lý và hơn thế nữa
Trao cho con thân phận làm người

Con gái về, lòng không quạnh quẽ
Đèn không đổ bóng cõi trời xa
Ta cũng trả gió mưa một thời mưa gió
Vào thơ ta, con gái bước vào nhà!

Vẫn Còn Trong
Như Tờ Lịch Mới

Năm đã cũ rất may hồn chưa cũ
Có vẻ như ta mới vào đời
Giấy vẫn trắng đôi tay cũng vậy
Và trái tim chưa cần thiết chia đôi

Mắt chưa thấy cõi đời ô trọc
Chân chưa đi xuống cánh ruộng bùn
Đường ta đi cũng chưa bằng phẳng
Chưa gai góc nào nhức nhối đôi chân

Gió vẫn đi qua cửa nhà mình
Không ghé lại sợ làm hồn ta lạnh
Áo khinh cừu mỗi mùa đông đến
Dạn dày chưa rách một đường khâu

Người đàn bà ngồi ở cầu ao
Lơ đãng để chân cho cá rỉa
Giống như ta vào đời một thuở
Cá cắn chân không biết tự bao giờ

Năm đã hết ta còn sống đó
Đùa bỡn theo những tờ lịch hàng ngày
Không phải lá nên không biết bay
Dù mảnh giấy có linh hồn đa cảm!

Tưởng thong dong mà giống như tù
Ta là con thuyền bị neo vào bến
Để tiếng còi cất lên sang sảng
Phẫn hận đêm về không trăng sao

Nhìn lên trời chẳng thấy trời cao
Đất không rộng sao đi không hết
Trưa mùa hè hồn ta giá rét
Trái đất dành nơi lạnh nhất cho ta ?

Bao lần đi chỉ đợi một lần về
Mà những con tàu cứ quay lưng lại
Năm mới ta gửi mọi người câu hỏi
Lạc nơi nào phân nửa trái tim xa ?

Em Là Người
Phiên Dịch Của Đời Tôi

Chiều lên xanh những nốt dương cầm
Sóng sánh trong mắt người yêu dấu
Vời vợi xa hồn tôi không bến đậu
Chỉ thấy nặng lòng vời vợi nhớ thương em

Tôi đang nghe giữa cuộc đời buồn
Tiếng em thấm vào hồn tôi thơm thảo
Giai điệu ấy làm sao tôi hiểu
Khi không lời phiên dịch của riêng em

Đêm nằm nghe chớp bể mưa nguồn
Ánh chớp giật mưa rừng bão biển
Lòng tôi đấy khi không nổi sóng
Giữa bốn bề đá dựng chênh vênh

Tôi đi chưa hết tháng năm buồn
Mưa và nắng ở hai đầu tít tắp
Tình em cho nồng nàn như nước mắt
Và ngậm ngùi day dứt nợ đời nhau

Đêm nằm nghe cơn gió qua cầu
Tôi mơ thấy mênh mông những nước
Tiếng róc rách không sao ngủ được
Khi thiếu lời phiên dịch của riêng em.

Hoàng Anh 79

A-Hoang Anh 79

Mưa Qua Phiến Lá

Chiều nay ta về trên lối hẹn
Chỉ thấy hoa rơi với bụi mù
Dường như lâu lắm em không đến
Đã lãng quên rồi, đôi mắt thu

Nhớ thuở tóc dài bay theo gió
Ta ngẩn ngơ yêu, tuổi học trò
Có cơn mưa nhỏ xiên qua áo
Nên tình rớt lại cuối trang thơ

Có hoa phượng đỏ buồn trong nắng
Tiễn em đi biệt mất phương nào
Từ đó theo đời ta phiêu lãng
Bên cầu hoài niệm giấc chiêm bao

Chiều nay uống rượu bên quán cũ
Cạn bầu mà nỗi nhớ chưa vơi
Mây trắng bay về nơi cố xứ
Sao em xa lắm tận mù khơi

Mưa vẫn mưa bay qua phiến lá
Thấy đời ướt lạnh quá mong manh
Ta đi về với phương trời lạ
Thăm thẳm đường khuya bước độc hành !

16-7-2015

Tình Rơi Theo Ngàn Lá

Giọt mưa bay lất phất
Em đi về giáo đường
Sáng thu ngày Chúa Nhật
Thánh thót từng hồi chuông

Em gầy như lá cỏ
Đời ta mòn gót đau
Thời gian phai màu áo
Em ru tình chiêm bao
Mắt em trời thương nhớ
Cuộc tình mình xanh xao

Ta không là linh mục
Nên không rửa tội em
Nhưng ta là thi sỹ
Xin hôn mái tóc mềm

Ta không là linh mục
Không nghe lời thật lòng
Nhưng ta là thi sỹ
Biết em sầu mênh mông

Biết em buồn như sông
Nước chia dòng trăm ngã
Mai em về với chồng
Tình rơi theo ngàn lá
Ta Còn Gặp Nhau Không
Hay Là Người Xa Lạ

Em quỳ bên tượng Chúa
Lời kinh thánh nhiệm mầu
Ta thêm vài vết chém
Giữa cuộc đời bể dâu
Đường giang hồ hiểm ác
Mịt mùng biết về đâu?

Ngày 29-6-2015
Hoàng Anh 79

**********

Ra Khơi

Về sông cũ ta tìm ai, không biết
Vì em xa, xa lắc, mấy phương trời
Chiều rơi chậm, sông tím màu ly biệt
Một con thuyền vô trạo, sắp ra khơi!

Ly Khách

Chiều tắt nắng chim bay về cố xứ
Ly khách ơi rượu cạn mấy bầu rồi
Mớ hành trang còn bao điều quên nhớ
Mai đi rồi, xa lắm, tận mù khơi!

Quậy

Ta đói lắm em cho vài cắt bạc
Cũng đủ mua rượu uống để quên đời
Ta đâu hiểu những đồng tiền xương máu
Nhậu say rồi lại quậy khơi khơi!

Cởi Áo

Ta lãng tử còn em thì lãng mạn
Hai đứa mình tâm sự giống như nhau
Áo nhân tình ngày xưa đều cũ kỹ
Cởi hết đi em. Ta làm lại từ đầu!

Ngày 21-6-2015
Hoàng Anh 79

Nguyễn Đức Nhơn

Nhơn grey-white-windows-008

Sóng Lòng

Bóng chiều ngã xuống sông Tương
Thuyền em rẽ bến về phương trời nào?
Sông buồn sóng dợn lao xao
Và ta sóng cũng dạt dào trong tim!

Thơ Nguyễn Đức Nhơn

Phiên bản Hán Việt

心波
斜暉倒湘江
離舟去何方
幽江漣波漫
心波我亦茫
沙沙

Tâm Ba

Tà huy đảo Tương giang,
Ly chu khứ hà phương ?
U giang liên ba mạn,
Tâm ba ngã diệc mang.

Hạt Cát

心波
斜暉倒湘江
離舟去何方
幽江漣波漫
心波我亦茫
沙沙

Tráng Sĩ

Cát bụi biên cương mòn vó ngựa
Tóc râu một bóng nhuốm tà huy
Tráng sĩ chỉ trời vung kiếm báu
Hùng tâm tráng khí mờ chân mây

Biên cương hề ! Đêm sâu hun hút
Sa trường gió lộng thổi cuồng sa
Tráng sĩ giật mình khua kiếm trận
Nghe trong gươm giáo khúc tình ca

Trời Nam một dải mù sương khói
Chiến trường mong da ngựa bọc thây
Tráng sĩ trời Nam hề ! Tráng sĩ
Hồn thiêng sông núi vẫn còn đây

Tráng sĩ mơ về con phố nhỏ
Có người thiếu phụ bồng con thơ
Tựa cửa chờ chồng nơi chiến địa
Tháng ngày qua như chiếc thoi đưa

Cát bụi sa trường mù mịt bay
Vang vọng đất trời vó ngựa phi
Tráng sĩ Trời Nam hề ! Tráng sĩ
Ngàn năm sông núi vẫn còn đây.

June-30-2014

Mùa Hạ Buồn Xa Xứ

Ở đây không thấy hoa phượng nở
Và tiếng ve sầu rả rích kêu
Ở đây không thấy vầng trăng tỏ
Soi bóng trên hồ nước tịch liêu

Ở đây mùa hạ nắng chang chang
Vắng bóng người em bước dịu dàng
Cấp sách đến trường ngày hai buổi
Khoe tà áo mới đón thu sang

Ở đây mùa hạ nóng như thiêu
Vắng bóng em đi những buổi chiều
Vắng bóng em vin tà áo trắng
Thẹn thùng gió ngược thổi hiu hiu

Ở đây mùa hạ buồn da diết
Không thấy trăng tròn lúc mới lên
Không thấy những vì sao lấp lánh
Và tiếng gà tre gáy nửa đêm

Ở đây ngày tháng qua thật mau
Mới đó mà nay đã bạc đầu
Hỡi ôi “Quốc phá Sơn hà tại” *
Sao thấy trong lòng đau quá đau!…

* Cổ Thi
July – 2014

Điền Gia Lạc

“bạch đầu nhân túy
bạch đầu phò, điền gia lạc”*
cái thú điền viên
hai thằng đầu bạc
bê rượu ra sân
chén tạc, chén thù
ngửa mặt lên trời
cười đến ngất ngư
coi thế sự như trò chơi con trẻ
cạn chén đi anh
bọn mình say một bữa
để thấy đời còn đẹp biết bao !
mái tóc hai thằng
bạc trắng như nhau
như những đám mây chiều trôi lãng đãng
đàn vịt rỉa lông trên bờ ao cạn
đàn gà con bươi rác sau hè
chạy quanh sân
đàn trẻ nô đùa
giàn bầu, mướp
cũng đơm hoa, nở nhụy
cạn đi anh
bọn mình say túy lúy
để nghe đất trời
thở nhịp thiên nhiên
hãy quên đi
những chuyện não phiền
mà uống cạn chén đời trong mộng tưởng
tôi đâu phải là kẻ hằng tâm, hằng sản
mà chỉ là thằng khố rách, áo ôm
mượn chiếc cần
ngồi câu áo, câu cơm
đâu có ôm mộng lớn
chờ thời như Lã Vọng
đâu có chí lớn làm con cá kình
vượt trùng dương
cỡi sóng…
tôi chỉ là thằng con nít sống lâu năm

còn anh ?
thì cũng là thằng lạc chợ, trôi sông
giả hiền sĩ gạt đời kiếm bữa
dựng lều chõng
hai thằng nương tựa
bê rượu ra sân
hai đứa khề khà…
“bạch đầu nhân túy
bạch đầu phò, điền gia lạc”

cạn chén đi anh
bọn mình
chén thù
chén tạc
đời vui như mở hội đầu xuân
chếnh choáng men say
rượu ngọt lạ lùng
chiều xuống thấp
đẹp vô cùng anh nhỉ ?
gặp bạn hiền
rượu ngàn ly chưa phỉ
ngất ngưởng bên nhau
nói chuyện bao đồng…
khi trở về
có lội suối, qua sông
nhớ chống gậy mà dò sâu, cạn !
“bạch đầu nhân túy
bạch đầu phò, điền gia lạc !”

* Cổ thi.
(Nhớ buổi nhậu với
Trần Yên Thảo ở Bình An)

Khách Lạ

khách về đây trời đất thênh thang
gió mùa bấc tháng giêng lồng lộng thổi
hàng dương liễu đón chào khách mới
khách đường xa rũ áo phong trần

khách về đây sông nước ngại ngùng
con thuyền nhỏ chở đầy sóng gió
trở về neo trên bờ bến lạ
thuyền bập bềnh giữa bến chiều hoang

trên bờ kia ai mất ai còn?
con phố cũng vắng người qua lại
khách bỗng thấy cõi lòng tê dại
đường trăm năm lề đá xanh rêu

khói vàng ươm nắng ngả màu chiều
con gió bấc cũng ngập ngừng lịm tắt
bóng chiều đỗ trên bờ vai áo bạc
khách mân mê râu tóc, ngại ngùng…

kìa nhà ai cửa khép lạnh lùng?!
khách ngờ ngợ bước lần qua lối nhỏ
con chó già ngủ vùi trước ngõ
đàn gà con quấn quýt sau lưng!

khách băn khoăn chân bước ngập ngừng
từng nhịp thở gõ đều trên nỗi nhớ
kìa ai lạ? khách sửng sờ hỏi nhỏ
ai ngồi kia cúi mặt im lìm?

khách bàng hoàng, nghe máu ứa về tim
hàng dương liễu cũng gục đầu thổn thức
khách lặng lẽ quay về sông nước
bến chiều xa khói cũng mơ hồ!

ghềnh đá ôm nhau ngọn sóng xô đùa
con nhạn trắng bay đi lặng lẽ
mùi hương lạ bỗng dưng lại nhớ
bến bờ xưa đâu còn chút dư âm!

khách trở về nơi bến đỗ trăm năm
chống sào đợi tuổi già qua mái tóc
đêm lạnh ngắt bến sông vàng trăng mọc
thuyền lênh đênh trên nỗi nhớ bập bềnh.

bến sông vắng lòng người cũng vắng
sương giăng mờ bến cũ bóng đò xưa
trăng đêm nay trăng mờ đêm nguyệt tận
gió đông về lạnh lẽo ngọn đèn khuya.

Một Đêm Thu

Mong gặp em sau bao ngày xa cách
Hai phương trời mờ mịt bóng mây giăng
Tôi nhẹ bước qua ngõ buồn hiu hắt
Đêm thu về nhớ quá một mùa trăng!

Trời chớm thu gió thu lành lạnh
Sương giăng mờ lối nhỏ bước chân khuya
Theo ngõ vắng lần về thăm xóm cũ
Bao lâu rồi, qua hết mấy mùa mưa ?

Em hỡi em
Người em bé nhỏ
Đã cùng tôi hò hẹn một đêm thu
Dưới ánh trăng khuya em tựa đầu thỏ thẻ
Anh đi rồi buồn lắm anh ơi!

Rồi ngày lại ngày qua
Tôi vẫn đi biền biệt
Ngôi làng cũ đã tràn lan bóng giặc
Người tôi yêu chờ đợi mỏi mòn

Nàng bước theo chồng trong tấc dạ héo hon
Tôi vẫn đêm đêm mắt trừng canh bóng giặc
Người em gái tôi yêu
Chưa một lần biết khóc
Thôi hết rồi người em gái tôi ơi!

Trời chớm thu lá vàng rơi trước ngõ
Tôi lại đi
Một lần nữa ra đi
Nhưng đêm nay
Không có bàn tay bé nhỏ
Cầm tay tôi bịn rịn buổi phân ly

Em hỡi em người em tôi yêu
Có bao giờ gian dối ?
Buồn trong tôi vời vợi
Khúc nhạc tình
Quấn quít mãi không thôi

Đêm nay buồn lắm em ơi
Tôi đi dưới bóng sao trời lưa thưa…

Mùa Lá Đổ

Một ngày hoa lá rơi đầy ngõ
Em trở về thăm buổi tựu trường
Tôi đã yêu em từ dạo ấy
Khi tuổi đời vừa nở nụ yêu đương

Em cũng yêu tôi từ dạo ấy
Nhưng tình vội đến vội chia xa
Em đứng nhìn tôi dòng lệ ứa
Ngăn lại làm gì giọt lệ sa!

Cổng trường khép lại cuộc yêu đương
Tôi cũng ra đi vạn nẻo buồn
Từng bước chân đi từng bước nhớ
Thôi rồi chấm hết một mùa thương!

Từ đó mỗi lần hoa lá đổ
Là mỗi lần nhớ quá cổng trường xưa
Em có biết nơi phương trời xa thẳm
Có một người lặng lẽ bước trong mưa

Em ở nơi nào em biết không
Đời tôi như chiếc lá mùa đông
Lặng lẽ bốn mùa bay theo gió
Ngăn lại làm gì ngọn bắc phong!

Rồi lại một chiều hoa lá đổ
Có người mang đến một tin vui
Tôi xem thiệp cưới mà như đã
Bóp nát tim mình cho máu rơi

Thôi rồi em hỡi vui mùa cưới
Nhớ lại làm gì chuyện trái ngang
Tôi như hoa lá rơi đầy ngõ
Chôn chặt cuộc tình đã dở dang

Từ đó đâu còn mong gặp lại
Nhưng tình quấn quít mãi không thôi
Tôi vẫn mơ về con phố nhỏ
Có một người giẵm nát trái tim tôi!

Ngày lại ngày qua tôi vẫn mơ
Mơ về phố cũ cổng trường xưa
Lặng lẽ trong tôi dòng lệ nhỏ
Cho hồn thắm đẫm một bài thơ

Em hỡi làm sao tôi quên được
Một ngày trời đất nổi phong ba
Một ngày hoa lá rơi đầy ngõ
Mỗi bước ngập ngừng mỗi bước xa…

Tri Kỷ

Đâu còn sống được bao lâu nữa
Nên chẳng còn gì để luyến lưu
Ta như chiếc lá rơi ngoài ngõ
Chiếc lá ươm vàng, chiếc lá thu

Một mai em hỡi ta về đất
Em có buồn không em hỡi em ?!
Thôi cứ để cho lòng thanh thản
Bận bịu làm gì chuyện thế gian

Ta vẫn biết đời ta là cát bụi
Rồi sẽ tan đi một sớm một chiều
Nếu có ai nhỏ dùm giọt lệ
Thì cũng chỉ là giọt lệ thôi!

Ta một đời trầm luân bể khổ
Mượn rượu giải sầu sáng xỉn chiều say
Qua bao năm sao dời vật đổi
Tay trắng vẫn còn tay trắng tay

Một mai nếu có người tri kỷ
Nhắc lại đời ta trong tiệc vui
Thì cũng chỉ là thêm men đắng
Cho nồng thêm cốc rượu vậy thôi

Đời cứ thản nhiên trôi, trôi mãi
Đâu biết chuyện gì theo phía sau
Đâu biết chuyện gì chờ phía trước
Đến lúc đụng đầu mới biết đau !

Thôi nhé hồn thơ ta đã cạn
Mạch sầu ta cũng đã nguôi ngoai
Cho ta gởi đến người tri kỷ
Một chút vui buồn, một chút thôi!…

Bến Đợi

Sông nước chiều thu gợn sóng buồn
Mây trời bảng lảng, bóng chiều buông
Thuyền em đỗ bến phương nào nhỉ?
Có nhớ quay về thăm cố hương?

Lầu nước buồn hiu đứng đợi em
Bến xưa chiều xuống phố lên đèn
Thuyền đi bỏ lại dòng sông vắng
Bỏ lại bao mùa trăng ấm êm

Chiều xuống Mường giang nước lững lờ
Mấy mùa sương khói dệt thành thơ
Màu hoa phượng thắm đâu rồi nhỉ?
Chỉ thấy hoa tàn rơi xác xơ

Thuyền đi, đi mãi không về bến
Cốc rượu giang hồ cũng ngấm say
Có biết bao mùa hoa phượng nở?
Và biết bao mùa hoa trắng bay?

Tượng đá đìu hiu đứng đợi ai
Bến xưa ngày ngắn nhớ đêm dài
Người đi – Đi mãi – Người đi biệt
Có biết trên đầu tóc lén phai?

Biển, Em Và Tôi

Biển quê tôi muôn đời ôm bóng nắng
Cồn cát nằm phơi ngực trắng quanh năm
Cũng có lúc biển vô tình dậy sóng
Mây bốn mùa theo gió núi về thăm

Em xa vắng có nhớ mùa hạ biển
Thành phố buồn vẫn đợi bước chân em
Biển Cali mỗi lần nghe sóng vỗ
Có làm em nhức nhối buồng tim?

Nhớ những lúc xôn xao mùa biển động
Lũ học trò vắng bóng những chiều hôm
Tôi và em vẫn thì thầm trong gió
Đợi đêm về nghe sóng vỗ triền miên

Em yêu dấu có bao giờ em khóc
Khi cuộc đời là hai ngả chia ly
Tôi và em xa nửa vòng trái đất
Biển mủi lòng thương kẻ ở người đi

Thôi em nhé vốn là loài chim biển
Chim vô tình cánh bạc vỗ bờ xa
Biển và tôi đã mấy lần bật khóc
Biển muôn đời vẫn dạo khúc tình ca…

Bóng Thời Gian

Hưng phế ngàn năm giấu mặt
Cổ kim luận tội anh hùng
Trái đất ngàn năm què quặt
Sao khuya rớt giữa muôn trùng

Hình nộm mặc áo long bào
Xua tay đuổi bầy ngạ quỷ
Mặt nạ ngàn năm giấu kỹ
Bùa mê rải khắp tinh cầu

Mặt đất khép kín hà đồ
Lạc hồn bùa mê thuốc lú
Ngậm ngải đi tìm quá khứ
Rừng xanh áo vải khăn sô

Tượng đá cúi mặt ngủ vùi
Hình như một lần mở mắt
Cát sỏi bầm gan tím mật
Giật mình khép vội con ngươi

Trống đồng phù điêu bỏ phế
Hưng vong tuổi đất dạy thì
Nhật nguyệt ô đề bạch thố
Lần tay tính tuổi sao Vi.

Nhớ Y Uyên

rừng chồi im phăng phắc
ta một bóng xiêu xiêu
vai trần chân bám đất
nặng một gánh đìu hiu

kẽo kịt trên đường mòn
ngõ về xa hun hút
bóng của buổi chiều tà
đuổi theo ta bén gót

ngang qua đồi Nora
ngậm ngùi bao ký ức
một sáng nào năm xưa
anh giã từ chiến cuộc

một dặm đường anh qua
bỏ sau lưng một kiếp
chiều nay ngồi trên đồi
ta nghe buồn da diết

tựa lưng gốc cây già
ngủ vùi trong mộng mị
chợt bóng anh hiện về
cùng ta ngồi uống rượu

ta cựa mình ngơ ngác
nhìn quang gánh hững hờ
con dốc dài trở giấc
thở khói chiều lưa thưa

ta lặng lẽ lên đường
mấy mùa phơi râu tóc
nhuộm trắng cả mái đầu
trong nỗi buồn se sắt

ta ngó về phương xa
từ một nơi vô định
con chim trời bay qua
ta rùng mình ớn lạnh.

Huế, Em Và Tôi

tôi đến đây giữa mùa hoa phượng nở
nên sân trường vẫn đẹp mãi trong tôi
thành phố Huế sớm mưa chiều nắng
đò sông Hương vừa ngủ vừa trôi

có những buổi hoàng hôn êm ả
tôi thẫn thờ trên bến Vân lâu
nhớ thương ai câu hò vĩ dậm
thuyền ai kia tách bến về đâu?

và những chiều mưa rơi lác đác
từng giọt buồn xé nát con tim
tôi cũng muốn làm cây phương vĩ
che mái trường và che cả vai em

em có biết ngoài kia vùng lửa đạn
ngày mai này tôi sẽ ra đi
thành phố Huế lắm mưa nhiều nắng
che dùm tôi mái tóc xuân thì

tôi ra đi không hẹn ngày trở lại
em học trò áo trắng có yên vui?
tôi cũng một thời yêm vui đèn sách
nhưng xa rồi em bé nhỏ tôi ơi!

tôi là lính với chiến trường bom đạn
em học trò với nét đẹp văn chương
em nhớ nhé, viết dùm tôi đoạn cuối
với cuộc tình, tôi một thuở yêu đương!

Đường Vắng

ta ngồi trên lưng ngựa
mang kiếm sét giầy cùn
gõ nhịp trên đường vắng
bóng chiều bay mông lung

lũ quạ xòe cánh mỏng
lượn quanh bờ chiến hào
quạ kêu vang rừng núi
còn tanh mùi binh đao

rừng giáp rừng hiu quạnh
ta hát bài sơn ca
núi rừng vang tiếng vọng
chim giật mình bay xa

cũng bày trò chiến quốc
cũng hợp tung liên hoành
bủa vây trùm trời đất
trò chơi còn mới toanh

con ngựa già đuối sức
ta thấy lòng quặn đau
con ngựa già ngã gục
ta nát cả tâm bào

ta lột giầy vứt kiếm
ném mũ cởi chiến bào
một mình trên đường vắng
ta và ta dìu nhau

ta cười vang cười ngất
bầu rượu cạn từ lâu
bỗng dưng ta muốn khóc
khóc đến tận ngàn sau.

Ông Lão

Lọm khọm bước lần theo lối nhỏ
Ra ngồi trước cửa nớt sinh hôm
Ông lão nhớ một thời trai trẻ
Mộng đời ươm kín bờ môi thơm

Có những đêm chợp chờn trong mộng
Ông lão mơ về một chốn xa
Nơi những chiều ngồi bên quán cóc
Giữa phố phường đông đúc người qua

Ông lão nhớ Sài Gòn mưa rào
Nhớ cô gái xẩm che dù màu
Nhớ hàng cây che nghiêng bóng nắng
Nhớ nụ hôn đầu lặng lẽ cho nhau

Ông lão buồn sờ râu sờ tóc
Mân mê vạt áo chùng xanh lơ
Một chút lệ buồn trên khóe mắt
Âm thầm lăn xuống bờ môi khô

Ông lão biết đời là bể khổ
Nên thấy buồn mà chẳng chút bâng khuâng
Ông nhớ quá Sài Gòn một thuở
Đôi mắt buồn rướm lệ ngó phương Đông…

Mùa Gió Bấc

mây trắng đùn quanh đỉnh núi Ông
gió mùa đông bắc thổi buồn không?
Đồng khô một dải mù sương khói
ta đứng nhìn quanh chợt chạnh lòng

kìa hãy nhìn xem ngọn Xã Thô
muôn đời một bóng đứng bơ vơ
đã biết bao lần mây trắng phủ
và biết bao mùa gội gió mưa

chiều xuống ra đồi dương hóng mát
ghé vào quán gió uống bia hơi
hởi ơi! ngọn gió mùa đông bắc
đã bao lần xé nát hồn tôi

nôn nao ít bữa vui mùa tết
gió bấc thổi về gió tháng hai
bụi cuốn mịt mù con lốc xoáy
trong âm vang nghe từng tiếng thở dài

rời Phan Thiết còn nghe nhung nhớ
cái buổi chia tay cũng nặng lòng
sông Mường Mán ba chìm bảy nổi
mấy ai quên dù chỉ ghé một lần.

Sau Một Đêm Say

sáng thức dậy bỗng thấy mình lạ hoắc
sau một đêm trằn trọc giữa cơn say
đầu thì nặng như ngàn cân treo sợi tóc
mà hồn thì nhẹ hều như gió như mây

bước ra cửa thấy một ngày đổi mới
bầu trời cao và những đám mây bay
con chim khách đậu trên bờ giậu đổ
mà bìm đâu đã phủ kín bao ngày

châm điếu thuốc khói tảng lờ theo gió
mà còn nghe đâu đó chút hương thừa
ta lục lạo trong từng ngăn ký ức
chợt thấy mình cũng lạ hoắc lạ huơ

sờ râu tóc, râu thì dài tóc ngắn
tóc le the từng sợi bạc trên đầu
râu thì phủ năm chòm dài suôn đuột
che nụ cười vừa chết đứng trên môi

nhìn quanh quất như cố tìm đâu đó
một chút gì để nhớ để quên
nhớ thì dễ mà muốn quên thì khó
em đi rồi để lại chút lênh đênh.

Khóc Tây Thi

Mịt mùng đất Việt, trời Ngô
Lệ giai nhân chảy mờ Cô Tô đài
Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai
Ngùi trông cố quốc mơ ngày hồi hương

Chạnh lòng nhau lắm Ngô Vương
Dặm hồng một buổi đoạn trường chia xa
Ngẩn ngơ ta lại nhìn ta
Đất trời mù khói can qua lạnh lùng

Bao năm cá chậu chim lồng
Chôn vùi nhan sắc, nghìn tâm sự buồn
Hồng nhan nhi nữ tình trường
Làm thân con quốc kêu sương được gì

Nghìn sau ai khóc Tây Thi
Cho ta góp một chút gì cho nhau
Lựa lời nói với gươm đao
Đừng đem máu lệ nhỏ vào thiên thu.

Gởi Cho Em

Tháng ngày trôi như bóng câu cửa sổ
Sao em còn giữ mãi không buông?
Sao không để cho lòng thanh thản
Nhẹ nhàng bay như khói hoàng hôn.

Mời em cùng ta ra bãi biển
Nhìn xa khơi bằng ánh mắt hiền hòa
Em sẽ thấy biển trời bát ngát
Và lòng mình cũng rộng rãi bao la.

Mời em qua Châu Phi, Châu Á
Để tận mắt nhìn nỗi khổ trần gian
Để em thấy mình vô cùng hạnh phúc
Vì chúng ta đang sống giữa Thiên đàng.

Em có thấy từng năm, từng tháng
Êm đềm trôi như bóng chiều qua
Tôi và em, hai xác người chưa chết
Thì cần gì lặn hụp giữa phong ba…

Cứ để cho mặt trời buổi sáng
Và buổi chiều mọc, lặn hồn nhiên
Em đã biết thế gian là cõi tạm
Sao còn chưa buông hết não phiền?

Hôm qua chúng ta mừng năm mới
Hình như em có chút mủi lòng
Ta cũng biết dù năm cùng tháng tận
Cũng chỉ là nhịp thở của hư không.

Gởi Người Phương Xa

Cho dù không gian ảo
Cũng đủ để yêu đời
Cũng thường đêm mơ thấy
Một bóng người xa xôi

Sài Gòn xa vạn dặm
Nhịp cầu nào đủ dài
Nối hai bờ nhung nhớ
Nối hai bờ đông tây

Đêm thường đêm mơ mộng
Vơ vẫn ngoài chân mây
Những vần thơ êm ả
Rót vào lòng đêm say

Nắng giữa chiều Dallas
Sao lạnh buốt tâm hồn
Cho xin một đóm lửa
Về sưởi ấm hoàng hôn

Bài thơ không đoạn kết
Gởi cho người xa xôi
Như đôi vầng nhật nguyệt
Như những vầng mây trôi…

Hoàng Hôn Trên Bến Nước

Rồi một chiều lá vàng rơi lác đác
Em ra đi bỏ lại chút tình xưa
Tôi vẫn đứng giữa dòng sông bát ngát
Chiều lại chiều trôi mãi giữa hư vô

Vầng nhật nguyệt có mong ngày gặp lại
Từ trăm năm chờ biết đến bao giờ
Con nước lớn đã xuôi về biển cả
Dòng sông ơi có thấm lạnh đôi bờ

Chiều xuống thấp mây trời trôi lãng đãng
Trôi về đâu em có biết không em
Tôi lận đận một đời không bến đỗ
Ngày cuối ngày lặng lẽ bước qua đêm

Nhìn khói sóng hoàng hôn bay lảo đảo
Tôi đã say và em đã ra đi
Tôi và em hai phương trời cách biệt
Em cạn tình tôi cũng cạn ly

Mượn men rượu cho vơi niềm tâm sự
Dốc Hồ Trường cho cạn chén ly tao
Giai nhân hề! Rượu hề! Say túy lúy
Khi say rồi ngày tháng cũng quên mau.

Một Chuyến Đi Xa

Ta đi Sài Gòn đã vào thu
Gió cuộn mây về mộng viễn du
Quê cũ bao năm đành bỏ lại
Một cõi trời Nam bổng biệt mù

Ta đi người ấy có buồn không?
Chân trời góc bể còn gì mong
Một ngày trở lại thăm làng cũ
Có ngọn dừa xanh giọt nắng hồng

Ta đi không giả từ bè bạn
Không kịp hẹn hò lúc biệt ly
Ngoảnh lại nhìn em đôi khóe mắt
Đỏ dần theo mỗi bước người đi

Ta đi về phía chân trời đó
Lờ lững trên mây chiều hoang vu
Bangkok! Bangkok! chiều Bangkok!
Sao quá lạnh lùng ngọn gió thu

Ta đi, ta đã đi rồi nhỉ?
Không biết nên buồn hay nên vui?
Phố phường Bangkok đông người quá
Ngoảnh lại nhìn quê bỗng ngậm nguồi.

Khóc Nguyễn Tôn Nhan

Mới ngày nào
Ở Đất Phương Nam
Vui thật vui
Bốn thằng ngồi tán dóc
Chuyện văn chương
Chuyện giang hồ
Ngang dọc
Vui thật vui
Mi hỡi Nguyễn Tôn Nhan!

Sao hôm nay
Mi vội vã lìa đàn
Tao sửng sốt
Thương mày
Muốn rơi nước mắt
Ở bên này
Xa mi nửa vòng trái đất
Chỉ cầu xin
Mi thanh thản lên đường
Về cõi vĩnh hằng
Nơi không có tai ương
Không phiền não
Không bon chen
Như hạ giới

Tụi tao
Những thằng
Còn ở lại
Thương mày quá đỗi
Nguyễn Tôn Nhan!
Thôi từ đây
Thi hữu
Thi Đàn
Thiếu một thằng
Tài hoa hết mức
Thôi Nhan ơi!
Tao thực tình
Muốn khóc
Tiễn mày đi
Mi hỡi Nguyễn Tôn Nhan!

Lục Bát Ba Câu

1.
Mơ màng gặp Lỗ Trí Thâm
Lưng đeo bầu rượu về thăm nhà thiền
Dọc đường chó sủa như điên!

2.
Hình như trái đất này tròn
Cho nên ta với em còn gặp nhau
Thì mình làm lại chớ sao!

3.
Hay là có tật giật mình
Hay là có kẻ đang rình đâu đây
Ôi chao chết chắc trận này!

4.
Nghĩ ra cũng thật nhiệm mầu
Hôm nay ta lại dấu đầu lòi đuôi
Thôi đành kiếm chỗ nào chui!

5.
Chiều buồn xạo xạo vô mall
Kiếm đàn bà đẹp… chào cho đỡ ghiền
Bà nào cũng tưởng mình điên!

6.
Ta là hạt bụi cù bơ
Một đời cù bấc, làm thơ cù nhầy
Vậy mà nhỏ cũng khen hay!

7.
Long môn lỡ đút đầu vào
Quậy cho nổi trận ba đào mới cam
Quá nhi, cô tưởng em làm!

8.
Dã tràng xe cát biển đông
Đụng con sóng dữ thành Công Dã Tràng
Vậy mà cũng khoái bò ngang!

9.
Đỉnh non ông một mình ngồi
Lật trang kinh tự còn đôi ba vần
Sẩy tay rớt xuống hồng trần!

10.
Hành tăng một buổi độ đường
Còng lưng cõng cái vô thường sang sông
Chắc gì sắc tất thị không!

11.
Chân trời nào có bao xa
Mà lão Tề lộn đến ba bốn vòng
Mới hay mình lọt vào tròng!

12.
Buồn tình đốt lửa đêm mưa
Hong khô ký ức còn chưa khô tình
Giữa đêm ngồi khọn một mình!

Lục Bát Bốn Câu

1.
Quanh ta trời đất chuyển mùa
Gió đêm thu lén về khua lá vàng
Sông buồn vắng chiếc đò ngang
Hóa ra cuộc rượu đã tàn từ lâu!

2.
Ngồi nhìn con sóng vỗ bờ
Hồn ta dường cũng dật dờ phiêu du
Dáng em chừ đã biệt mù
Còn ta thì vẫn ngồi ru giấc chiều!

3.
Vầng trăng khuya sắp lặn rồi
Ta như cành lá một đời xác xơ
Lòng ta sao cũng mù mờ
Biết đâu người ấy còn chờ bên kia!…

4.
Trời xanh mây trắng mơ màng
Bóng em chìm khuất giữa ngàn dặm xa
Mấy mùa sương khói trôi qua
Chắc em chừ cũng đã già như tôi!…

5.
Cánh hồng nhụy trắng tinh anh
Có con bướm trắng vờn quanh mấy vòng
Chiều nay trời sắp mưa giông
Sao con bướm trắng còn không thấy về?!

6.
Bóng chiều ngã xuống sông tương
Thuyền em rẽ bến về phương trời nào?
Sông buồn sóng gợn lao xao
Và ta sóng cũng dạt dào trong tim!

7.
Chán chường phố thị đèn hoa
Rủ em lên núi ngắm tà huy rơi
Quanh ta chỉ có đất trời
Và em và những nụ cười hồn nhiên.

8.
Em về phố xá reo cười
Tưởng đâu em đã thành người phương xa
Nhớ mùa mận mới đơm hoa
Em quên cài cổng… bị ta cầm nhầm!…

9.
Mây che nửa mảnh trăng tròn
Ngàn năm sau biết có còn ta không?
Nhớ thương em bậu khóc ròng
Chân trời cố quận hết mong ngày về…

10.
Một đời gỗ đá rong rêu
Sóng tình chìm lắng giữa chiều hoang vu
Cạo đầu lên núi đi tu
Ủa sao tình vẫn rối bù trong tim?!…

11.
Ngàn hoa tím nở giữa trời
Lòng ta cũng tím giữa đời phù hư
Nhạc lòng dạo khúc tương tư
Tái tê cung bậc, nát nhừ ruột gan.

12.
Vầng dương thoi thóp bên đồi
Tình ta cũng chết từ hồi sơ sinh
Em như con bóng theo hình
Đuổi ta suốt cuộc hành trình về xuôi…

13.
Sương giăng mù mịt đất trời
Ta con đò nhỏ một đời lênh đênh
Vượt bao sông nước bồng bềnh
Tóc râu đã bạc còn quên ngày về!…

14.
Mịt mùng sương phủ đâu non
Nửa khuya một mảnh trăng tròn lẳng lơ
Lòng ta dường cũng mù mờ?
Bóng người đã khuất còn mơ nỗi gì!

15.
Đèn đêm soi bóng sông dài
Tóc mây từng sợi lén phai trên đầu
Sông còn chưa biết nông sâu
Ủa sao em biết kiếp sau làm người?!…

16.
Bóng chiều ngả xuống chân mây
Hoàng hôn nhẹ bước từ ngày sang đêm
Quanh ta trời nước im lìm
Và em chừ cũng đã chìm trong mơ…

17.
Tà dương chìm khuất trong mây
Và em cũng khuất giữa ngày tàn rơi
Biển tình lai láng trong tôi
Tái tê mấy khúc nhạc đời phù hư…

Bên Khe Suối Nhỏ

Hiền như
con nước cuối mùa
Re re chảy giữa
Đôi bờ quạnh hiu
Ta ngồi ngó đám rong rêu
Mà nghe mình
Cũng ít nhiều đắng cay
Như con suối nhỏ nhoi này
Hai mùa mưa nắng
Chợt đầy chợt vơi
May còn
Đôi chút thảnh thơi
Ngồi đây mà ngó
Đất trời vu vơ.

Bến Chiều

Tàn thu
con nước lờ đờ
Tôi mê muội
bước qua bờ tử sinh
Con đường
vàng úa sau lưng
Còn năm bảy đứa
lừng khừng theo sau

Chiếc cầu duyên
gãy từ lâu
Bến sông này
vốn có đầu không đuôi
Con thuyền bát nhã
ngược xuôi
Rước thêm đôi đứa
và tôi lên bờ

Ngoảnh nhìn lại
phía bên kia
Thấy còn ba tỷ
người chờ qua sông
Tôi đi về
cõi phiêu bồng
Sau lưng
bỏ lại một vòng hư vô…

Giọt Mưa Trong Đời

Chiều nay gió cuốn mây trôi
Tiễn anh mưa giăng đầy trời
Bồi hồi tim em rét buốt
Tiễn anh buồn lắm anh ơi!

Chiều nay gió cuốn mây trôi
Tiễn anh mưa giăng đầy trời
Lệ sầu hoen trên khóe mắt
Tiễn anh buồn đến chơi vơi

Anh ơi em trở về
Lòng buồn hắt hiu não nề
Đường chiều mưa giăng kín lối
Bước chân buồn kéo lê thê

Anh ơi! mùa thu đã chết
Lệ sầu ướt thấm đôi mi
Lạnh lùng bên em gối chiếc
Nghe thương từng bước anh đi

Đèn khuya leo lét bên nôi
Ru con, em ru bồi hồi
Ngoài hiên mưa rơi tí tách
Nhớ anh lệ thấm trên môi.

Hoa Thời Gian

Lăng xăng gần hết một đời
Như con lật đật đứng ngồi không yên
Một hôm chợt thấy ngoài hiên
Cánh phù dung vẫn còn nguyên trên cành

Chiều hôm sóng vỗ mơ màng
Nhấp nhô bến cũ nhịp nhàng bờ xưa
Ta ngồi đợi mấy mùa mưa
Mà nụ hôn vẫn còn chưa nẩy mầm

Lênh đênh chiếc lá giữa dòng
Theo con nước lớn nước ròng về xuôi
Ta ngồi tiếc mãi khôn nguôi
Nghĩ thương chiếc lá vàng rơi cuối mùa

Cồn lau chiều gió đong đưa
Đôi bờ bên nắng bên mưa cũng buồn
Dắt nhau về lại cội nguồn
Nằm nghe tiếng trống vô thường điểm canh.

Giấc Mộng Cuối Đời

ta sẽ dựng một chòi tranh nho nhỏ
bên cạnh dòng suối nước chảy êm êm
ta sẽ rủ một vài thằng bợm nhậu
đến cùng ta bày tiệc rượu thâu đêm

ta sẽ bẫy vài con chồn, con thỏ
đợi cuối tuần ướp sả ớt xào lăn
đám bạn bè còn đứa nào chết dở
hãy về đây cùng uống rượu ngắm trăng

ta sẽ vào tận rừng sâu, núi thẳm
bới rễ cây mà tìm thuốc trường sinh
khi buồn chán thì giả làm hảo hớn
chém cây rừng mà dựng trại Lương Sơn

ta sẽ tạc tượng em trên đỉnh núi
mượn mây ngàn dệt nốt mảnh xiêm y
và sẽ mượn sao trời đêm lấp lánh
kết thành xâu chuỗi ngọc lưu ly

cho em lộng lẫy trên ngôi Hoàng Hậu
và ta sẽ là một Quân Vương
sẽ diễn nốt vở tuồng thiên cổ
rồi trở về cùng cát bụi, mù sương!

Đêm Hội Ngộ

(Tăng các bạn trong đêm
họp mặt ở nhà Phạm Văn Nhàn)

bao năm tan tác biển dâu
cũng may còn gặp lại nhau xứ người
nhìn nhau dở khóc dở cười
loay hoay mà cũng đã mười mấy năm!
thằng nào tóc cũng hoa râm
thằng nào mắt cũng xa xăm muôn trùng
lượng đời còn chút bao dung
thôi thì rượu đó ta cùng nâng ly
rồi đây kẻ ơ, người đi
đường mây, nẻo gió chắc gì gặp nhau…

Dòng Đời Mong Manh

Chiều buồn ra hiên ngồi khọn (1)
Mắt mờ chẳng thấy được xa
Chỉ thấy con ruồi con muỗi
Đánh mùi bu lại quanh ta

Ngày vui từ lâu đã mất
Tang thương nhuộm trắng mái đầu
Giọt buồn trên môi và mắt
Đọng nhiều thì rớt vậy thôi!

Hắt hiu hai mùa nóng lạnh
Nghe buồn khô héo thịt da
Mặc tình cho mưa và nắng
Cuộc đời cứ thản nhiên qua

Gió sương lạnh hồn phiêu lãng
Mưa buồn giăng kín tâm tư
Một đời trầm luân bể khổ
Mộng còn chưa biết thực hư!

Biển nổi phong ba, biển động
Đất trời dường cũng ngửa nghiêng
Lạ gì trăng tròn trăng khuyết
Thương hải biến vi tang điền

Một ngày trôi qua lặng lẽ
Bóng chiều thở khói mong manh
Tóc xanh thương màu tóc trắng
Dòng đời một thoáng qua nhanh
————————
(1) Quê tôi thường gọi con khỉ là con khọn.

Đêm Noel

Đêm Noel ta ngồi như tượng đất
Lạnh ngoài trời lạnh cả trong tim
Chuông giáo đường buồn hơn tiếng nấc
Đêm thánh vô cùng, đêm thánh bình yên.

Đêm huyền diệu lung linh màu tuyết trắng
Buồn không em, lời sám hối ăn năn
Ta một đời lang thang cùng mộng mị
Chừ ngồi đây lòng bỗng thấy băn khoăn!

Xin cho ta một vòng tay ấm áp
Ôm vào lòng giấc ngủ bình yên
Sao đêm nay ta nghe lòng bối rối…
Ngồi bên em, em ngoan đạo, em hiền

Đêm Noel chuông giáo đường rộn rã
Em thẹn thùng như bé tuổi đôi mươi
Ta cũng thây lòng lâng lâng khó tả…
Ngồi bên em nghe ấm áp tình người!

Chào Thua

Chập chờn
nửa tỉnh
nửa say
Nửa yên phận bạc
nửa cây cú đời
Theo em suốt mấy năm trời
Chưa nghe em nói một lời yêu ta!

Biết em
nửa chính
nửa tà
Nửa nâng niu
nửa chà đạp nhau
Than trời
trách đất được sao?
Thôi đành
ngả mũ cúi đầu chào thua!

Texas Buồn

mắc võng dưới tàn cây
ngủ vùi trên thế sự
bãi bể nương dâu
sáu mươi năm
mấy mùa lữ thứ
người lính già
gạt nước mắt đêm thâu.
khóc ải Nam Quan
khóc mũi Cà Mau
những mùa thu đi
gót chân rướm máu
điệu kèn tiến quân
tiếng thét gầm ma quái
trong rừng sâu
bãi bể
thị thành
chiếc boncho
gói xác người tình
thương quá đỗi
ta bỗng thèm cốc rượu…
mùa thu này
cũng dưới tàn cây cổ thụ
cũng có lá vàng rơi
nhưng không có anh
để choàng vai tâm sự
không có em
để ta ngồi uống rượu
tang thương hề
ôi! cõi nhân sinh…
bỗng nghe đâu đó
điệu nhạc điên cuồng
trong cõi vô minh
vũ trường
hay mộ huyệt
dưới ánh đèn mờ nhạt
em đang ca hay em đang gào thét
bước chân em loạn cuồng
cốc rượu và ta cùng nhau giẫy chết
giai nhân hề! Rượu hề!
ta giật mình
tỉnh giấc!
mùa thu qua
không còn lá vàng rơi lác đác
cây cổ thụ trơ cành
bầu trời xám ngắt
đàn chim thiên di
về đây
từ phương bắc
trên thành phố Houston
trên bầu trời Dallas
Texas buồn
Texas đã vào đông!

Núi Rừng Và Tôi

chiều ở đây thật buồn
mây đùn quanh tám hướng
thung lũng dày sương mù
tôi ngồi nghe gió hú

lão tiều phu đốn rừng
nghe đau từng nhát búa
có con chim lạc đàn
soãi cánh chiều qua núi

rừng ngàn năm vẫn buồn
chôn sâu niềm u uẩn
người ngàn năm vẫn còn
đi trong vòng lẫn quẩn…

rừng ngàn năm còn đó
tôi trăm năm còn đây
rừng lắc lay theo gió
tôi nhìn mưa thu bay

mưa thì thầm trên lá…
tôi thì thầm với ai?!

Nhớ Núi

mưa đâu buồn thảm sụt sùi
gõ trên mái lá ngậm ngùi tiếng thu
gió ngoài hiên thổi vi vu
võng đưa nhịp võng lời ru điệu buồn
nước đi nuớc lại về nguồn
chim trời mỏi cánh nhớ thương lại về

Cũng Đâu Muộn Màng

lìa nhau từ cõi vô sinh
trong cơn mê loạn giật mình nhớ nhau
dặm ngàn hun hút vó câu
ba ngàn thế giới còn đâu chưa tìm
hay là em ở trong tim
còn ta thì mãi đi tìm vu vơ
đường còn xa lắc xa lơ
mà ta thì đã mệt phờ tóc râu
ừ, thì cũng gắng chờ nhau
một ngàn năm nữa cũng đâu muộn màng!…

Trận Mưa Đầu Mùa

đêm nằm nghe tiếng ếch kêu
râm ran giữa chốn đìu hiu núi rừng
đôi bờ mắt chợt rưng rưng
lời thơ buồn cũng ngập ngừng trên môi
chợp chờn trong cõi đầy vơi
như con nước lững lờ trôi giữa dòng
trong cơn chìn nổi phiêu bồng
tôi mơ về lại cõi hồng hoang xưa.

Lầu Hoàng Hạc (*)

người xưa cỡi hạc vàng bay
lầu còn trơ bóng đất này buồn hiu
người đi rồi, có về đâu!
chỉ còn mây trắng trên đầu lang thang
cội già soi bóng Hán Dương
bãi Anh Vũ cỏ ngát hương bên dòng
quê nhà đâu nhĩ? Ngùi trông…
chiều nhìn khói sóng, nghe lòng quặn đau!

(*) Phỏng dịch bài thơ Hoàng Hạc Lâu
của Thôi Hạo, đời Đường

(Hoàng Hạc Lâu)
Thôi Hạo

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Như Qua Sông Dịch

mưa chiều ghé quán ngồi nghe nhạc
quán vắng nhạc buồn sầu miên man:
“ai lướt đi ngoài sương gió
không dừng chân đến em bẽ bàng…”(*)

guốc ai gõ nhịp trên hè vắng
từng bước rơi đều qua lối mơ
nửa chiều vàng vọt mưa và nắng
ta nghe chừng đâu đó một hơi thơ

cô bé ơi châm giùm ta điếu thuốc
cho cõi lòng bớt lạnh lúc chia xa
ta cũng muốn ngồi đây cho hết kiếp
ngặt đường đời thì rộng đến bao la

ta bỏ đi giữa trời mưa gió
từng giọt rơi buồn trên bến sông
như tráng sĩ một lần qua sông Dịch
biết có còn trở lại hay không?

bến sông vắng lòng người cũng vắng
khách giang hồ chọn kiếp phù vân
cô lái ơi ! chở giùm ta qua đó
nơi cuối trời nơi cuối nẻo bâng khuâng!

(*) Văn Cao

Mười Năm Nợ Nần

chiều nghe loáng thoáng màu thu
lá xanh níu
lá vàng đu trên cành
ta ngồi tiếc lá màu xanh
nhớ xưa trót lỡ tành hanh với người
ruột gan bày hết ra ngoài
nợ nần nhau biết có đòi được không?
giữa trời
giữa đất mênh mông
giữa ta
em vẫn còn trong tâm hành
giữa ta
còn chút bàng hoàng
giữa em
còn chút lỡ làng duyên xưa
giữa đời
còn chút mộng mơ
rớt trên nỗi nhớ ta vừa mới nhen
giữa đêm
lẳng lặng trước đèn
giữa đêm
lẳng lặng hồn len vào hồn
mười năm
trời!
nợ vẫn còn
mười năm
ta đã thấm đòn rồi em!

Đò Sông Hương

lang thang
chiều phố đông người
mím môi
nén một nụ cười xót xa
cầu Gia Hội
chợ Đông Ba
phố quen
người lạ
chiều qua lạnh lùng

mưa còn rơi
buốt dòng sông
lênh đênh
một chiếc đò không mái chèo
đò em
tôi lén gieo neo
giữa khoang
một chiếc đèn leo lét buồn.

Mái Tóc

thôi đừng soi nữa lược gương
thôi đừng rẽ nữa con đường phù du
đẹp như con nước mùa thu
trăm năm rồi cũng rối bù em ơi!

Bướm Trắng

em về gió lộng tóc bay
mùa hoa vàng mộng nở đầy lối xưa
dáng gầy tà áo đong đưa
giọt sương chiều muộn cũng vừa vỡ tan

dòng êm, con nước mơ màng
gió lay bờ mộng, hai hàng liễu buông
sắc trời nhuộm đỏ chiều hôm
trắng hoa bờ giậu cánh chuồn chuồn bay

em về có ở lại đây?
tôi gieo mộng giữa ban ngày mà vui
ra ngồi giữa đám vòi voi
trắng hoa, trắng cả lòng tôi giữa trời

em về rồi lại đi thôi!
bỏ sau lưng một vành môi hững hờ
tôi ngồi dệt nốt bài thơ
hóa con bướm trắng nằm mơ ban ngày!

Bài Ca Dao Chiều

dặm ngàn sông núi ngẩn ngơ
đường quanh mấy nẻo chiều trơ bóng tà
chập chờn giữa đỉnh đồi xa
khói in mấy nóc chòi pha sắc buồn
nắng chiều thoi thóp bên hiên
gió ru nhẹ cánh con chiền chiện bay
véo von giữa đất trời này
biết đâu rồi cũng một ngày chia xa.

Một Kiếp Luân Hồi

ngỡ ngàng tôi gặp lại tôi
cái thời khát sữa nằm nôi đái dầm
vạch đường sinh tử trăm năm
nắng chưa kịp ráo chỗ nằm nhân gian (*)
tình thì chưa hợp đã tan
còn khơi nước mắt cho tràn bờ mi
“ta và em đã quên đi
cái mùa thu chết từ khi trăng tà” (*)
buồn vì ngày tháng mau qua
mà đường thì vẫn còn xa ngút ngàn
bình rượu bể, đống tro tàn
địa ngục nằm dưới, thiên đàng nằm trên
ta nằm ở giữa chênh vênh…

(*) Ý Thơ Trần Yên Thảo

Bóng Tà Huy

chán chường
phố thị đèn hoa
rủ em lên núi
ngắm
tà huy rơi
quanh ta chỉ có
đất trời
và em
và những nụ cười
hồn nhiên

nắng chiều
ngã xuống vai em
Hoàng hôn chấp chới
bên triền núi xa
Nghe từng sớ thịt làn da
ngất ngây
trong bóng chiều tà huy rơi.

Một Chuyến Lênh đênh

một dạo ta về thăm cố xứ
buồn vui
khó giải nỗi niềm
khi ra đi
mọi thứ đều quen
ngày trở về
thấy gì cũng lạ
bạn bè ta
mỗi người một ngả
lòng ta
luống những bồi hồi
hai mươi năm qua rồi
từ khi
xa rời tổ quốc
hai mươi năm
luân lạc
đất khách
quê người
cũng lắm buồn vui!
ở xứ này
dù nghèo rớt mồng tơi
cũng áo quần
xênh xang
đi xe bốn bánh
dù ở nhà thuê
cũng có máy điều hòa
hai mùa nóng lạnh
con cái học hành
cũng đỗ đạt như ai
nhưng sao
ta vẫn thấy không vui
có khi
lại buồn da diết

ngày ta về phan thiết
cha mẹ ta
từ lâu đã chết
anh em ta
kẻ mất
người còn
đám bạn bè
có đứa giàu sang
có đứa nghèo mạt rệp
cũng có đứa
làm cai làm xếp
quên mất bạn bè
sống chết năm xưa
quên những ngày
dãi nắng dầm mưa
trong trại tù
chia nhau từng điếu thuốc!

ta trở lại sài gòn
một chiều nắng tắt
cảnh phồn hoa
che khuất nỗi nhọc nhằn
của những người
từng bữa chạy ăn
dăm ký gạo
nai lưng cày suốt tháng
ta từ giã sài gòn
một sáng
hai mươi giờ
lơ lửng giữa trời mây
dallas đây rồi
nơi vay trả, trả vây
biết bao giờ
nợ nần mới dứt
ở xứ này
kim đồng hồ
quay nhanh chóng mặt
hơn nửa đời trả nợ áo cơm…
con cháu đầy đàn
vẫn ở nursing home
nên lắm lúc
cũng nghe buồn thê thiết
trần gian ơi
ta trả mi một kiếp
cuộc rong chơi ta đã thấy mỏi mòn

Ông Lão Vô Gia Cư

đêm đông lạnh
gió từ phương bắc
thổi từng cơn cắt thịt xé da
thành phố lên đèn
phố thị phồn hoa
nào ai biết
dưới gầm cầu xa lộ
một cụ già co ro
trong tấm chăn rệu rã
gió rít từng cơn
bóng đêm mù mịt
một đêm đông
nối tiếp một đêm đông
ông lão già nua
tuổi tác chất chồng
trên vai gánh
một trời bất hạnh.

mặt trời lên
ánh bình minh lắp lánh
tỏa muôn màu
muôn vẻ
muôn hương
ông lão già nua
chống gậy lên đường
một ngày mới
trong nhọc nhằn thống khổ.

cuối năm ấy
cụ già không còn nữa
ngả tư đường
xe cộ vẫn ngược xuôi
ông lão ra đi
như con nước
cuối mùa
xuôi về biển
không có ngày trở lại.

trời vào đông
ta nghe lòng ái ngại
còn bao nhiêu nữa
kẻ không nhà?
dưới gầm cầu
nghe từng chiếc xe qua
rồi bỏ đi trong âm thầm lặng lẽ…

Duyên Kiếp

bốn mùa
xuân
hạ
thu
đông
nối đuôi nhau
vẽ
một vòng
hiền khô
bốn ngàn năm
đội
nắng mưa
mà sao vẫn thấy
mình
chưa hề già (!)

tìm em
khắp cõi ta bà
nợ nần
kiếp trước
hay là
duyên sau?
ừ thì
cũng rán
chờ nhau
một ngàn năm nữa
cũng đâu
muộn màng (!)

Tàn Đêm Gối Mộng

em hỡi mùa thu sắp sửa về
bên trời lãng đãng bóng sao khuya
đèn ai khuya khắt soi đầu ngõ
dưới bóng trăng tàn treo lửng lơ

đêm đã vơi dần sương thấm vai
nghe mềm môi lạnh lúc chia phôi
nghe từng hơi thở qua làn tóc
thổn thức đôi dòng lệ thấm môi

em hỡi vầng trăng sắp lặn rồi
chuông chùa nức nở buổi chia phôi
ngày mai em hỡi trong làn tóc
hơi thở nào qua phút lả lơi

tôi sẽ mang theo chút khói sương
thả vào trong gió buổi hoàng hôn
cho ngàn hoa thấm vào trong mộng
để đón đêm về vui phấn hương

tôi sẽ ra đi tận cuối trời
tìm trong gió lộng cánh sao rơi
cài lên sóng nước xanh màu mắt
cho mộng tan dần ra biển khơi.

Mẩu Thuốc Cuối Cùng

Vất mẩu thuốc cuối ngày
Mà lòng buồn rười rượi
Ngày hôm nay
Hay ngày mai rồi cũng vậy
Cũng mông manh
Như giọt sương chiều
Cũng nhịp nhàng
Những bước đìu hiu
Theo ngõ vắng
Về nơi vô định
Có những lúc
Say mèm chợt tỉnh
Đời quanh ta
Cuộc sống dửng dưng
Như con chim
Giữa núi giữa rừng
Cất giọng hát
Bài ca vô lượng
Vất mẩu thuốc cuối ngày
Trên dòng đời vô định
Như con nước
Bốn mùa không biết đâu bờ bến
Mênh mông…
Mênh mông…

Người ở quanh đây
Xin người hãy lại gần
Xem con sóc
Chuyền trên bờ giậu
Xem điếu thuốc
Chiều nay chưa kịp giấu
Bàn tay run
Ấm lạnh đời thường
Thương người xưa
Dốc cạn hồ trường
Mà bốn biển năm châu mờ mịt
Sông núi ngàn năm
Bỗng giật mình tỉnh giấc
Gởi hồn oan theo gió về xuôi

Con chim non
Cất tiếng ngậm ngùi
Sương đầu núi
Bay về lãng đãng
Rồi ngày mai
Ta lại gặp ta buổi sáng
Và buổi chiều
Và điếu thuốc trên tay
Đốt tương lai
Cháy lụn từng ngày
Thương mái tóc hắt hiu từng sợi rụng

Ta muốn hỏi
Vì sao cuộc sống
Vẫn thản nhiên
Như dòng nước trôi nhanh
Như buổi chiều
Khi có nắng vàng hanh
Như con sóc
Vẫn chuyền trên bờ giậu
Như chiều nay
Ta nghe lòng bối rối
Và mẩu thuốc cuối cùng
Đã tắt giữa bờ môi.

Trời Cuối Thu

Buổi sáng đứng nhìn người qua lại
Người thương, người ghét, người chưa quen
Nhưng thế gian đâu có người nào đáng ghét
Nên ta thấy người nào cũng dễ thương

Ta đứng chờ em buổi sáng
Và buổi chiều và buổi tối để… chào em !
Nhưng hôm nay sao em không đến?
Để con đường nhớ quá một người thương

Ta đứng chờ em như một tượng đồng
Đôi mắt nhìn quanh một nét buồn
Có ngọn gió vờn qua mái tóc
Một chiếc lá vàng rơi xuống hoàng hôn

Ta nghe đâu đó lời cầu nguyện
Giữa mênh mông một tiếng thở dài
Trời cuối thu vàng trên khóm lá
Khóm lá vàng, khóm lá tàn phai!…

Con Chim Và Tôi

buổi sáng
trên cành
có con chim đứng hót
nó nhìn quanh
tìm hướng bay xa
nhưng nó vẫn
đứng nhìn ngơ ngác
nó quên rồi
những cánh rừng xưa!

ta đứng nhìn chim
trong chốc lát
chợt thấy mình
quá đỗi cô đơn
ta cũng biết
bên kia bờ biển lớn
một chỗ về
chìm khuất giữa màn sương

ta cũng như chim
mỗi sáng
đứng nhìn quanh
cho thỏa chí tang bồng
nhưng ta không là
con chim buổi sáng
ta chỉ là thằng giá áo túi cơm!…

Độc Ẩm

Này bằng hữu
Đêm nay
Ta uống rượu
Uống một mình
Dưới ánh trăng suông
Ta cũng biết
Người xưa
Từng uống rượu
Uống một mình
Dưới bóng tà dương

Thương tuổi trẻ
Đã một lần gục ngã
Giờ tóc râu
Bạc trắng như sương
Ta cũng muốn
Quay lưng chào sự thật
Nhưng
Quay bên nào
Cũng chạm
Nỗi đau thương!!!…

Trồng Cây Chuối Ngược

này bằng hữu chén này ta uống cạn
giọt tình, giọt nghĩa, giọt thân thương
còn chén này ta xin mời bạn
cạn cùng ta một chén đoạn trường!

ta ngồi đây như trồng cây chuối ngược
nên thấy trời ở dưới, đất ở trên
mà cũng phải, có trồng cây chuối ngược
mới thấy đời là ghềnh thác chênh vênh.

ta đâu biết mình là sâu hay là bướm
nên một đời áo mão xênh xang
và bạn ta, lũ cào cào châu chấu
cũng lụa là dạo khắp đồng hoang.

cũng vậy thôi, đời vốn là như thế
nên chớ buồn, hãy cạn cùng ta
thêm một chén, rượu ngàn ly – đồ bỏ
nhằm nhò gì một chén quỳnh hoa…

Nỗi Buồn Thiên Thu

em ngồi, tôi đứng nhìn nhau
buồn vui lẫn lộn lần tao ngộ này
em ngồi, tôi đứng nhìn mây
tóc em xõa, tóc tôi bay ngược trời

gió mùa khói lộng mù khơi
nhấp nhô bờ mộng chiều rơi giọt buồn
bên bờ liễu phủ mờ sương
bóng em khuất, bóng tà dương nhạt màu

ngồi nhìn con nước trôi mau
trái tim rỉ máu còn đau trong mình
mấy mùa sương khói qua nhanh
cuộc từ ly ắt sẽ thành thiên thu!

tóc mây đen, trắng hai màu
tôi ôm mộng thuở ban đầu mà vui
chiều nay tháng Chín mùa vơi
se se ngọn bấc à ơi giọng hò…

dòng sông, bến nước, con đò
tiếng ai còn vọng bên bờ liễu buông
ráng trời nhuộm đỏ chiều hôm
trắng hoa bờ giậu cánh chuồn chuồn bay

mịt mùng bóng nhạn chân mây
nghìn thu ắt nỗi buồn này khôn nguôi!

Xuôi Theo Dòng Nước Ngược

Từ bến xe về nhà chú tôi phải băng ngang một cánh đồng hoang. Ở cuối cánh đồng, gần khu chợ chồm hổm Tân Mai có một căn nhà lá nằm trơ vơ với những bức vách xiêu vẹo te tua vì trải qua nhiều năm tháng không được tu sửa. Tôi ghé vào xin nước uống. Bà chủ nhà hé cửa, ló đầu ra hỏi anh cần gì? Tôi nói trời nóng quá chị cho xin miếng nước và đụt mát một chút được không? Bà chủ nhà vừa mở cửa vừa nói mời anh vào rồi bước đến cầm chiếc ấm rót nước vào cái ly làm bằng đất nung. Căn nhà, ngoài lối đi và cái sân nhỏ phía trước, chung quanh đều là cây dại và cỏ tranh. Bên trong nhà kê một chiếc giường tre và một cái bàn với bốn chiếc ghế đẩu làm bằng gỗ tạp. Ở bức vách phía sau, kê một bàn thờ, trên bàn thờ là ảnh một người lính trẻ, mặc đồ trận, không thấy mang cấp bậc. Trước ảnh là một lư hương bằng sành, trên lư hương, vài ba chân nhang cắm xiêu vẹo. Thấy tôi đứng nhìn trân tấm ảnh, bà chủ nhà thở dài nói mời anh ngồi. Đó là ảnh thằng con tôi. Nó chết hồi còn chiến tranh. Thằng nhỏ mới ra trường Bộ Binh Thủ Đức được mấy tháng thì đụng trận bị thương, trực thăng chở về chưa tới bệnh viện là nó đi rồi. Thấy bà chủ nhà có vẻ cởi mở nên tôi bắt chuyện làm quen, xin lỗi chị tên gì vậy? Tôi tên Trang. Cảm ơn chị Trang, tôi từ bến xe về nhà chú tôi nhưng nắng nóng quá đành ghé vào đây làm phiền chị. Có phiền gì đâu, nhưng nhà không có trà, anh dùng tạm nước lạnh vậy. Tôi hỏi Trang chị còn cháu nào không? Còn. còn một đứa con gái. Nó lấy chồng tuốt dưới miệt lục tỉnh. Năm, nửa năm mới về một lần. Chị ở nhà này một mình? Chớ sao giờ. Bà Trang ngừng một chút rồi nhìn tôi tò mò, anh có mấy cháu? Chị làm nghề gì vậy? Bà xã tôi lấy chồng khác rồi. Tôi cũng có một đứa con trai, nó nghịch ngọm lượm đầu đạn đập lấy chì bị nổ chết rồi. Ồ! Xin lỗi đã khơi lại chuyện buồn của anh. Mà lý do gì hai người thôi nhau vậy? Vợ tôi không chờ được, bà ấy lấy chồng khác vì cho rằng tôi không thể trở về. Anh ở tù cải tạo? Vâng, tôi ở sáu năm. Bà Trang thở dài sườn sượt nói ông xã tôi cũng ở tù. Tôi hỏi anh ấy về chưa? Ổng chết rồi. Chết khi còn ở trong tù. Có người cùng trại với ổng về nói với tôi như vậy. Tôi bán tín bán nghi nên có đến trại giam hỏi thăm tin tức. Người ta bảo là ổng đã chuyển trại. Tôi có hỏi chuyển đến trại nào thì họ không trả lời vì vậy mà tôi tin là ổng đã chết thật rồi. Chiến tranh cũng chết, hòa bình cũng chết. Biết sao giờ! Bà Trang không nói gì thêm. Hình như bà đang hồi tưởng một điều gì đó. Nét mặt bà thoáng hiện một nỗi buồn xa xăm khó hiểu. Mặt trời đã ngã về phương tây. Khu đồng hoang trở nên vắng lặng buồn hiu sau một vài cơn gió mùa thoảng qua. Tôi đứng lên cảm ơn bà rồi bước ra cửa, một mình lần theo con đường mòn dẫn đến nhà chú tôi. Từ đó, năm ba ngày tôi đến thăm bà Trang một lần. Lúc đầu Trang có vẻ dè dặt nhưng dần dần bà ấy tỏ ra thân thiện và khi tôi ra về, lúc nào bà cũng mời tôi rảnh rỗi ghé nhà chơi.
Bầu trời đen nghịt, gió bắt đầu thổi mạnh. Tôi cố đi thật nhanh, nhưng vừa tới gần khu chợ chồm hổm thì cơn mưa đổ ụp xuống. Tôi đành tạt vào nhà bà Trang trú tạm. Cơn mưa giông đầu mùa thật dữ tợn, gió giật từng cơn. Một vài tấm lá trên nóc bị tróc. Nước đổ xuống đọng thành vũng nhỏ trên nền nhà. Bà Trang ngồi ở mép giường, nét mặt buồn buồn nói nhà không có đàn ông, mưa to gió lớn cũng sợ. Tôi nói chiến tranh qua rồi, nhưng hậu quả của nó thật ghê gớm. Kẻ mất vợ, người mất chồng. Tôi và chị gần như cùng cảnh ngộ, kiếp này chúng ta trả quá nhiều. Những ngày còn lại không biết rồi sẽ ra sao. Tôi buồn thật sự. Những lời tôi nói ra đều xuất phát tự đáy lòng. Bà Trang không nói gì và tôi cũng không biết bà đang nghĩ gì.
Cơn giông chấm dứt, nhưng trận mưa vẫn kéo dài. Trời đã tối hẳn, không còn nhìn rõ cảnh vật bên ngoài. Bà Trang bước đến đốt cây đèn trên bàn thờ. Ánh sáng từ ngọn đèn chao đảo, khi tỏ khi mờ, chiếu lên khuôn mặt đầy đặn, còn phảng phất nét diễm kiều của một thời con gái. Tôi nhìn bà đăm đăm… Cái cảm giác tự nhiên của một người đàn ông vắng vợ lâu ngày thôi thúc, khiến tôi không còn tự chủ được. Bà Trang cũng chỉ phản ứng lấy lệ… Ngoài trời, mưa vẫn còn nặng hột, thỉnh thoảng một vài ánh chớp lóe lên rồi tắt ngúm. Căn nhà bà Trang chìm trong một đêm mưa đầu mùa dai dẳng, cho đến khi bình minh ló dạng, bắt đầu cho một ngày mới và cũng bắt đầu cho một cuộc tình muộn màng nhưng đầy hạnh phúc.
Cuối cùng, chúng tôi cũng được định cư ở Hoa Kỳ sau một chuyến vượt biên đầy nguy hiểm. Trang suốt ngày buồn bã vì nhớ đứa con gái còn ở lại quê nhà. Chúng tôi sống ở New York một thời gian rồi chuyển về thành phố Garland, Tiểu bang Texas vì không chịu nổi khí hậu buốt giá ở miền bắc. Tại đây tôi và Trang dồn nỗ lực vào nghề may. Thời điểm đó nghề may khá thịnh hành và kiếm rất nhiều tiền. Từ công việc may thuê, chúng tôi mở được một cửa tiệm, rồi hai cửa tiệm vì vậy mà chúng tôi phải chia nhau mỗi người quản lý một tiệm. Hầu như chúng tôi chỉ gặp nhau về ban đêm và cuối tuần. Chúng tôi khá thành công trên xứ sở tạm dung này.
Một hôm, có một người đàn ông trạc tuổi trung niên vào tiệm tôi xin việc. Ông ấy nói tôi qua diện HO, mới được nửa năm. Tôi vốn là một sĩ quan ở tù cải tạo nhiều năm nên rất thông cảm với những người cùng cảnh ngộ. Tôi xem xong tờ đơn xin việc rồi nói được anh đến đây làm cho vui. Ngày mai anh có thể đi làm. Anh Tân cứ yên tâm, ở đây không có việc gì nặng đâu. Tân đứng lên nói cảm ơn rồi ra về. Tân làm được vài tháng, công việc đã thành thạo nhưng lúc nào cũng buồn bã đăm chiêu, ít trò chuyện và thố lộ việc riêng tư của mình. Lúc đầu tôi không để ý nhưng dần dà tôi thấy ở anh hình như có một nỗi buồn gì đó đang giữ kín trong lòng. Một hôm nhân công việc rảnh rỗi, tôi mời Tân đi nhậu. Tân có vẻ do dự nhưng rồi cũng đồng ý. Trong một nhà hàng khá sang ở Garland, tôi và Tân vừa uống bia vừa nói chuyện bao đồng. Khi cả hai ngà ngà say tôi tò mò hỏi Tân về hoàn cảnh gia đình anh. Tân buồn buồn trả lời, tôi qua đây một mình! Vợ tôi đã lấy chồng khác khi tôi còn ở trong tù, nghe nói bà ấy cũng qua Mỹ rồi. Tôi hỏi anh về năm nào. Tân trả lời về hồi năm tám lăm. Tôi gật gù nói như vậy là anh về sau tôi tới bốn năm. Tôi dặn Tân một vài công việc cho ngày hôm sau rồi lên xe ra về.
Mùa đông năm nay lạnh hơn những năm trước rất nhiều. Nhất là vào dịp tết ta, gió từ miền Bắc thổi về lạnh thấu xương. Tuyết cũng bắt đầu rơi càng lúc càng nhiều. Sân sau nhà tôi và những mái nhà nằm bên kia hàng rào phủ lên một màu trắng xóa. Những chú sóc thường ngày nghịch ngợm chạy nhảy tùm lum, giờ nằm co ro ở một góc nhà kho trông thật thảm hại. Ngày hôm sau tuyết ngừng rơi. Tôi mở cửa nhà xe bước ra bên ngoài. Mặt trời chói chang phủ lên mặt tuyết một màu trắng lung linh rực rỡ trông giống như một cảnh thần tiên nào đó. Con đường trước nhà hằn lên những vết xe trên mặt tuyết. Những đứa trẻ ở mấy ngôi nhà đối diện túa ra sân lấy tuyết đắp thành những hình người trông thật ngộ nghĩnh. Tôi cũng thấy vui lay với các cô cậu nhóc con nghịch ngợm này. Tôi trở vào nhà thì chuông điện thoại bật reo. Tôi nghe đầu giây bên kia tiếng Tân nói sẽ đến nhà thăm vợ chồng tôi. Tôi nói đường đông đá lái xe nguy hiểm lắm, Tân nói xe cộ chạy nhiều rồi, không sao đâu. Tôi đoán được Tân đến với mục đích tặng quà tết cho tôi nên không tiện từ chối. Trang hỏi anh cần đồ nhậu không. Tôi trả lời Tân có lòng đến nhà, mình cũng nên đối đãi tử tế với anh ấy. Vả lại thời tiết này mà có người cùng nhậu thật là tuyệt.
Khoảng một tiếng sau thì Tân đến nhà. Tôi mời Tân ngồi và nói hôm nay mình lai rai một chút chơi. Tân nói lời từ chối. Tôi gạt ngang và nói vợ tôi đang làm đồ nhậu. Chắc một chút nữa là xong. Trong lúc chờ đợi tôi hỏi Tân có ý lập gia đình với một người đàn bà khác không. Tân trả lời tôi chưa có ý định này. Tôi nói ở cái xứ này sống một mình bất tiện lắm. Dù sao cũng nên lập gia đình để nương tựa nhau thì tốt hơn. Tôi vừa dứt lời thì Trang từ trong bếp bước ra với một dĩa đồ nhậu trên tay. Trang khựng lại khi nhận ra Tân. Nàng đứng sững như trời trồng. Dĩa đồ nhậu vuột khỏi tay nàng rơi xuống nền gạch vỡ toang, thức ăn văng tung tóe. Tân đứng bật dậy như một cái máy bước nhanh ra cửa, không nói một lời nào. Tôi vô cùng kinh ngạc khi chứng kiến sự việc ngoài sức tưởng tượng này. Trang vẫn đứng lặng người tại chỗ. Nét mặt thất thần tái mét. Tôi đứng lên nắm tay nàng dìu đến ngồi trên ghế sofa hỏi sao hai người có cử chỉ kỳ cục như vậy. Trang ồ lên khóc nức nở. Bây giờ thì tôi đã đoán được phần nào sự việc rồi. Tôi nhỏ nhẹ hỏi Trang có phải anh Tân là người chồng cũ mà em tưởng đã chết trong tù đó không? Trang gật đầu rồi ù té chạy vào phòng ôm gối khóc. Tôi nói việc đâu còn có đó. Em đừng quá xúc động. Trang thôi khóc nhưng vẫn nằm trên giường quay mặt vào trong. Tôi an ủi nàng vài lời nữa rồi ra ngồi ở phòng khách. Tâm trạng tôi lúc này rối như tơ vò. Tôi không hề trách cứ Trang và tôi cũng không hiểu được phản ứng của nàng xuất phát từ một cảm xúc nào trước sự việc vừa mới xảy ra. Tôi nghĩ ngợi lung tung về một tương lai mà tôi phải đối mặt trong những ngày sắp tới. Suốt ngày hôm đó tôi luôn ở bên Trang vì sợ nàng không chịu nổi nghịch cảnh rồi làm chuyện điên rồ. Ngoài trời tuyết bắt đầu tan nhưng cái lạnh trong hồn tôi dường như mới bắt đầu. Những chai bia thay nhau cạn, dĩa đồ nhậu vỡ tung vẫn còn nằm nguyên đó. Căn nhà trở nên trống vắng đến rợn người. Tôi vói tay lấy xách quà Tân vừa mang đến mở ra xem. Trong đó có hai đòn bánh tét, một hộp mứt và một gói trà. Tôi buộc lại gói quà rồi vào phòng thăm chừng Trang. Nàng vẫn nằm yên đó. Tóc nàng xỏa ra che khuất một phần khuôn mặt còn đọng một vài giọt nước mắt…
Trang à! Bây giờ em định thế nào? Trang trả lời để em được yên tĩnh một vài ngày nữa rồi chúng ta sẽ nói chuyện sau. Vậy cũng được. Anh chỉ muốn em thật bình tĩnh để có một quyết định sáng suốt, đừng để cho sự việc trở nên rắc rối hơn. Chúng ta nên giải quyết vấn đề một cách êm thắm. Anh sẵn sàng chấp nhận những gì em muốn và tôn trọng mọi quyết định của em. Nói xong tôi bỏ ra ngoài với một tâm trạng đầy mâu thuẫn. Hai ngày sau tôi bảo Trang em ở nhà nghỉ ngơi. Anh ra tiệm coi công việc thế nào rồi về ngay. Trang nói dù gì anh cũng nên có mặt ở tiệm để công việc khỏi bị tồn đọng. Tôi nói em yên tâm. Anh sẽ lo mọi việc. Đến tiệm, việc đầu tiên của tôi là muốn nói chuyện với Tân về sự việc đã xảy ra nhưng cô thư ký bảo mấy ngày nay không thấy ông Tân đến tiệm. Tôi hỏi anh ấy có nói đi đâu không. Cô thư ký trả lời mấy hôm trước ông Tân nói đến tìm ông có việc rồi không thấy ông ta đến tiệm nữa. Tôi nói thôi được cô làm việc đi. Trở về nhà tôi đem chuyện Tân bỏ việc nói cho Trang nghe. Nàng tỏ ra một chút ngạc nhiên rồi nhìn tôi nói anh không cần quan tâm nhiều về vấn đề này. Tân bỏ làm là một việc tất nhiên vì dù gì anh ấy cũng bị một cú xóc khá nặng, nhưng thế nào anh ấy cũng sẽ tìm em để tỏ bày một điều gì đó. Anh cũng nghĩ như vậy, nhưng em đã chuẩn bị phải trả lời như thế nào chưa? Em sẽ trả lời dứt khoát với anh ấy là mọi việc đã được an bài không còn một chọn lựa nào khác ngoài việc phải chấp nhận nó. Em nghĩ là anh ấy sẽ phản ứng thế nào? Phản ứng thế nào cũng mặc vì em cảm thấy mình không hoàn toàn có lỗi trong vấn đề này và em tin là anh ấy cũng nghĩ như thế. Theo anh thì mọi việc phải được giải quyết một cách ổn thỏa, rõ ràng hơn là biến mình thành một cỗ máy không người lái muốn đâm đầu vào đâu cũng được. Anh muốn chúng ta, cả ba người phải đối mặt nhau để giải quyết vấn đề. Trang nói không được. Anh có nghĩ khi cả ba người gặp nhau thì sự việc sẽ càng phức tạp và tồi tệ hơn không? Thôi được, anh tôn trọng quyết định của em. Nói xong tôi bỏ qua phòng làm việc vùi đầu vào những chồng hồ sơ dày cộm cho đến nửa đêm mới lăn ra ngủ. Đã nhiều đêm thức trắng, nên vừa nằm xuống là chìm vào giấc ngủ như một đứa trẻ vô tư lự.
Hai tuần trôi qua trong sự chờ đợi nhưng chúng tôi vẫn không thấy một phản ứng nào từ Tân. Trang cố làm ra vẻ bình thản nhưng tôi biết nàng đang chịu một áp lực rất lớn trước sự im lặng khó hiểu này. Tôi không còn đủ kiên nhẫn nên đã nhờ Lượng đến nhà Tân để thăm dò thái độ của anh. Lượng cho tôi biết Tân đã trả căn chung cư và đi đâu không rõ. Tôi đem chuyện này nói với Trang. Nàng không nói gì và cũng không biểu lộ một cử chỉ đặc biệt nào. Sự chờ đợi của chúng tôi lại tiếp tục đến tuần thứ tư thì tôi nhận được thư của Tân gởi từ Cali (theo dấu bưu điên). Ngoài phong bì không đề địa chỉ người gởi. Tôi mở thư ra xem, anh viết:
“Kính gởi anh chị Hưng,
Lời đầu tiên của tôi là chúc anh chị luôn vui khỏe và may mắn trong công việc làm ăn. Tôi cũng xin lỗi anh chị về chuyện bỏ việc ra đi mà không báo trước, mong anh chị thông cảm. Tôi không biết anh chị có nảy sinh vấn đề gì khó xử khi sự việc ngoài ý muốn xảy ra hay không? Nhưng tôi luôn cầu mong anh chị tha thứ trước phản ứng không mấy tốt đẹp xảy ra ngoài vòng kiểm soát của tôi. Tôi cũng xin cảm ơn anh Hưng đã cư xử tốt với tôi trong những ngày tôi còn ở Garland. Kính thư, Tân”
Đọc xong, tôi đưa lá thư cho Trang. Nàng xem qua rồi nói cũng may chúng ta là những người hiểu biết và rộng lượng. Mọi việc coi như đã giải quyết xong.
Hội trường trang hoàng khá đẹp. Thân hữu khắp nơi tụ về tham dự đại hội rất đông. Tôi đang loay hoay chào hỏi mọi người. Trang cũng lăng xăng với các bạn học cũ ở một góc hội trường. Bất chợt tôi nhìn thấy Tân cùng lúc anh cũng vừa nhận ra tôi. Chúng tôi vừa đưa tay chào vừa tiến về phía nhau. Chúng tôi bắt tay với một cử chỉ niềm nở thân thiện. Tôi chỉ tay về phía Trang nói bà ấy rất vui khi gặp lại bạn bè. Tân nói bà xã mình cũng vậy. Anh đã lập gia đình? Vâng. Đã được vài năm. Mừng anh. Tân nói anh chờ chút. Tôi tìm bà xã đưa đến chào anh chị. Tôi gật đầu rồi hướng về phía Trang ra dấu gọi nàng đến. Trang nói gì đó với mấy bà bạn rồi đến với tôi. Trang hỏi có việc gì vậy? Tôi trả lời em chờ một chút. Anh sẽ dành cho em một việc rất bất ngờ. Trang định gặng hỏi tôi việc gì nhưng nàng khựng lại vì nhận ra nét mặt tôi biến đổi một cách kỳ lạ. Trang tò mò nhìn theo hướng mắt tôi và nhận ra Tân đang nắm tay một người đàn bà xinh đẹp tiến về phía chúng tôi. Tôi kịp lấy lại bình tĩnh khi Tân vui vẻ giới thiệu đây là Lệ bà xã mình. Tôi cố kiềm chế cho giọng không bị run nói chào chị Lệ. Tân cũng chào hỏi Trang trong khi Lệ đứng yên như trời trồng. Tôi nhận ra sự giao động kịch liệt từ đôi mắt Lệ nhưng cố làm ra vẻ tự nhiên hỏi chị Lệ qua Mỹ lâu chưa. Lệ biết tôi không muốn gây ra rắc rối trước sự tao ngộ oái oăm đầy kịch tính này nên nàng giả vờ vui vẻ trả lời dạ em qua được bốn năm rồi. Tôi nói thôi chào anh chị, tôi còn chút việc phải làm. Hẹn khi khác gặp lại. Tôi nói xong liền nắm tay Trang rời khỏi hội trường. Trang không thắc mắc gì cả vì nàng nghĩ là tôi không muốn trò chuyện với Tân nhiều. Nàng nghĩ tôi đang trốn chạy sự thật, nhưng nàng đâu hiểu tâm trạng của tôi khi gặp lại Lệ, người vợ cũ đã lấy chồng khác khi tôi còn ở trong tù. Tôi băn khoăn không biết nên nói với Trang việc này không và tôi cũng thắc mắc không biết hoàn cảnh nào đưa đẩy Tân và Lệ gặp nhau trên xứ sở tạm dung này. Lệ đã chia tay với người chồng mới khi còn ở quê nhà hay cả hai qua Mỹ rồi mới thôi nhau? Tôi tự nhủ mình không nên để ý đến vấn đề này làm gì và không cần biết Trang nghĩ thế nào về mình. Tôi quyết định không tham dự đại hội nữa và cùng Trang biến chuyến đi thành một chuyến du lịch ở miền Nam Cali…

Một Chuyến Đi Hụt Hẫng

Người khách sau cùng vừa chui vào được bên trong thì chiếc xe đã rời khỏi bến. Bà đứng lom khom, hai tay quờ quạng không biết bám vào đâu. Bỗng chiếc xe lắc mạnh, bà mất thăng bằng, ngồi phệt xuống cái giỏ gà dưới chân. Mấy con gà hoảng hốt kêu lên oang oác. Người chủ gà càm ràm:
“Mẹ ơi, đè chết mấy con gà tôi rồi”
Thằng lơ xe cười khúc khích:
“Bảo để trên mui không chịu, chết đáng”
Ông tài xế vừa nhìn lên kính chiếu hậu vừa chửi:
“Đ.m mày, còn không xếp chỗ cho người ta ngồi”
Thằng lơ vất vả lắm mới kê được một bao gạo để làm chỗ ngồi cho bà khách. Người đàn ông trung niên ngồi phía sau (có lẽ là chủ bao gạo) than nhỏ:
“Chết mẹ! Ăn bao gạo này chắc nghiến răng suốt ngày”
Trong số hành khách, có người đến sớm chiếm chỗ, phải ngồi trên xe gần cả tiếng đồng hồ. Họ mong từng giây từng phút cho xe chạy. Chiếc xe đầy nhóc người, nhưng ông tài xế (cũng là chủ xe) cứ rề rà để kiếm thêm khách. Không ai dám hối thúc, vì biết có hối thúc cũng vô ích, vả lại cũng không muốn làm mất lòng ông ta, lỡ lần sau đi trể, bị bỏ lại thì khốn.
Đây là chiếc xe than duy nhất chạy trên lộ trình này. Chiếc xe được “cải tiến” từ một chiếc Peugeot 203 cũ kỹ. Xe chạy mỗi ngày một chuyến, bắt đầu từ ngã ba Long Thành đến khu kinh tế mới Suối Quít.
Con đường dài gần năm mươi cây số này bị bỏ hoang từ thời chiến tranh nên đầy dãy ổ gà. Chiếc xe vừa chạy vừa lắc lư như một chiếc thuyền con tròng trành trên sóng. Chạy được một đoạn thì hành khách có người say sóng ọc mửa tùm lum, bốc lên một mùi chua lợm giọng, khiến một vài người khác chịu không nổi phải mửa theo.
Lúc này thì không còn ai để tâm đến những cung cách lịch sự thường ngày, kể cả cô gái ngồi bên cạnh tôi. Mỗi lần chiếc xe lắc mạnh, cả người cô ngã lên mình tôi, một tay choàng qua vai, bấu chặt như bấu vào một khúc gỗ, không một chút úy kỵ. Cố gái khá đẹp. Nước da trắng mịn. Khuôn mặt trái xoan. Mũi cao. Miệng nhỏ. Cặp chân mày dài, cong vút với mái tóc đen huyền phủ xuống gần tới thắt lưng.
Sau một hồi dằn xóc kịch liệt, chiếc xe chạy qua một khúc đường tương đối bằng phẳng. Cô gái lấy lại tinh thần, sửa lại thế ngồi ngay ngắn. Cô nhìn thoáng qua tôi nhưng không biểu lộ một cử chỉ đặc biệt nào. Tôi cũng tảng lờ, nghiêng người nhìn ra bên ngoài. Mặt trời đã lên đến đỉnh đầu. Thời tiết tháng Tư oi bức. Xa xa một vài đám mây lững lờ trên nền trời trong xanh. Một con chim khách nghịch ngợm lượn theo chiếc xe mấy vòng rồi bay thẳng vảo khu rừng, mất hút.
Chiếc xe ì ạch bò lên một ngọn đồi thoai thoải. Khói từ hai ống bô tuôn ra tạo thành một vòng xoáy bám sát vào đuôi xe. Bên lề đường, một em bé trần truồng đứng trước một ngôi nhà tranh lụp xụp, chăm chú nhìn chiếc xe như nhìn một con quái vật. Một người đàn bà trạc tuổi năm mươi, mặc bộ bà ba đen ngả màu, kéo lê một bao than ra đường. Chiếc xe từ từ ngừng lại. Thằng lơ nhảy xuống nhét vào tay người đàn bà một xấp tiền rồi bê bao than ém vào đuôi xe. Chiếc xe gầm lên rồi cố sức trườn tới. Người đàn bà chăm chú đếm từng tờ bạc lẻ. Thằng bé vẫn nhìn theo chiếc xe với một niềm vui hiếm hoi, mỗi ngày chỉ đến với nó một lần. Chạy thêm một đoạn chừng vài chục cây số, bỗng chiếc xe rung lên bần bật như một người bị chứng kinh phong. Ông tài xế vừa đạp ga vừa chửi thằng lơ luôn miệng. Hình như ông ta chửi vì thói quen chứ không vì lỗi lầm hay biếng nhác của thằng lơ.
Dù cố gắng đến đâu cũng vô ích. Chiếc xe vẫn khạc ra những tiếng khằng khặc rồi tắt phụt. Hành khách trên xe vừa lo vừa mừng. Ngồi trên xe gần hai tiếng đồng hồ. Đây là cơ hội tốt để trút đi những thứ thừa thải trong người. Nhưng xuống xe rồi mọi người mới chợt nhận ra, chiếc xe ác ôn lại chết máy ngay trên một khu đồng trống. Những người đàn ông thì thoải mái, bước ra chừng vài chục thước là xong. Những bà sồn sồn thì chịu khó ra xa một chút rồi cũng êm chuyện. Tôi bất chợt nhìn sang cô gái. Cô ta đứng chết trân tại chỗ, ứa nước mắt. Tôi biết cô đang gặp khó khăn gì. Nhưng trong trường hợp này, tôi vô phương giúp đỡ. Nhìn cô ta thật đáng thương. Bỗng tôi chợt nghĩ ra và móc từ trong túi xách một tấm vải che mưa, bước đến chìa vào cô. Cô gái hơi lúng túng nhưng cũng đưa tay nắm lấy miếng vải. Tôi trở về chỗ, tựa lưng vào hông xe và hơi ngạc nhiên vì thấy cô gái vẫn đứng tần ngần tại chỗ, đôi mắt càng đỏ hơn. Tôi biết sự chịu đựng của cô đã đến mức tột cùng. Cũng may lúc ấy có một người đàn bà tốt bụng, hiểu ý, nắm tay cô dẫn ra một chỗ xa xa giúp cô căng tấm vải làm bức màn che. Cô gái trở vào với một dáng điệu ngượng nghịu, sượng sùng. Cô nhờ người đàn bà đem trả tôi tấm nylon. Tôi quay mặt qua chỗ khác để khỏi làm tăng thêm nỗi hổ thẹn, ngượng ngùng của cô.
Mặt trời đã ngả về phương tây. Ông tài xế và thằng lơ vẫn hì hục với chiếc cỗ máy bất động như một con vật đuối sức nằm lỳ. Dưới sức nóng hanh hao của buổi chiều tháng Tư, mọi người đều mỏi mệt, không ai buồn nói chuyện. Trong cái không gian vắng lặng của vùng hoang dã chỉ còn nghe tiếng va chạm của kềm búa, tiếng chủi bới oang oang của ông tài xế và tiếng càm ràm khe khẻ của thằng lơ xe. Tôi bước đến ngồi trên một khúc gỗ nằm bên vệ đường, bật lửa đốt thuốc. Thỉnh thoảng tôi đưa mắt nhìn về phía cô gái. Giữa nơi đồng không mông quạnh mà được ngắm nhìn một bông hoa kiều diễm thế kia thì còn gì bằng. Ước gì…
Đang đắm chìm trong mơ mộng thì tiếng máy xe nổ rang, kéo tôi về hiện thực. Hành khách mừng rỡ chen nhau lên xe. Tôi bước theo sau cô gái vào ngồi ở chỗ của mình. Nhìn đồng hồ đã 4 giờ 30 chiều. Xe chạy thêm một đoạn chừng vài cây số thì đến một con suối nhỏ, hai bên cây mọc um tùm. Ông tài xế cho xe ngừng lai. Thằng lơ cầm cái thùng nhựa vừa đi xuống suối vừa nói oang oang:
“Đi tiểu, đi đái… đi bà con ơi”
Thì ra đây là chỗ thường ngày chiếc xe dừng lại đổ nước máy và cho bà con đi tiểu. Tôi cười thầm, đồ khỉ, cái máy cũng biết trêu người, không bò thêm một chút, báo hại con bé phải chịu một trận hổ thẹn đến đỏ mầy đỏ mặt.
Đây là lần đầu tiên tôi đến khu kinh tế mới Suối Quít, nên không biết còn bao lâu nữa thì đến nơi. Nếu đến đó vào ban đêm thì việc tìm nhà sẽ vô cùng khó khăn. Bất chợt tôi quay sang cô gái hỏi:
“Xin lỗi, ở Suối Quít cô có biết nhà ông Sáu Ngởi không vậy?”
Cô gái nhìn tôi với vẻ không được tự nhiên lắm:
“Dạ không. Cháu mới đến Suối Quít lần đầu”
Bây giờ tôi mới để ý đến cách ăn mặc của cô gái. Tuy không sang trọng lắm nhưng rất đúng “mốt” củanhững cô gái thị thành. Tôi biết mình bị hớ, nên vội khỏa lấp:
“Ồ! thì ra cô cũng như tôi. Nếu mình đến nơi mà trời tối thì thật là phiền” Cô gái không nói gì, đưa tay vuốt lại mái tóc.
***
Càng vào sâu địa hình càng phức tạp. Những ngọn đồi nối tiếp nhau phơi mình dưới ánh nắng chiều mùa hạ, chấp chới, mông lung. Một vài căn chòi lá nằm trơ vơ trên ngọn đồi với những cuộn khói bốc lên từ những hàng cao su mới trồng, thẳng tắp. Bất chợt tôi thấy một đám mây đen xuất hiện ở hướng Tây nam. Đám mây mau chóng hình thành một trận mưa giông đầu mùa dữ tợn. Hành khách vội vàng thả tấm màn nylon chống mưa, nhưng nó không giúp được gì. Những đợt gió thay nhau thóc vào hông xe, tấm màn nylon giẫy lên phành phạch, ngọn mưa theo đó tạt vào. Hành khách la ơi ới. Thằng lơ lòn hai cánh tay xiết chặt vào chiếc thang gắn ở đuôi xe, gồng mình chịu đựng. Ông tài xế cho xe chạy chậm lại. Lúc này, mọi người trên xe dường như đã khuất phục trước sự cuồng nộ của thiên nhiên. Tất cả đều ngồi co rút, im lặng, trên mặt thoáng hiện một chút sợ hãi. Có người mấp máy đôi môi, hình như đang cầu xin một đấng thiêng liêng nào đó phù hộ. Cô gái nép sát vào người tôi. Với bàn tay rắn chắt của một người đàn ông chưa tới bốn mươi, tôi lấy hết sức ghì chặt tấm màn, vừa che cho cô gái vừa che cho mình. Tôi nghe lòng ấm lại trong cái mát lạnh của trận mưa giông đầu mùa.
***
Chiếc xe ngừng lại trên một khu đất trống. Trời đã nhá nhem tối. Cảnh vật trở nên mơ hồ lãng đãng sau trận mưa. Hành khách lần lượt xuống xe đi vào các ngả rẽ, mất hút. Trên bãi đậu xe, chỉ còn lại tôi, thằng lơ và cô gái. Tôi đứng nhìn quanh với một nỗi buồn rười rượi. Không ngờ ông Sáu Ngởi, một thương gia có chút tiếng tăm ở Biên Hòa, bây giờ phải giam mình trong cái hóc khỉ ho cò gáy này.
Tôi đang lưỡng lự không biết phải đi về hướng nào thì chợt nhớ đến cô gái. Thì ra cô ta vẫn đứng tần ngần ở trước đầu xe. Nhìn dáng vẻ của cô, tôi đoán được không phải cô đang chờ người thân đến đón. Tôi bước đến hỏi:
“Người nhà chưa đến đón cô à?”
Cô gái rươm rướm nước mắt:
“Cháu không báo trước cho chị Mai”
Tôi không hỏi gì thêm, từ từ rút điếu thuốc đặt lên môi, bật lửa, những lọn khói cuộn tròn, quấn quít như chưa muốn tan biến vào không gian.
“Vậy cô tính thế nào?”
“Cháu không biết”
Tôi đứng ngớ người vài giây rồi hỏi tiếp:
“Nếu vậy, cô có muốn đi với tôi cho có bạn không?”
Cô gái nói nhanh:
“Dạ muốn”
Bây giờ tôi mới để ý đến cử chỉ và lời nói của cô gái. Nhìn vào vóc dáng và khuôn mặt, tôi đoán chắc, tuổi của cô không thể dưới hăm lăm, nhưng không biết tại sao cô ta lại có cái vẻ ngây thơ khờ khạo như vậy.
Địa hình khu kinh tế mới Suối Quít vô cùng phức tạp. Những ngôi nhà không nằm gần nhau mà bị phân cách bởi những khu vườn rộng lớn, trồng đủ loại hoa màu. Tôi và cô gái bước theo thằng bé, luồn lách giữa những đám bắp cao khỏi đầu người. Phải mất gần nửa tiếng đồng hồ, chúng tôi mới tới được một căn nhà lá nằm cạnh một con suối nhỏ. Tôi cho tiền thằng bé dẫn đường rồi bước tới gõ nhẹ lên cánh cửa làm bằng những mảnh gỗ ghép lại. Nhìn qua khe cửa, tôi thấy một ngọn đèn dầu treo trên bức vách, tỏa ra một thứ ánh sáng yếu ớt, bệnh hoạn. Một ông già lọm khọm bước đến mở cửa. Dù chỉ một chút ánh sáng lờ mờ từ ngọn đèn dầu chiếu ra, tôi vẫn nhận ra ông Sáu Ngởi. Người ông gầy hẳn đi, ốm yếu, hom hem như một cụ già tám mươi. Ông Sáu Ngởi nhìn tôi đăm đăm, dè dặt như nhìn một tên trộm. Tôi vội lên tiếng:
“Thưa bác, cháu là Dũng đây. Cháu mới về”
Ông Sáu Ngởi nhướng đôi mắt nhìn tôi từ đầu đến chân rồi vỗ nhẹ lên vai nói:
“Mô Phật, về được là tốt rồi. Thôi vào đi, đứng đây muỗi cắn”
Tôi và cô gái bước vào ngồi trên chiếc sạp bện bằng tre. Ông Sáu Ngởi rót trà ra hai cái tách, nói:
“Hai cháu dùng nước. Cháu Dũng lập gia đình rồi à?”
Thấy ông Sáu hiểu lầm, tôi vội lên tiếng:
“Thưa bác, cô gái này đi chung chuyến xe với cháu. Vì trời tối không tìm được nhà người thân, nên theo cháu đến đây xin tạm trú một đêm, xin bác thông cảm”
Ông Sáu Ngởi vui vẻ đáp:
“Ối, ăn thì nhiều chứ ở bao nhiêu”
Ông Sáu đang chăm chú vấn thuốc, bất chợt dừng tay nhìn tôi thở dài sườn sượt:
“Thật không may, cháu vào chơi mà con Quỳnh không có ở nhà. Nó theo chồng về dưới Vũng Tàu gần một tháng nay rồi”
Nghe ông Sáu nói, tôi thấy người choáng váng nhưng kịp lấy lại bình tĩnh:
“Quỳnh làm đám cưới lâu chưa bác?”
Ông Sáu vừa tiếp tục vấn thuốc vừa trả lời:
“Có làm đám cưới đám hỏi gì đâu cháu. Thằng chồng nó làm nghề buôn ngũ cốc, thường tới lui Suối Quít để thu mua bắp và các loại đậu. Hai đứa nó quen nhau. Bác thấy con Quỳnh đã lớn tuổi rồi nên cũng ừ cho nó yên bề gia thất. Cuộc sống đã đổi thay, mình đâu còn gì để mà lựa chọn nữa cháu!”
Nghe giọng nói rầu rầu, chua chát của ông Sáu, tôi đoán được Quỳnh chịu lấy người lái buôn nào đó chỉ vì muốn thoát khỏi cái vùng tăm tối này. Tôi cúi đầu yên lặng, chịu đựng nỗi đớn đau dày vò như có hàng ngàn mũi kim châm vào lòng ngực.
Đêm đó tôi và cô gái ngủ lại nhà ông Sáu Ngởi. Nhà chỉ có một cái gường duy nhất có mùng. Ông Sáu nhường cho cô gái. Tôi và ông ngủ ở cái sạp tre phía trước. Đêm đã khuya, tôi cứ thao thức trằn trọc mãi, không cách nào chợp mắt được. Lâu lâu lại nghe tiếng thở dài của ông Sáu. Tôi biết nỗi đau buồn của ông không kém gì tôi. Ông buồn vì cuộc sống, tôi buồn vì đã mất người yêu…
Thì ra nhà dì cô gái nằm cách bến xe chỉ vài trăm thước mà chúng tôi không biết. Mai, người chị họ của cô mừng rỡ, lăng xăng hỏi han tíu tít. Bây giờ tôi mới rõ tên cô gái là Phượng Vy. Có một điều làm tôi hơi ngạc nhiên là tính tình cô gái hoàn toàn khác hẳn với ngày hôm trước, nói cười luôn miệng, thỉnh thoảng lại pha trò thật dí dỏm, khiến mọi người cười vang.
Trò chuyện một hồi, Mai đưa tôi và Phượng Vy dạo quanh những khu vườn có nhiều loại cây ăn trái. Phượng Vy nhanh nhẹn như một con sóc, nghịch ngợm, phá phách. Nhìn cô ta tôi nghĩ thầm, chắc cô gái này chưa hề bị tình yêu khuấy động, nên cái vẻ ngây thơ, thuần khiết vẫn còn. Mai thì có vẻ trầm lặng hơn, nhưng vẫn còn giữ được cái dáng dấp của một cô gái thị thành. Mai đưa chúng tôi đến một con suối nhỏ chảy ngang một khu đất bằng phẳng đã được khai hoang để trồng hoa màu. Những luống rau đủ loại xanh mướt trải dài dọc theo hai bên bờ con suối như hai thảm lụa xanh, phơi mình dưới ánh nắng mai dìu dịu. Chúng tôi đến ngồi trên một chiếc cầu nhỏ bắt qua con suối. Dòng nước chảy êm nhưng đục ngầu vì chứa nhiều phù sa. Cách đó chừng vài chục thước, một cô gái đang cặm cụi chăm sóc mấy luống cải mới trồng. Nhìn cái vẻ lam lũ của cô gái rồi nhìn lại Mai, tôi nghĩ thầm, dù ở bất cứ thời đại nào, dù ở bất cứ nơi đâu, sự bất công của xã hội vẫn luôn luôn tồn tại…
***
Chợ nhóm trên một khu đất trống. Các mặt hàng chính yếu bày bán tại đây hầu hết là những thứ sản xuất tại địa phương như rau cải, thịt heo, thịt rừng và một vài thứ linh tinh khác. Tôi đứng nhìn hai cô gái lăng xăng mua sắm những thứ cần dùng cho buổi cơm chiều. Người tôi mệt nhoài vì suốt ngày lẽo đẽo theo sau hai cô gái. Bữa cơm chiều tuy không thịnh soạn lắm nhưng rất ngon miệng vì tài nấu nướng khéo léo của Mai. Một tô canh mướp, một đĩa mì xào và một đĩa hột gà chiên. Có một điều làm tôi khá cảm động là trước mặt tôi, một chai bia đã khui nắp và một cái ly làm bằng thủy tinh.
“Cám ơn hai cô nhiều, hai cô chu đáo quá”
Mai nhanh nhẩu:
“Đâu có gì. À, mà không có đá đâu nhé. Ở cái nơi thâm sơn cùng cốc này, kiếm một cục đá còn khó hơn kiếm một cục vàng”
Tôi cười xã giao:
“Không sao. Hai cô uống một chút cho vui”
Phượng Vy với một giọng trầm buồn khó hiểu đọc nho nhỏ một câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:
“Người buồn rượu có vui đâu bao giờ”
Mai cười hồn nhiên:
“Nhỏ ơi! Nguyễn Du nói cảnh chứ nói rượu hồi nào”
“Người buồn thì cảnh rượu gì mà chẳng buồn”
“Chứ nhỏ không nghe người ta nói uống rượu giải sầu sao. Ủa, mà nhỏ buồn hay ai buồn vậy?”
Phượng Vy lườm Mai một cái rồi bỏ vào trong lấy chén đủa.
Tôi phải ở lại nhà Mai qua đêm vì đến ngày hôm sau, chiếc xe mắc dịch kia mới trở về Long Thành. Đêm đó ba người chúng tôi ngồi quay quanh một cái bàn nhỏ, trò chuyện. Mẹ Mai, sau một ngày buôn bán thấm mệt đã vào phòng ngủ trước. Dưới ánh sáng mờ ảo của ngọn đèn dầu, khuôn mặt Phượng Vy càng hiện rõ cái nét diễm kiều, khả ái. Tôi ngồi yên nghe hai cô trò chuyện. Bất chợt, tôi cảm thấy sự hiện diện của mình lúc này là một trở ngại cho hai người lâu ngày gặp nhau tâm sự, nên cáo lỗi bước ra ngoài. Bầu trời đen nghịt. Tiếng con trùng râm ran như một bản nhạc hòa tấu ngân nga bất tận…
Một ngày hai đêm ở Suối Quít trôi qua như một giấc mộng. Nỗi đau buồn, hụt hẫng của chuyến đi tìm Quỳnh vẫn còn nguyên vẹn trong tôi. Từ giã gia đình Mai, tôi lặng lẽ bước theo hai cô gái tiến về bãi đậu xe. Vẫn chiếc xe than cũ kỹ mang chúng tôi trở về Long Thành. Phương Vy ngồi yên như pho tượng, trên mặt loáng thoáng một nét buồn xa xăm, khó hiểu… Tôi cũng ngồi yên nhìn ra bên ngoài. Bầu trời trong xanh, một cặp chim rừng đang xoải cánh bên nhau, bay về hướng mặt trời…

Như Một Giấc Mơ

Anh đã lập gia đình khác sao còn bảo lãnh em qua làm gì? Anh không còn cách nào khác để lựa chọn. Nói xong, người đàn ông vứt mẩu thuốc còn đang cháy dở xuống cái rãnh nước chảy dọc theo lối đi, nhưng chưa đầy một phút, ông lại bật lửa đốt điếu khác, những điếu thuốc vô tội vạ lần lượt bị vứt xuống cái rãnh, trôi lờ đờ theo dòng nước, không biết sẽ tắp vào đâu. Người đàn bà đầu cúi thấp. Bước chân quờ quạng. Đôi tay bấu chặt vào chiếc túi xách giống như con kiến bấu vào một cành khô giữa dòng nước xoáy. Mặt trời ngã xuống như một thân cây trốc gốc. Vạn vật trở mình thanh thản bước vào đêm. Người đàn bà nói qua hơi thở, anh Lượng làm ơn chở em về. Được. Ngày mai anh sẽ đến thăm Linh.
Linh mở cửa bước vào căn chung cư, đi thẳng vào phòng nằm vật ra khóc tức tưởi. Từ lúc đón Linh ở phi trường về căn chung cư này, hôm nay Lượng mới thố lộ sự tình cho Linh biết. Phản ứng của nàng là những giọt nước mắt không ngớt trào ra. Nàng cảm thấy lạc lõng bơ vơ ở cái xứ xa quê nhà gần nửa vòng trái đất này.

Anh Lượng, có việc gì mà mấy tuần nay anh làm như kẻ mất hồn vậy. Có gì đâu, anh chỉ bực mình vì công việc độ này cứ gặp trở ngại hoài. Vậy mà em cứ tưởng anh có việc gì quan trọng đang giấu em. Trang à! Sao em giàu tưởng tượng dữ vậy. Thôi anh đi tắm, chút nữa anh có chút việc phải đi làm. Em ăn cơm trước đi. Dạ được. Chờ Lượng đi rồi, Trang vào phòng nằm nghĩ ngợi lung tung. Trang không tin lời giải thích của Lượng. Giác quan nhạy cảm của người đàn bà báo cho nàng biết chắc chắn có một việc vì đó Lượng đang giấu mình. Trang đoán già đoán non đủ thứ chuyện, nhưng cái hình ảnh Lượng đang âu yếm với một người đàn bà nào đó vẫn cứ chập chờn lẩn quẩn trong đầu.
Lượng cho xe chạy lòng vòng một hồi rồi tắp vào một quán cà phê nằm ở cạnh bờ hồ JP. Trời cuối thu, cảnh vật ở đây đượm một màu buồn tẻ thê lương. Ánh chiều tà xuyên qua cành lá chiếu vào khung cửa kính phía trước tạo thành những vệt lốm đốm, chấp chới như một chùm pháo bông. Cô gái chạy bàn khá xinh bước đến hỏi chú uống cà phê gì? Lượng nói cà phê đen, bỏ ít đường.
Lượng vừa nhâm nhi cà phê vừa hồi tưởng những ngày sống bơ vơ buồn chán trên cái xứ cách quê nhà xa lắc xa lơ này hồi năm 1975. Lượng vốn là một Sĩ quan Không quân ngành cơ khí, phục vụ tại phi trường Tân Sơn Nhất. Với vốn liếng sẵn có, Lượng được thu nhận vào làm cho một hãng máy bay. Tại đây Lượng quen với Trang, một nữ thư ký vốn cũng là người di tản hồi 75. Hai người quen nhau được vài năm thì tình yêu nảy nở và trở thành một cặp vợ chồng rất hạnh phúc trên cái xứ tạm dung này. Như mọi người di tản khác, Lượng không nghĩ là sẽ có ngày gặp lại Linh. Cho đến một hôm Lượng biết được tin tức nàng qua một người vượt biên thuật lại. Thì ra Linh cùng gia đình bị đưa đi kinh tế mới, vì vậy mà suốt hai năm trời Lượng cố gắng liên lạc với Linh đều không có kết quả. Tuy đã lập gia đình khác, nhưng Lượng lúc nào cũng nhớ đến Linh. Kỷ niệm của một cặp vợ chồng son trẻ luôn là hồi ức không thể vơi đi trong tâm hồn chàng, nên khi biết được chỗ ở của Linh, Lượng liền tìm cách liên lạc và lập hồ sơ bảo lãnh nàng qua Mỹ.
Ly cà phê thứ 3 đã cạn. Cái gạt tàn cũng đầy ắp những đầu lọc màu nâu nhạt. Thành phố đã lên đèn từ lâu. Lượng trở về với một nỗi lo âu phiền muộn dâng ngập trong lòng. Trang vẫn còn chờ Lượng ở phòng khách. Nàng ân cần hỏi sao hôm nay anh về muộn vậy? Ừ, anh có chút việc nên phải về trễ. Vậy à! Thôi anh đi tắm rồi ra ăn cơm. Không cần đâu. Anh làm trễ thấy đói nên đã ăn mì gói ở văn phòng rồi. Lượng tắm xong liền vào phòng nằm vật ra ngủ thiếp. Trang kéo mền đắp cho chồng rồi ra phòng khách ngồi lau nước mắt…

Giấy xét nghiệm đã có kết quả. Lượng không tin vào tai mình. Nhưng đây là sự thật. Bác sĩ đã xác định như vậy. Để trấn an Lượng, Bác sĩ Joe nói thêm, anh đừng quá bi quan. Cũng may là phát hiện kịp thời. Cái bướu mới ở giai đoạn đầu. Khả năng di căn rất thấp. Tôi khuyên anh nên nhập viện vài hôm để tiện việc lập quy trình chữa trị. Hai ngày sau Lượng nhập viện. Cặp mắt Trang đỏ hoe vì khóc suốt ngày. Nàng đến thăm Lượng thường xuyên. Vào một chiều thu ảm đạm, ngọn gió thu lay động những chiếc lá màu vàng nhạt trên mấy nhánh cây xào xạc buồn hiu… Lượng ngồi trên chiếc ghế băng phía trước bệnh viện hướng về cổng ra vào. Bất chợt Lượng thấy Linh với dáng điệu mệt mỏi lửng thửng từ cổng đi vào. Lượng đứng bật dậy cùng lúc Linh cũng vừa nhận ra chàng. Lượng hỏi dồn dập đủ thứ khiến Linh không biết phải trả lời thế nào. Cuối cùng Lượng lấy lại bình tĩnh hỏi ai nói cho em biết là anh đang ở đây? Linh trả lời, hồi sáng có một người đàn bà đến nói với em, anh đang điều trị ở bệnh viện này và khuyên em nên vào thăm anh. Em có hỏi bả là ai nhưng bà ta không trả lời và vội vã bỏ đi ngay. Em cũng không nhận được mặt mũi bà ấy vì đôi kính đen và mái tóc che khuất một phần khuôn mặt. Lượng nghe xong ngẫm nghĩ một chút rồi nói nho nhỏ như chỉ để mình nghe, chắc là Trang rồi. Linh hỏi Trang nào vậy anh? À! không lẽ là chị Trang? Mà sao chị ấy biết em? Vì quá đỗi ngạc nhiên nên Linh quên mất mục đích nàng đến đây là để thăm hỏi bệnh tình của chồng. Sau một vài phút bàng hoàng, Linh lấy lại bình tĩnh hỏi tình trạng sức khỏe anh thế nào? Bị bệnh gì vậy? Lượng suy nghĩ một hồi rồi nói thật cho Linh biết về căn bệnh của mình. Nghe xong Linh ôm chặt Lượng khóc nức nở. Lượng vuốt tóc Linh nói khẽ, không sao đâu. Bệnh mới ở giai đoạn đầu có thể trị dứt được. Em yên tâm. Linh nói anh phải cố gắng chữa trị. Em sẽ đến thăm anh thường. Nghe Linh nói “em sẽ đến thăm anh thường” Lượng giật mình, nhưng lại nghĩ “đến nước này, còn giấu giếm làm gì, thôi cứ mặc chuyện gì đến cứ đến”. Về phần Linh, nàng đã quyết tâm thường xuyên đến chăm sóc an ủi cho chồng dù có chuyện gì xảy ra cũng mặc. Hết giờ thăm bệnh, Linh ra về với nỗi đau buồn xé nát tâm can. Linh cúi thấp đầu thất thểu lê từng bước ra bãi đậu xe. Thành phố đã lên đèn. Ngoài đường tấp nập xe cộ ngược xuôi. Linh lái xe còn yếu lại thêm tâm thần bấn loạn, nên vượt đèn đỏ lúc nào không hay. Cũng may không xảy ra tai nạn. Chạy được một đoạn ngắn, bỗng có tiếng còi hú của cảnh sát phía sau. Linh quẹo vào bãi đậu xe của một tiệm ăn. Người cảnh sát đến hỏi bảo hiểm và bằng lái, Linh đứng ngớ người vì không biết cảnh sát hỏi gì. Vừa lúc đó, một người đàn bà trạc tuổi trung niên bước đến nói chuyện gì đó với cảnh sát rồi bảo Linh đưa bảo hiểm và bằng lái. Người cảnh sát biên giấy phạt rồi bỏ đi. Người đàn bà nói, chị Linh, em muốn nói chuyện với chị một chút được không? Linh chưa kịp trả lời thì bà ta nắm tay nàng dắt vào tiệm ăn. Linh như một cái máy bước theo người đàn bà vào ngồi ở một góc kín đáo trong tiệm. Bây giờ Linh mới lấy lại bình tĩnh hỏi, xin lỗi chị là ai vậy? Người đàn bà với đôi mắt thật buồn nói em là Trang. Em cũng từ bệnh viện về. Thấy cảnh sát stop chị nên theo vào đây xem có giúp được gì không. Chị Linh à, việc anh Lượng bảo lãnh chị qua đây em đã biết từ lâu nhưng không dám nói ra vì sợ hai người khó xử. Linh chết điếng trong lòng, không biết phải nói gì trong trường hợp gay cấn này. Trang nói tiếp, chị yên lòng, em biết được nỗi khổ tâm của chị. Em cũng là đàn bà. Em cũng đau khổ như chị nhưng em không hề trách cứ chị. Em là người đến sau mà. Nhất là hiện giờ anh Lượng gặp phải căn bệnh hiểm nghèo, chúng ta còn lòng dạ nào làm những việc khiến cho anh ấy thêm đau khổ phải không chị? Linh ngồi chết trân, không nói được lời nào. Linh vốn là một người được sinh ra và lớn lên ở một vùng nông thôn hiền hòa nên tính tình nhút nhát, ít khi tranh chấp với đời. Thỉnh thoảng Linh ngước nhìn Trang với hai gò má đầm đìa nước mắt. Trang nói chị Linh đừng buồn, em xem chị như một người chị ruột và sẽ lo lắng cho chị về sau này. Thôi được, chúng ta về. Nói xong Trang dìu Linh đứng dậy, đến quày trả tiền hai ly cam vắt rồi cùng nhau ra về. Linh nói cảm ơn chị rồi lên xe. Trang vừa quay lưng đi thì những giọt nước mắt tuôn ra không cách nào ngăn lại được. Thành phố vẫn thản nhiên trôi theo nhịp sống thường ngày của nó…

Bệnh tình của Lượng thuyên giảm rất nhiều sau một thời gian điều trị. Bác sĩ nói khả năng trị dứt hẵn căn bệnh rất cao. Lượng tin tưởng và phấn chấn trở lại. Chàng thường cùng Trang tản bộ vào những ngày đẹp trời. Một hôm Trang nói, anh Lượng à, em muốn hướng dẫn cho chị Linh công việc kinh doanh của mình để chị ấy giúp anh điều hành công việc. Anh cần nghỉ ngơi nhiều để căn bệnh mau chóng bình phục. Có một chuyện này em muốn xin anh, không biết anh có đồng ý không? Lượng nhìn chăm chăm vào mặt Trang hỏi sao hôm nay em kỳ cục vậy? Có gì mà kỳ cục. Việc em sắp nói với anh là niềm mơ ước của em từ lâu và bây giờ là lúc em muốn thực hiện nó. Anh ủng hộ em chứ? Mà chuyện gì vậy? Em muốn lập một quỹ từ thiện do em điều hành. Trời đất! Em nói gì vậy Trang? Thực đó anh. Em nghĩ là anh không từ chối em đâu, phải không? Lượng ngồi thừ người ra một hồi rồi với một giọng buồn buồn nói, Trang à, em biết anh không bao giờ từ chối em bất cứ một điều gì. Anh sẵn sàng ủng hộ em. Nhưng hình như em đang tính toán một điều gì đó mà nguyên nhân là sự hiện diện của Linh trong cuộc sống của chúng mình phải không? Anh Lượng đừng hiểu lầm mà đánh giá thấp con người em. Em đã từng nói với anh là em xem chị Linh như một người chị ruột cơ mà. Lượng nói, thôi được, em cứ làm việc mà em muốn. Anh thấy chúng ta cũng nên làm một điều gì đó để giúp những người thiếu may mắn. Trang nói cảm ơn anh rồi cùng Lượng trở về nhà.

–o0o—

Thời gian trôi mau. Linh đã đủ khả năng điều hành công việc và cũng từ đó Trang ít khi ở nhà. Nàng thường về Việt Nam tham gia vào các công tác từ thiện. Ngoài ra Trang cũng dành nhiều thì giờ đi du lịch dài hạn và đây là liều thuốc hữu hiệu nhất, làm vơi đi phần nào nỗi buồn mà nàng đã âm thầm chịu đựng. Thấy Trang ít khi ở nhà, Lượng đề nghị Linh dọn về ở chung. Linh một mực từ chối. Nàng nói em không thể làm như vậy. Dù anh nghĩ thế nào đi nữa, em vẫn thấy mình có lỗi rất nhiều với chị Trang. Em chỉ coi em như một cái bóng của vợ chồng anh, một cái bóng đúng nghĩa của nó. Chị Trang đối xử với em khác với người thường. Những gì mà chị ấy làm đã vượt ra ngoài sức tưởng tượng của em. Em quyết không làm bất cứ một điều gì gây thêm tổn thương cho chỉ. Em xem chị ấy như một thiên thần, một vị ân nhân đã cứu em ra khỏi vùng nước xoáy. Chắc anh cũng thấy được, chị Trang đang thả nổi cuộc sống của mình là vì sự hiện hữu của em, một mũi tên vô tình cắm sâu vào con tim của chỉ. Thực ra đây không phải là một trường hợp cá biệt gì. Sau 75 vô số người cũng lâm vào hoàn cảnh như anh nhưng họ vẫn một mực chờ đợi và cuối cùng họ được đoàn tụ với gia đình mà không gây ra bất cứ một tổn thương nào cho ai. Lượng cúi đầu ngồi nghe Linh nói giống như một tín đồ ngoan đạo đang lắng nghe những lời rao giảng thánh kinh. Linh ngừng nói. Sự im lặng tạo nên một bầu không khí nặng nề bao trùm căn chung cư. Sau một vài phút căng thẳng trôi qua. Lượng ngồi bật ngửa ra lưng ghế nói, Linh à! Em nói cũng đúng nhưng hoàn cảnh mỗi người đều khác nhau. Suốt hai năm trời anh cố liên lạc với em nhưng hoàn toàn vô vọng. Làm sao biết được những gì có thể xảy ra với em. Anh thoát được, nhưng em vẫn còn nằm trong vùng lửa đạn. Rồi những ngày sau đó thì sao? Anh không xem thường em, nhưng cũng có rất nhiều trường hợp… Nói đến đây Lượng biết mình lỡ lời nên khựng lại. Linh nhìn đăm đăm vào mặt Lượng rồi thở dài nói, thôi bỏ đi, nhắc lại chỉ thêm buồn. Lượng cố giải thích, Linh à! Anh không phủ nhận là anh có lỗi. Anh chỉ xin em tha thứ và cả Trang nữa. Có lẽ vì vậy mà ông trời trừng phạt anh nên cả em và Trang đều không cho anh một đứa con nào. Lại một lần nữa, Linh kinh ngạc nhìn Lượng trân trân. Lượng nói nhanh xin lỗi em, anh lỡ lời…
Lượng ra về với cảm giác tội lỗi vì đã gây đau khổ cho hai người đàn bà vô tội. Chàng muốn ghé vào một quán nhậu nào đó uống cho thật say để quên đi những dằn vặt trong lòng, nhưng Lượng không thể làm vậy vì căn bệnh của chàng đang trong thời kỳ điều trị, không thể khinh xuất được. Về đến nhà, Lượng nằm vật ra giường cố dỗ giấc ngủ… thì điện thoại bật reo. Chàng nhấc ống nghe. Trang hả? Em đang ở đâu vậy? Anh đến phi trường đón em được không? Lượng mừng húm, nói được… được anh sẽ đến ngay. Ngày hôm sau Trang đến thăm và tặng rất nhiều quà cho Linh. Linh cảm động nói cảm ơn liền miệng. Linh hỏi chị Trang về ở luôn hay còn đi đâu nữa? Trang trả lời, đi chứ. Chị Linh cũng biết làm việc từ thiện phải tốn rất nhiều thời gian. Hai người chuyện vãn với nhau rất thân mật, tuyệt nhiên không hề đá động đến hoàn cảnh trái ngang mà cả hai người còn đang chịu đựng. Thăm Linh xong Trang ghé thăm một vài người bạn khác. Suốt một tuần ở Mỹ, Trang chạy tới chạy lui nhiều cơ quan tư nhân và nhà nước để giải quyết một số vấn đề liên quan đến công trình xây dựng trại cô nhi mà nàng đang thực hiện lỡ dỡ ở Việt Nam. Quỹ từ thiện Lượng dành cho Trang đầu tư vào các dịch vụ ở Việt Nam để kiếm tiền lời cho công việc từ thiện, đang gặp một vài trục trặc khiến cho công trình xây dựng này phải đình hoãn vô thời hạn. Trang rất lo lắng và trở về Mỹ để tìm cách xoay xở. Trang tuyệt nhiên không nói việc này cho Lượng và Linh nghe vì không muốn làm phiền đến họ. Với nỗ lực của mình, Trang đã thu hoạch một số kết quả đáng kể và quyết định trở về Việt Nam sớm để tái tục công trình đang dở dang. Trên đường ra phi trường Linh nhường ghế trước cho Trang. Lượng hỏi chừng nào em về? Trang trả lời còn tùy thuộc vào công việc anh à. Có lẽ lâu lắm mới về được. Lượng buồn xo không nói thêm một lời nào. Linh và Trang cũng ngồi yên nhìn ra bên ngoài. Cuộc chia tay khá mủi lòng.
Về Việt Nam, Trang dồn hết tâm sức vào công việc từ thiện nên sự đi lại giữa Mỹ và Việt Nam ngày càng thưa dần. Thời gian trôi mau. Mái tóc của bà đã ngả màu sương. Nỗi buồn trong quá khứ cũng vơi dần theo năm tháng. Bà lấy công việc làm vui, tiếp tục theo đuổi lý tưởng của mình…

—o0o—

Này bà, lấy giùm tôi cái áo khoác. Bà Linh hỏi ông đi đâu vậy? Đi dạo một chút không được sao? Nhớ về sớm ăn cơm. Được rồi, cứ lải nhải hoài. Ông Lượng với tay lấy cây gậy rồi mở cửa bước ra ngoài. Cơn gió chiều thổi ngược mái tóc ông về phía sau, để lộ ra cái trán hói chỉ còn lưa thưa những sợi tóc, trắng nhiều hơn đen. Đời người giống như một giấc mơ. Thoáng đó mà đã đến ngày gần đất xa trời… Ông Lượng nhìn lên những tàn cây trồng dọc theo hai bên đường. Từng chiếc lá màu vàng nhạt theo nhau rơi xuống nằm trơ vơ trên đám cỏ xanh…

Mắc Cạn

Gần một tháng nay, chiều nào ông cũng ra ngồi trên chiếc sạp ghép bằng gỗ thông kê ở gốc me sau nhà. Ông ngồi bất động. Nét mặt buồn hiu. Đôi mắt đăm đăm nhìn về hướng núi Ông cho đến khi những đám mây đen trên đỉnh núi tan hết ông mới lủi thủi trở vào nhà. Nơi ông ở là một vùng nước trời nằm về phía tây tỉnh lộ 8. Những năm gần đây thường xẩy ra hạn hán, mất mùa. Con suối sau nhà, nguồn nước duy nhất có thể dùng để cứu những thửa ruộng của ông cũng đã khô cạn, chỉ còn đọng lại những vũng nước đã ngả màu vàng sậm. Những con cá lòng tong mắc cạn ngoi ngóp trên mặt nước trông thật thảm hại. Đám bắp trồng ở miếng đất trước nhà, nguồn hy vọng duy nhất giúp gia đình ông giải quyết lương thực cho đến ngày giáp hột cũng quíu cờ héo rụi. Ngày ra tù, ông đưa vợ con từ vùng kinh tế mới trở về sinh sống ở cái làng nhỏ bé này, vì đây là quê quán của ông, nơi mà chính quyền bắt buộc ông phải cư ngụ trong thời gian còn “quản chế”. Trong số những người bà con thân thuộc, cũng có người muốn giúp ông nhưng một phần vì ái ngại, không muốn thân cận với một người tù “cải tạo” mới về. Một phần vì chính gia đình họ cũng đang lâm vào hoàn cảnh khốn khó bởi những năm hạn hán mất mùa. Trước những khó khăn chồng chất không còn lối thoát, ông phải thực hiện một quyết định táo bạo là đùm túm cả gia đình chạy vào Long Khánh nhưng bị bức tường “hộ khẩu” chắn ngang, đành dội ngược trở về với hai bàn tay trắng. Để rồi từ đó, chiều chiều ông lại ra ngồi dưới gốc me ngó về hướng núi Ông. Những đám mây đen chợt tụ chợt tan như một trò chơi trêu người quái ác. Loài người tàn nhẫn với ông. Thiên nhiên cũng tàn nhẫn với ông…
Nhà ông cách thị xã Phan Thiết không xa, chỉ hơn 6 cây số, nên ông thường đạp xe đạp xuống thăm mấy người bạn tù đang sống trong cái thị trấn nhỏ bé, buồn hiu này. Trong số bạn ông, có những người rất thiết tha với tình nghĩa bạn bè. Nhưng cũng có người (may mắn có chút ít thu nhập) thì lại thờ ơ lãng đạm cho dù ông chưa hề mở miệng nhờ cậy họ bất cứ một điều gì. Từ đó ông thường làm bạn với núi rừng. Ông theo những người trong làng lên núi phụ họ đốn củi hầm than (như một hình thức vần công) để nhờ họ chở về, khi thì năm bảy cây tre, khi thì vài ba bó củi. Cũng may, trong lúc sống dở chết dở thì một người cháu ruột ở Sài Gòn giúp ông một số tiền đủ để sắm một con bò già và một chiếc xe bánh cây cũ kỹ. Từ đó ông thường lên núi một mình với một xị rượu, một ít gạo và năm ba con cá khô. Cuộc sống đơn điệu buồn chán ấy tiếp tục hành hạ ông sau những năm tù nghiệt ngã.
Chỗ ông ở cách núi Ông khá xa nên thường bắt đầu những chuyến đi vào lúc xế chiều, khi mà ngọn gió mùa đông bắc từ biển đông thổi vào mạnh nhất, dấy lên một vùng khói bụi mịt mù. Nhà thơ Huỳnh Hữu Võ tả cảnh này chỉ bằng một câu thơ mà mỗi lần đọc lên ông cảm thấy buồn da diết “…tháng giêng gió thổi mù như khói…”
Chiếc xe thong dong lăn bánh dưới ánh nắng chiều chói chang gay gắt. Ông ngồi tựa vào hông xe, ung dung thoải mái như một khách nhàn du, mặc cho hai con bò già an phận kéo chiếc xe qua từng thước đường như một nghĩa vụ thiêng liêng mà loài người đã áp đặt lên nó từ cái thời xa lắc xa lơ nào đó. Hai bên đường lác đác năm ba căn nhà lợp tôn cửa đóng kín mít. Những con chó già ốm nhom nằm ngủ trước nhà cũng giật mình ngước mỏ sủa vu vơ. Những con bò thả rong đi lang thang trên cánh đồng còn trơ gốc rạ. Ngọn gió mùa đông bắc mang theo mùi khói đốt đồng quét vào người ông rát rạt. Nhìn cảnh vật xác xơ nơi đồng khô cỏ cháy dưới ánh nắng chiều chói chang khiến ông nhớ lại căn nhà nhỏ bé ấm cúng của ông bây giờ đã lột vào tay kẻ khác. Trong thời gian đi lính, dù số lương ít ỏi, vợ chồng ông cũng dành dụm tạo được một căn nhà nằm trong thị xã, tuy nhỏ bé nhưng cũng xây gạch đàng hoàng. Trước nhà cũng có những chậu hoa mai hoa sứ. Mỗi lần nghỉ phép ông thường dắt mấy đứa con ra sân đùa giỡn. Đùng một cái ngôi nhà tự nhiên đổi chủ. Khi ở tù về, mỗi lần ngang qua căn nhà, đứng ngoài đường nhìn vào, ông cảm thấy xót xa đau đớn nhưng rồi cũng đành ôm mối hận lòng lủi thủi bỏ đi. Rồi ngày tháng qua mau. Rồi niềm đau vơi dần. Nhưng cái cảnh nghèo đói vẫn bám sát theo ông, đè nặng lên người ông, khiến ông như một con cá lòng tong mắc cạn, thả nổi cuộc đời, mặc cho định mệnh đẩy đưa…
Càng vào sâu. Địa hình càng phức tạp. Đường núi chông chênh quanh co khúc khỉu. Hai con bò già hì hục kéo chiếc xe qua từng thước đường gập ghềnh sỏi đá dẫn vào chân núi.

Rừng ngàn năm vẫn buồn.
Chôn sâu niềm u uẩn.
Người ngàn năm vẫn còn
đi trong vòng lẩn quẩn…

Ông đọc lầm thầm trong miệng mấy câu thơ vừa mới làm rồi cầm xị rượu lên mở nắp. Mùi rượu mía bốc lên hăng hắc khiến ông nhớ quá cái mùi hennessy mà trong đời lính tráng ông đã nhiều lần thưởng thức qua. Ông thở dài sườn sượt, đưa mắt ngó về phương tây. Những đám mây tụ về đỉnh núi bàng bạc mông lung. Cánh rừng cũng trở nên yên ả mơ màng sau một ngày gió mùa lồng lộng thổi. Một vài chiếc lá vàng nhạt lững lờ rơi xuống đầu xe. Một tiếng hú đơn điệu phát ra từ một hóc hiểm nào đó của núi rừng. Ông nghiêng tai lắng nghe, bất chợt nhớ lại lúc còn trẻ ông đã từng đọc qua tác phẩm The forest call của Jack London. “Tiếng gọi của rừng thẳm” là tiếng gọi gì vậy nhỉ? Ông quên mất nội dung câu chuyện. Có thể là tiếng gọi của bày lang sói. Có thể là tiếng gọi của một gã tiều phu. Có thể là tiếng gọi vô âm của một đóa lan rừng… Quả thật ông không còn nhớ được gì, nhưng ông quả quyết đó là tiếng gọi của núi rừng, tiếng gọi vọng đi từ núi rừng!…
Tiếng hú im bặt. Núi rừng cũng trở nên lạnh lùng khó hiểu. Chiếc xe vẫn lầm lủi vượt qua những triền núi cheo leo, bánh xe nghiến lên những phiến đá lồi lõm tạo ra một thứ âm thanh cộc cằn khô khốc. Ông vẫn ung dung tự tại ngồi tựa vào hông xe như một vị hoàng đế đang chễm chệ trên chiếc ngai vàng.

Mặt trời ngã xuống như một thân cây tróc gốc. Bóng tối tràn về bao trùm vạn vật. Bóng tối luôn là thủ phạm tạo ra muôn vàn hiểm nguy bất trắc. Cái vẻ hiền hòa an phận của núi rừng phút chốc cũng trở nên hung hiểm dị thường. Ông điều khiển cặp bò rẽ vào một láng trống nằm cạnh một con sông nhỏ với dòng chảy hiền hòa trong mùa nước cạn. Cho bò uống nước xong, ông nhặt một mớ củi khô nhóm lửa nấu cháo. Ông đổ nửa chén gạo vào cái soong nhỏ với hai chén nước rồi bắc lên cái bếp dã chiến kê bằng ba cục đá. Tiếng sôi ùng ục từ soong cháo phát ra nghe buồn đứt ruột. Ông bê soong cháo trút hết vào cái tô rồi gắp hai con cá bỏ vào. Mùi cháo và mùi cá khô nướng quyện vào nhau bốc lên thơm phức. Ông nhai ngấu nghiến cái đầu cá rồi từ từ để cho chất mặn, chất béo, chất ngọt thắm vào đầu lưỡi như một vị đế vương đang thưởng thức một món sơn hào hải vị gì đó. Bữa ăn tối của ông là vậy! Một chút lương hồ lỏng bỏng trút vào cái bao tử rổng tếch chẳng thấm thía vào đâu. Ông thu dọn bát đũa bỏ vào bao cát rồi chui vào gầm xe.
Nằm co ro trên tấm nylon với một cảm giác cồn cào khó chịu, giấc ngủ khó lòng tìm đến với ông. Ngủ không được, ông lại chui ra ngồi bên đống lửa. Đêm càng về khuya, núi rừng càng lộ ra cái vẻ hung hiểm kỳ bí của nó. Một vài tiếng kêu rời rạc của một con chim ăn đêm vọng lại từ khu rừng bên cạnh làm ông thấm buồn. Ông lại lan man nghĩ ngợi về thân phận con người. Mới ngày nào còn là một học sinh với bao niềm ước mơ, hy vọng. Mới ngày nào còn là một sinh viên sỹ quan với bộ quân phục ủi hồ láng bóng đi bên cạnh người yêu trên đường phố Sài Gòn. Mới ngày nào còn quấn quýt bên vợ con trong ngôi nhà thân yêu vào những ngày nghỉ phép. Rồi giờ đây một mình ngồi giữa núi rừng thâm u trùng điệp, bóng tối vây quanh. Nỗi cô đơn lại hiện về phủ kín hồn ông…

Mặt trời đã lên cao. Những giọt nắng quái ác xuyên qua cành lá đậu lên tấm thân gầy gò héo hắt của ông. Một con chim đứng nhìn dáo dác rồi bay vút vào khu rừng phía trước. Một con sóc chuyền nhanh qua trước mặt. Một chiếc lá còn xanh yểu mệnh nhẹ nhàng rơi xuống nằm trơ vơ trên đám lá khô. Nhịp sống quanh ông diễn ra đơn điệu đến rợn người. Ông dụi tắt điếu thuốc rồi uể oải đứng lên tiếp tục đi tìm những khúc củi nằm rải rác trong khu rừng giữa trưa hừng hực nóng. Mồ hôi trên lưng áo bà ba đen của ông bị sức nóng hong khô tạo thành những vết loang lỗ trắng đen trông giống như một bức tranh trừu tượng. Loay hoay cả ngày với những khúc củi oằn vai khiến ông cảm thấy toàn thân rời rã. Màn đêm núi rừng buông xuống thật nhanh. Ông ngồi vắt vẻo trên chiếc xe chở đầy than củi xuyên qua những khu rừng chồi nối tiếp nhau trải dài hàng chục cây số dẫn về ngôi làng bé nhỏ của ông, nơi có những vũng nước ngả màu và những con cá lòng tong mắc cạn…

Người Đàn Bà Ở Căn Chung Cư Số 13

Có tiếng động mạnh trên tầng lầu 2. Tôi bước vội ra sân nhìn lên, nhưng chỉ kịp thấy cánh cửa căn chung cư đóng sầm lại rồi im bặt. Tôi chờ thêm vài phút xem có chuyện gì xẩy ra nữa hay không thì điện thoại trong nhà bật reo. Tôi vội trở vào nhấc máy và sững sờ khi nghe đầu dây bên kia, anh Hải ơi! anh lên khóa cửa giùm em. Hồi chiều ra đi em quên khóa. Cảm ơn anh. Alô… alô… tôi chưng hửng, càu nhàu, con khỉ! chưa kịp hỏi gì đã cúp, đồ điên…
Hôm sau, khi gặp bà Trang, tôi chưa kịp mở lời phân trần… thì bà nhìn tôi tươi cười nói, cám ơn anh đã khóa cửa giùm em. Nghe bà Trang nói, tôi chới với không biết phải ứng đáp thế nào vì tôi có khóa cửa giùm bà bao giờ đâu! Chìa ở đâu mà khóa! Bất chợt, tôi nghĩ đến một điều, ở Mỹ chìa khóa nhà ai nấy giữ, đâu có tùy tiện đưa cho người khác được. À, mà sao bà ta lại nghĩ là mình có chìa khóa nhỉ? Nếu bà bị mất đồ thì sao? Nghĩ đến đây tôi đâm hoảng nhưng cố lấy bình tĩnh hỏi, chị có bị mất mát gì không? Bà Trang cười tươi như hoa, dạ không, nhờ anh khóa cửa nên không xẩy ra chuyện gì. Tôi bực mình hỏi, này chị Trang, khóa cửa của chị có mấy chìa vậy? Bà Trang trố mắt nhìn tôi ngạc nhiên, anh hỏi làm chi vậy. Anh Hải ơi, ở Mỹ đừng hỏi những việc như vậy, không tốt đâu. Tôi kêu trời không thấu nhưng nhìn cái vẻ vô tư ngớ ngẩn của bà, tôi đành gượng gạo nói, đúng… đúng…, chị nói đúng! À này chị Trang, tôi làm gì có chìa khóa của chị mà chị nhờ tôi khóa cửa? Chị có chắc là khi trở về, cửa của chị đã được khóa không? Bà Trang nhìn tôi với vẻ ngơ ngác, cặp mắt láo liên hình như đang nghĩ đến một điều gì đó, rất quan trọng. Bà thở dài sườn sượt nói, xin lỗi… xin lỗi… em lẩm cẩm quá. Bà vừa nói vừa vội vã bước lên thang gác…
Gần một tháng nay căn chung cư số 13 của bà Trang cửa đóng im ỉm, cũng không thấy xe bà đậu ở parking lot. Tôi không rõ bà đi xa hay đã đổi chỗ ở? Tuy căn nhà bỏ trống, nhưng thỉnh thoảng lại nghe có tiếng chân người đi tới, đi lui, nện gót giầy thình thịch trên sàn nhà. Đôi khi lại có ánh sáng lờ mờ của loại đèn ngủ phát ra từ khung cửa sổ. Tôi vốn là người không tin ma quỷ, nhưng với những hiện tượng kỳ lạ trên tầng lầu 2, khiến tôi khó tìm được giấc ngủ thanh thản, nhất là về ban đêm. Tôi đâm lo và không biết tại sao lại cảm thấy buồn buồn sau những ngày không gặp bà Trang! Nhiều đêm tôi cứ trằn trọc, thao thức mãi cho đến nửa đêm mới chợp mắt được. Tôi đến ở đây gần được một năm. Tôi không vợ con và cũng chẳng có bạn bè, thân thuộc gì. Có thể nói bà Trang là người thân quen duy nhất của tôi. Bà cũng như tôi. Độc thân. Tính tình trầm lặng. Không thích giao du bạn bè. Bà làm thu ngân viên cho một trung tâm bán lẻ. Ngoài thời gian đi làm và đi chợ, hầu như lúc nào bà cũng có mặt ở nhà.
Căn nhà số 13 yên tịnh lạ thường và bà Trang cũng bặt vô âm tín. Một hôm khi đi làm về, tôi thấy một miếng giấy nhỏ dán trên khung cửa, chữ viết bằng mực đỏ, nhòe nhoẹt từa tựa như viết bằng máu. Miếng giấy chỉ viết có mấy dòng “Anh Hải ơi! Ngày 13 tháng này anh lên gác đốt vài nén hương trên kệ thờ giùm em nhé. Cảm ơn anh nhiều” Tôi đọc mấy dòng chữ mà dở khóc dở cười, lầm bầm trong miệng, ở căn nhà số 13 mà còn nhờ mình ngày 13 lên gác đốt nhang. Trời ơi, con số 13 đâu có đem ra đùa cợt được. Tôi tính nhẩm, từ đây đến ngày 13 còn khoảng hơn một tuần. Thế là tôi cứ nơm nớp chờ đến ngày 13 xem có việc gì xẩy ra hay không?
Đang ngồi đọc báo ở phòng khách thì điện thoại reo. Tôi nhấc lên nghe nhưng điện thoại cứ rít rít, è è không làm sao nghe được. Giọng nói ở đầu dây bên kia cũng nhòe nhoẹt, đứt quãng, chỉ nghe được mấy tiếng Trang đây… Trang đây… rồi sau đó là những tạp âm nghe đến rợn người. Đó là vào một chiều Chúa nhật trời nhá nhem tối. Bên ngoài mưa tầm tã. Những giọt nước từ trên hành lang căn gác nhỏ xuống khóm bạc hà trước hiên nghe lộp độp, lộp độp, thật buồn. Tôi mở cửa bước ra ngoài. Một cảnh tượng làm tôi suýt đứng tim đang hiện ra trước mắt. Những giọt máu từ trên hành lang căn gác rơi xuống đọng trên mấy phiến lá bạc hà, rồi nhiễu từng giọt xuống bộ xương người làm bằng chất nhựa trắng mà tôi đã đặt ở dưới mái hiên trong ngày Halloween. Tôi bước vội vào nhà định gọi 911. Nhưng kịp nghĩ lại, không lẽ có kẻ giết người vào giờ này? Tôi do dự một chút rồi quyết định lên gác xem việc gì đã xẩy ra. Tôi cẩn thận rón rén từng bước đến trước căn nhà số 13. Tôi ngẩn người khi phát hiện ra ngay ở mép hành lang, ai đó đã để một hộp sơn màu đỏ (loại pha nước). Nước mưa tạt vào làm tràn hộp sơn rồi theo kẽ hở chảy xuống tầng dưới. Tôi lững thững bước xuống cầu thang mà nghe lòng buồn rười rượi!…
Vào nhà ngả lưng trên sofa, tôi ngẫm nghĩ, có lẽ gần đây mình bị ám ảnh bởi căn nhà số 13, nên không kịp nhận định, quan sát kỹ càng mới tưởng tượng ra cái chuyện buồn cười, lảng nhách này! Nhưng rồi tôi lại nghĩ, tại sao hộp sơn để ngay trước căn nhà số 13 mà không để ở một căn chung cư nào khác? Tại sao hộp sơn lại mở nắp ra? Tại sao lại chọn đúng vào buổi tối nhá nhem, trời mưa tầm tã này? Hay là có kẻ dùng sơn đỏ để hăm dọa, cảnh cáo mình? Tại sao và tại sao?… Hàng loạt câu hỏi khó trả lời lần lượt hiện ra trong đầu tôi…
Ngày 13 đã đến. Khi làm về, tôi đứng ở parking lot rất lâu để quan sát kỹ càng căn nhà bà Trang. Cửa vẫn đóng. Không thấy có hiện tượng gì khác lạ. Tôi vào nhà thay quần áo rồi vô bếp lục thức ăn. Bưng tô cơm có trộn xì dầu và cải mặn vào phòng khách, tôi vừa ăn vừa nghĩ đến những mẩu chuyện rùng rợn mà người ta đã kể cho tôi nghe về con số 13. Câu chuyện đầu tiên xẩy ra vào thời Đệ nhị Thế chiến, một quả đại pháo của quân Đức rớt ngay giữa một nhóm lính Mỹ gồm 13 người, tất cả đều tử thương. Từ đó về sau người ta rất úy kỵ con số 13 và cũng từ đó người ta sáng tác ra không biết bao nhiêu chuyện ly kỳ quái đản có liên quan đến con số 13, với một kết luận chắc nịch, 13 là con số xui tận mạng!
Ngồi nghĩ ngợi lung tung một hồi đâm chán, tôi mở cửa ra ngoài cho thư giãn một chút, nhưng bầu trời xám ngắt, cảnh vật âm âm, tôi vội trở vào nhà vì thấm lạnh. Ngồi một mình ở phòng khách, tôi cảm thấy buồn bã, cô đơn, trống vắng vô cùng. Thú thật, cái cảm giác này chỉ đến với tôi trong những ngày không gặp bà Trang. Nhưng lắm lúc tôi lại cảm thấy băn khoăn vì những hiện tượng quái lạ trên tầng lầu 2.

Ngày xưa, khi còn trẻ, tôi đã say mê đọc Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh. Vì vậy, không ít thì nhiều, cũng bị ảnh hưởng bởi những mối tình tuyệt đẹp giữa người và yêu tinh. Tôi không phải là một anh học trò nghèo mải mê đèn sách. Bà Trang cũng không phải là một con chồn tinh. Ấy thế mà tôi cứ thấp tha thấp thỏm trong lòng. Tôi uể oải đứng lên, định lái xe chạy một vòng cho khuây khỏa, nào ngờ mới mở cửa ra, thì bà Trang đang từ nơi đậu xe lù lù bước tới. Tôi đứng sững như trời trồng, miệng cứ ú ớ mãi. Bà Trang hơi ngạc nhiên nhưng cũng kịp nhận ra ở tôi có một việc gì đó, không được bình thường. Bà đoán như vậy rồi vội vàng lên tiếng, làm sao vậy anh Hải? Không hoan nghênh em trở về à? Tôi vội lấp liếm cho qua chuyện, đâu có! Chỉ hơi ngạc nhiên thôi. Bà Trang tiếp, lạnh quá! Em vào nhà được không? Tôi mời bà vào nhà với một nỗi băn khoăn lo lắng. Ngồi vào ghế xong, bà Trang cất giọng hỏi, hôm nay anh có lên gác thắp giùm em mấy nén hương không vậy? Nghe bà Trang hỏi tôi đâm bực mình nhưng cố làm ra vẻ tự nhiên, chị Trang ơi! Chị biết tôi không có chìa khóa của chị mà sao chị cứ nhờ khóa cửa hoài vậy?! Bà Trang hơi ngơ ngác một chút rồi lên tiếng, chết rồi, em lại lẩm cẩm nữa rồi. Xin lỗi anh nhé. Tôi nói, không có gì. Im lặng một chút. Bà Trang nhìn quanh căn nhà với một vẻ chăm chú khác thường. Tôi đánh tan sự im lặng, này chị Trang, hai tháng nay chị đi đâu vậy? Tôi có gọi cell phone mấy lần mà không được. Bà Trang nhìn tôi với nét buồn vời vợi nói, mấy tháng nay em không dùng cell phone anh à! Tôi định hỏi bà thêm một câu, nhưng chưa kịp mở miệng thì bà Trang tiếp, anh Hải à! Nếu em có một việc đáng buồn nào đó muốn tâm sự với anh thì anh có chịu nghe không? Tôi trả lời không do dự, nghe chứ! Nhưng tôi sợ không giữ được bí mật khi nghe những điều ấy! Bà Trang thở dài nói, thực ra cũng chẳng có bí mật gì cả. Bà vừa nói dứt câu thì gục đầu xuống bàn khóc tức tưởi. Tôi đâm hoảng, bối rối không biết phải ứng xử thế nào trước sự việc xẩy ra đột ngột như vậy. Tôi còn đang ngồi chết trân thì bà Trang ngước mặt lên, vừa đưa tay quẹt nước mắt vừa thì thầm qua hơi thở, anh lên gác với em được không? Tôi giật mình. Một ý nghĩ không được lành mạnh hiện ra trong đầu tôi. Bà Trang thấy tôi lưỡng lự nên hỏi lại. Tôi gật đầu, nhưng trong thâm tâm có một chút băn khoăn, ngần ngại. Đây là lần đầu tiên bà mời tôi lên nhà.
Bà Trang mở cửa rồi vói tay vặn nút điện. Ánh sáng từ chiếc đèn màu vàng nhạt trên trần nhà tỏa xuống một thứ ánh sáng yếu ớt, nhờn nhợn nhưng cũng đủ cho tôi quan sát tường tận mọi vật bày biện trong nhà. Tôi để ý đến cái kệ thờ bằng gỗ, sơn màu đỏ gắn trên tường nhà. Trên kệ thờ là ảnh một người đàn ông còn khá trẻ, khoảng ba mươi, ba mươi lăm gì đó. Phía trước tấm ảnh là một lư hương bằng đồng, đầy ắp chân nhang.
Bà Trang loay hoay trong bếp một hồi rồi bưng ra ba ly cà phê. Tôi hơi ngạc nhiên nhưng rồi hiểu ra ngay. Bà Trang lấy một ly để lên kệ thờ rồi đốt nhang cắm vào lư hương. Bà làm mấy việc này một cách tự nhiên và thành thạo. Bà nhìn tôi hỏi, anh Hải làm gì mà ngồi thừ người ra vậy? Tôi lúng túng chưa kịp trả lời thì bà chỉ ly cà phê nói tiếp, mời anh. Em không biết uống cà phê, nhưng hôm nay trời lạnh, em uống với anh một ly. Tôi tò mò hỏi, không biết uống mà sao chị có sẵn cà phê trong nhà vậy? Bà Trang trả lời một cách tự nhiên, dạ hôm nay là ngày giỗ anh Long, hồi nãy, trên đường về, em ghé chợ mua một gói để cúng anh ấy. Tôi biết rõ Long là chồng bà Trang nhưng giả vờ hỏi, anh Long nào vậy? Bà Trang vừa đưa tay chỉ lên kệ thờ vừa trả lời hồn nhiên như một đứa bé, ảnh đó, chồng em đó. Tôi ồ lên một tiếng rồi lảng sang chuyện khác, mấy tháng nay chị Trang đi đâu vậy? Bà Trang trả lời ngay, không một chút suy nghĩ, em đi lấy chồng. Tôi chưng hửng. Bà Trang nói tiếp, mà không được đâu anh à, thà ở vậy còn sướng hơn. Bà Trang nói như để phân bua, còn tôi thì như một quả banh, bị bà ta nhồi tới nhồi lui đến tối tăm mày mặt!
Một phút im lặng. Mỗi người đang theo đuổi một ý nghĩ riêng. Bỗng dưng bà Trang giương cặp mắt tròn xoe nhìn tôi nói nhanh, hôm trước em có về nhưng không gặp anh. Em về để thắp hương cho anh Long và sơn lại cái kệ thờ. Hôm đó em lu bu quá nên để quên cái hộp sơn ở trước nhà bị trời mưa trôi đi hết lại còn bị office cằn nhằn đòi em phải kêu người đến sơn lại. Tôi ngớ người lẩm bẩm, thì ra là vậy! Bà Trang nhìn tôi ngơ ngác, anh lầm bầm cái gì đó? Ờ không, tôi định hỏi chị Trang chừng nào đi lại? Bà Trang thở dài sườn sượt nói, còn đi đâu nữa, em sợ quá rồi. Những câu úp mở của bà Trang càng gợi thêm tính tò mò của tôi. Tôi quyết định từ bà Trang phải khám phá cho bằng được những sự việc kỳ quái mà mấy tháng nay nó luôn ẩn hiện trong đầu tôi. Chị Trang à! Có việc này tôi hơi tò mò một chút, chị đừng giận nhé. Bà Trang nhìn tôi với vẻ thản nhiên nói, anh cứ hỏi, có sao đâu! Tôi mạnh dạn hỏi, chị nói đi lấy chồng sao còn tính về đây ở luôn? Bà Trang trả lời một cách thản nhiên thật thà, chuyện hơi dài dòng, anh chịu khó ngồi nán lại một chút nhé. Cách đây 2 tháng, tình cờ em gặp một người đàn ông. Nhà ông ta ở cách đây chừng một giờ lái xe. Ông ta là chủ một cửa tiệm nhỏ. Ông ấy vung vãi tiền bạc để chinh phục em. Nhắc đến thật xấu hổ. Lúc đó em bị tiền bạc làm mờ mắt nên đồng ý ở chung với ông ta. Nào ngờ, người chồng mới này của em là một người ghen tuông bậc nhất trên đời. Ông ta kềm kẹp giám sát em còn hơn một cai tù. Thậm chí còn cấm không cho em nói chuyện điện thoại với bất cứ người nào. Tuy vậy, thỉnh thoảng, em cũng tìm cách lén về nhà dọn dẹp đồ đạc, thắp nhang cho anh Long rồi trở về ngay. Những lần như vậy, em biết anh có ở nhà, nhưng không dám quấy rầy giấc ngủ của anh. Với cái cảnh sống như ở tù này làm tinh thần em sa sút rất nhiều. Hồi sáng này như tức nước vỡ bờ, em cãi với ông ta một trận rồi cuốn gói về đây.
Nghe bà Trang kể xong, tôi thở phào nhẹ nhõm lẩm bẩm, làm ầm ầm, còn nói là sợ người ta mất ngủ. Bà Trang giương cặp mắt tròn xoe hỏi, anh nói gì? Tôi trả lời ú ớ, à không, không có gì. Bà Trang lớ ngớ, không hiểu rõ tôi muốn nói gì, nhưng bà cũng không mấy quan tâm về câu nói ỡm ờ của tôi. Hình như bà đang nghĩ về một điều gì khác, quan trọng hơn. Bà nhìn tôi im lặng, thở dài… Đồng hồ trên tường gõ nhẹ 12 tiếng, tôi thấy ngồi thêm bất tiện nên từ giã bà Trang với một niềm vui thấp thoáng trong lòng…

Vợ Chồng Ông Hộ

“Ông ơi …ơi…”
Tiếng ơi của bà kéo dài sườn sượt, nhão nhoẹt, lòng thòng như một thứ âm thanh kỳ quái nào đó từ xa vọng lại rồi tan biến trong cái không gian tịch mịch oi bức của một buổi trưa hè ở miền quê. Ông đứng cách đó không xa. Đang cặm cụi tỉa mấy nhánh khô và những chiếc lá úa vàng trên cây mai. Ông nghe rất rõ tiếng bà gọi, nhưng làm ra vẻ dửng dưng, không trả lời cũng không thèm quay lại.
“Ông à…”
Lần này thì tiếng gọi của bà có vẻ ngắn gọn hơn, nhưng nó vẫn còn nhừa nhựa, nghèn nghẹn như tiếng của một con tắc kè đang kêu đâu đó. Bà vẫn tiếp tục ngoáy trầu, nhưng đôi mắt của bà nhương nhướng, nhìn qua nhìn lại như cố chọc thủng cái màn trăng trắng, đùng đục đang chắn ngang trước mặt. Ông dừng tay quay lại nhìn bà, nheo nheo đôi mắt, nét mặt hiện lên một niềm vui vô hạn.
“Ông ơi, ông đâu rồi hè?”
Bà dừng ngoáy trầu. Đưa tay lên che đôi mắt. Thực ra đây cũng chỉ là cái thói quen của bà. Đôi mắt của bà đã bị mờ từ lâu. Không hề bị ánh sáng ảnh hưởng. Bà hơi chồm người về phía trước, lo lắng, bồn chồn:
“Ông ơi!”
“Cái gì đó bà?”
“Ủa, ông ở đó mà sao tôi gọi quài không chịu lên tiếng?”
“Chớ bà gọi làm cái gì dzậy?”
“Thì thấy dzắng ông nên gọi chừng dzậy mà”

Cái hoạt cảnh của vợ chồng ông Hộ hầu như diễn ra hàng ngày như một điệp khúc, nhưng chưa bao giờ ông thấy nhàm chán, trái lại còn coi đó là một cái gì rất trân quý, không thể thiếu vắng trong suốt cuộc đời còn lại của ông. Bà Hộ thì lúc nào cũng muốn ông kề cận bên bà, quấn quýt như một cặp vợ chồng mới cưới. Hễ thấy vắng ông một chút là bà gọi ngay. Ông Hộ thì cứ đợi cho bà gọi năm lần bảy lượt mới chịu lên tiếng. Những khi như vậy ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng.

Vợ chồng ông Hộ sống trong một ngôi nhà tranh nhỏ, được dựng trên một miếng đất cũng nhỏ chỉ chừng năm trăm mét vuông. Nghe nói vợ chồng ông lưu lạc đến sinh sống ở cái làng nhỏ bé này từ hồi ông còn rất trẻ. Ông không có con cái và cũng chẳng thấy có họ hàng thân thuộc gì. Mảnh đất mà ông đang ở là do ba tôi cho và ông đã trở thành người làm cho gia đình tôi từ đó. Nghe nói vợ chồng ông Hộ rất hiền lành và siêng năng. Nên không bao lâu, ba tôi giao hết mọi việc trong nhà cho ông trông coi và xem ông như một thành viên trong gia đình. Ngoài việc đong lúa hàng năm cho ông, ba tôi còn cho ông một miếng đất hoang nằm cạnh bên một dòng suối. Miếng đất rộng chừng năm sào, có nhiều gò mối và những lùm bụi nhỏ. Trong những lúc rỗi rảnh, vợ chồng ông ra sức khai phá và biến nó thành một miếng ruộng khá màu mỡ, và chính miếng ruộng này đã nuôi sống vợ chồng ông trong lúc tuổi già.

Nghe đâu, hồi năm mươi năm lăm gì đó, ông không còn làm trai hành canh cho gia đình tôi nữa. Ông dành hết thì giờ vào việc chăm bón miếng ruộng riêng của mình. Ngoài ra, ông còn làm thêm một nghề tay trái: thiến heo. Nhờ vậy mà cuộc sống của hai ông bà tương đối khá nhàn nhã. Không lo lắng gì nhiều. Vả lại chỉ có hai vợ chồng. Có người lắm mồm lắm miệng nói là vợ chồng ông Hộ coi vậy mà giàu lắm, tiền ông đút trong ống tre chôn đầy dưới gầm giường. Việc đó đúng sai thì không ai biết, nhưng chắc chắn một điều là vợ chồng ông Hộ đã dành dụm được một số tiền khá lớn, đủ để lo việc hậu sự cho hai ông bà sau này.

Nghe nói một hôm, hai ông bà đến nhà thăm ba má tôi. Sau một vài câu chuyện vặt vãnh không đâu vào đâu, ông Hộ sửa lại thế ngồi, nét mặt nghiêm nghị, pha lẫn một chút lo lắng bồn chồn:
“Cậu Mười à, có cái dziệc này, nói ra dzới cậu mợ thật là không phải, nhưng dzợ chồng tôi suy đi tính lại chỉ còn cách đến đây xin cậu mợ niệm tình giúp đỡ”
“Chớ cái gì mà quan trọng dữ dzậy chú?”
“Cậu Mười à, cậu mợ cũng biết dzợ chồng tôi không có con cái mà cũng chẳng có họ hàng thân thuộc gì. Sau khi qua đời đâu có ai trông coi mồ mả. Ngày này qua tháng khác, con trâu con bò cứ ủi tới ủi lui, thì dzợ chồng tôi lấy chỗ đâu mà che mưa che nắng. Bởi dzậy, dzợ chồng tôi mới đến đây xin cậu mợ dzui lòng cho tôi xây một cái mộ đá trên miếng ruộng mà cậu mợ đã cho, không biết cậu mợ nghĩ thế nào?”
“Ối! Tưởng cái gì quan trọng. Miếng ruộng đó là của chú, chú muốn làm gì thì làm, hà tất phải đến đây hỏi tôi cho lắm chuyện”
“Không phải dzậy đâu cậu Mười à! Mặc dầu miếng ruộng đó cậu mợ đã cho dzợ chồng tôi khai khẩn làm ăn mấy chục năm trời. Nhưng trong lòng dzợ chồng tôi đâu có coi đó là miếng ruộng riêng của mình. Nếu không được cậu mợ ừ cho một tiếng thì dzợ chồng tôi đâu dám làm càn”
“Thôi được, chú nói dzậy thì tôi nghe dzậy, chú cứ dziệc làm đi. Nhưng chú định chừng nào thì khởi công?”
Vợ chồng ông Hộ mừng húm, cám ơn rối rít, nói là tháng sau sẽ bắt đầu, rồi cáo từ ba má tôi ra về.

Ngôi mộ hoàn thành sau đó không lâu. Đây là một ngôi mộ lớn nhất và đẹp nhất trong làng. Ngoài hai nắm mộ nhỏ, xây bằng gạch, nằm kế cận nhau, ngôi mộ còn được bao bọc chung quanh bởi một bức tường cao hai mét, xây bằng đá chẻ, rộng chừng vài trăm mét vuông, phía sau có cổng ra vào. Mặt tiền ngôi mộ, xây một vòng cung, cao chừng một mét rưỡi. Chính giữa khắc một chữ thọ lớn, nạm bằng những loại đá hoa đủ màu sắc. Khoảng giữa bức tường và hai nắm mộ nhỏ được lát bằng gạch bông. Vợ chồng ông Hộ trân quý ngôi mộ còn hơn ngôi nhà của mình gấp trăm ngàn lần. Có thể nói ngôi mộ mới thật sự là cái nhà của vợ chồng ông.

Khi bọn nhỏ chúng tôi lớn lên thì vợ chồng ông Hộ cũng đã đến cái tuổi gần đất xa trời. Vợ chồng ông vẫn sống trong cái nhà tranh lụp xụp như hồi ông mới đến. Không hề thay đổi. Nhưng tính tình của hai ông bà thì thay đổi khá nhiều. Ba tôi nói như vậy. Ông ít khi lui tới với mọi người. Thỉnh thoảng ông có ghé thăm ba tôi. Uống một vài ngụm trà. Trao đổi một vài câu chuyện lặt vặt về đồng áng rồi ra về. Riêng bà Hộ thì tuyệt nhiên không hề rời khỏi nhà nửa bước. Ngôi mộ của ông bà qua bao năm tháng giãi nắng dầm mưa cũng biến thành một ngôi mộ cổ. Bên trong lẫn bên ngoài bức tường cây cỏ phủ đầy, bởi lẽ vợ chồng ông đã già không còn chăm sóc được nữa. Bọn nhỏ chúng tôi mỗi lần đi ngang ngôi mộ tự nhiên thấy lành lạnh ở sống lưng, rồi cùng nhau ùn té chạy. Có đứa còn la hoảng: “vợ chồng ông Hộ rượt theo đó tụi bay ơi” mặc dù hai ông bà vẫn còn sống sờ sờ ra đó.

Ngôi nhà ông Hộ nằm chắn ngang con đường mòn nối liền hai khu xóm mà người trong làng gọi là Xóm Trong và Xóm Ngoài. Chính cái điều này đã làm cho các cô gái trong làng phiền hà không ít. Khi đó vợ chồng ông Hộ vẫn còn khỏe mạnh. Đôi mắt của bà Hộ cũng chưa bị mờ. Các cô gái thì đang ở cái tuổi choai choai, khi ra đường thì vừa đi vừa uốn éo như một cô đào hát. Bà Hộ thì lúc nào cũng ngồi ở bộ ván kê trước hiên nhà. Hễ thấy cô nào đi ngang qua mà hơi “rượn” một chút là bà chửi túi bụi. Ngôi nhà ông Hộ vô hình trung biến thành một cái trạm canh mà bà Hộ là một viên cảnh sát luôn luôn tận tụy với nhiệm vụ, đôi khi cũng có hơi quá đáng. Các cô gái trong làng, hết lớp này đi lấy chồng thì lớp khác lớn lên, lại phải đi trên con đường này. Hình như rút được kinh nghiệm từ các bậc đàn chị, các cô bao giờ cũng chuẩn bị tư thế đàng hoàn trước khi “vượt trạm”. Thật tội nghiệp cho các cô, không biết phải đi đứng thế nào cho bà Hộ coi được đây!? Nhưng tựu trung cũng chỉ là cái dáng đi phải thật thong thả, chậm rãi từng bước, mắt ngó về phía trước, đôi tay không được quơ tới quơ lui, thân hình phải giữ thăng bằng, không được ẹo qua ẹo lại. Chao ơi! Chỉ có chừng đó thôi mà các cô cảm thấy khó chịu vô cùng, chỉ mong sao thoát được cái trạm là tha hồ mà “cà trững”, đất trời như được mở ra.

Cuộc sống yên vui trong thời bình kéo dài không được bao lâu thì chiến tranh lại bộc phát. Người trong làng, một số bỏ chạy về thành. Một số khác trốn lên rừng. Còn tuyệt đại đa số thì bị dồn vào trong ấp chiến lược, nằm trên tỉnh lộ 8, cách làng tôi chừng ba cây số. Riêng vợ chồng ông Hộ thì vẫn ở lại chỗ cũ, nhất quyết không chịu dời đi. Chính quyền địa phương cũng không làm khó dễ gì, bởi lẽ hai ông bà đã quá già, việc di dời cũng có nhiều khó khăn. Vợ chồng ông Hộ vẫn sống trong ngôi nhà tranh lụp xụp, dột nát đó như hai bóng ma, chìm lỉm trong cái không gian tịch mịch, hoang vắng của một ngôi làng đã bị chiến tranh tàn phá.

Đầu năm 1969, vào những ngày giáp Tết, tình hình chiến sự mỗi ngày một gia tăng. Du kích thường đột nhập vào các ấp chiến lược đóng thuế, thu mua lương thực. Đắp mô, chôn mìn trên tỉnh lộ. Ban ngày, họ ẩn núp vào các khu chồi rậm rạp, bắn tỉa vào các toán quân mở đường. Vì vậy bà con trong ấp ít khi về làng. Một hôm, thím Bảy lẻn về làng để làm một việc gì đó, ghé vào nhà thăm vợ chồng ông Hộ. Khi bước vào sân, thím Bảy thấy ông Hộ ngồi ở bộ ván kê trước hiên nhà, lưng tựa vào vách, hai tay buông thỏng, khuôn mặt đờ đẫn, không còn một chút sinh khí, thân hình chỉ còn da bọc lấy xương. Bộ quần áo ông măc, những miếng vá chằn chịt, lớn nhỏ, đủ màu sắc, phủ lên gần hết nền vải cũ, trông ông giống như một con tắc kè khổng lồ. Khi thấy thím Bảy bước vào, hai giọt nước mắt của ông từ từ lăn xuống hai gò má nhăn nheo, mà tuyệt nhiên không thấy một dấu hiệu nào chứng tỏ là ông đang khóc:
“Bà mầy đi rồi”
Thím Bảy bước vào bên trong. Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc. Thì ra bà Hộ đã chết từ ba hôm trước, nhưng ông Hộ không làm cách nào báo cho bà con trong ấp được, bởi lẽ ông đã quá yếu, chỉ còn đủ sức lê từng bước quanh quẩn trong nhà. Trên đầu nằm bà Hộ chỉ có vỏn vẹn một chiếc đèn hột vịt, vặn thấp ngọn, ánh sáng lờ mờ từ ngọn đèn chiếu ra trong căn phòng tối om, tựa hồ như một nơi âm tào địa phủ nào đó. Thím Bảy nổi tiếng là người dạn gan cũng phải thối lùi từng bước, nghe hơi lạnh chạy tràn xuống sóng lưng.

Hơn một năm sau, ông Hộ vẫn sống thui thủi một mình trong ngôi nhà vốn đã bị dột nát từ lâu. Ngoài chỗ ông nằm, những nơi khác đều bị ẩm ướt. Cuộc chiến mỗi ngày một thêm ác liệt. Bà con trong ấp ít ai dám về làng ngoại trừ có những công việc thật sự cần thiết. Vì vậy, mọi người phải họp nhau mua sắm một số lương thực, thực phẩm dự trử cho ông Hộ. Tuy ông đã yếu, nhưng cũng phải tự lo lấy miếng ăn thức uống cho mình, cũng may là ông không bị đau ốm gì.

Mùa hè năm 1970. Một trận đánh lớn xảy ra ngay trên ngôi làng cũ của tôi. Trận đánh bắt đầu từ lúc nửa đêm cho đến gần giữa trưa hôm sau, phía bên kia mới chịu rút đi. Nhiều phi vụ khu trục được gọi đến yểm trợ cho trận đánh. Hầu như không một địa điểm tình nghi nào mà không bị dội bom. Tỉnh lộ 8 phải mất hai ngày mới khai thông được. Cư dân trong các ấp chiến lược nằm dọc theo tỉnh lộ, ai cũng nơm nớp lo sợ. Một số bỏ chạy về thành, nhưng tuyệt đại đa số vẫn phải bám vào ruộng đất làm ăn, mặc cho bom đạn đe dọa mạng sống từng ngày.
Ba ngày sau trận đánh, bà con trong ấp nhờ ông Năm Dinh về làng xem tình hình ông Hộ ra sao? Khi vào đến làng, ông Năm Dinh chưng hửng. Ngôi nhà ông Hộ không còn thấy đâu nữa. Thay vào đó, một đóng đất cao nghều nghệu nằm choán gần hết miếng đất của ông. Ông Năm Dinh đến gần xem có vết tích gì của ông Hộ còn sót lại hay không? Nhưng tất cả đều bị chôn vùi trong đóng đất khổng lồ do một quả bom xuyên phá hàng trăm cân tạo thành. Mùi hôi thối từ trong đóng đất bốc ra nồng nặc, khiến ông Năm Dinh phải giật lùi bỏ đi.

Cái chết thảm của ông Hộ khiến mọi người trong làng vô cùng thương cảm. Vậy mà cũng có một vài người ác mồm, ác miệng bảo tại ông Hộ lúc sinh tiền làm nghề thiến heo, cái nghề không có đức, nên mới chịu cái quả báo làm vậy. Có người lại bảo chắc vợ chồng ông Hộ hồi còn nhỏ làm nhiều điều thất đức, bị cha mẹ ông bà đuổi đi, nên bây giờ mới ra nông nỗi. Nhưng ai nói gì thì nói, hầu hết bà con trong làng, ai ai cũng thương tiếc ông Hộ, bảo là trong thời buổi chiến tranh thì việc gì mà chẳng xảy ra, chuyện bom đạn banh thay xé thịt con người cũng là chuyện thường, đâu có gì là lạ!

Sau năm 1975, cái hố bom đã biến thành cái ao nước. Một con ểnh ương không biết từ đâu lạc đến đó, đêm đêm gọi tình nghe buồn não nuột. Có người giàu tưởng tượng, bảo là hồn ông Hộ đã nhập vào con ểnh ương, nhớ thương bà Hộ, nên những đêm mưa gió sấm sét đầy trời thì ông hiện hồn về gọi bà.
Không biết linh hồn của hai ông bà còn gặp được nhau ở một nơi nào đó hay không, nhưng chắc chắn một điều là thân xác của ông không bao giờ được nằm bên cạnh bà trong cái mộ mà suốt cả đời hai ông bà dành dụm tạo nên.

Con Quỷ Cái Ở Hồ JP

Lão mê câu cá còn hơn người ta mê đánh bài. Mùa hè, hầu như ngày nào lão cũng ngồi dưới hồ cho đến chạng vạng tối mới chịu trở về. Thường thì lão rất ít đi câu đêm, bởi lẽ đôi mắt lão rất kém. Lái xe đường xa ban đêm lão thường hay lạng quạng, đã mấy lần xuýt xảy ra tai nạn. Thỉnh thoảng lão cũng có theo người ta đi câu đêm ở một vài nơi nào đó, nhưng hôm nay lão quyết định một mình lái xe đi câu ở hồ J.P. lake. Lão tìm một nơi thật vắng vẻ để cắm cần. Hai bên chỗ lão ngồi là những tàn cây lớn. Dưới mấy tàn cây là những lùm bụi rậm rạp. Lão đang say sưa, hồi hộp chờ cá dính câu thì một tiếng động lạ phát ra từ một lùm bụi cách chỗ lão ngồi chừng vài chục thước. Lão dớn dác nhìn về phía đó nhưng chẳng thấy được gì. Ngọn gió đêm không mạnh lắm, thổi đến từng chập, đong đưa mấy cái nhánh là sà trên mặt nước, tạo nên những âm thanh vừa êm ái vừa rờn rợn. Dưới ánh sáng lờ mờ của mấy ngọn đèn câu từ ngoài hồ chiếu vào, lão thấy một bóng người, hình như là bóng của một người đàn bà, mặc đồ trắng, nhỏ con, từa tựa như một người lùn, bò tới bò lui, chập chờn trên mé nước rồi biến mất. Lão đưa tay lên dụi dụi cặp mắt để nhìn cho kỷ hơn, nhưng lão chẳng còn thấy gì nữa.
Vì để hết tâm trí nhìn về phía lùm bụi mà lão quên mất việc trông chừng mấy cái cần. Khi lão sực nhớ, quay lại thì cái cần cắm gần bên lão biến mất. Lão vò đầu, bứt tóc, vừa tiếc con cá vừa tiếc cái cần. Lão đang lớ ngớ không biết phải làm gì thì một loạt âm thanh kỳ quái như tiếng người rên rỉ lại từ lùm bụi phát ra. Lão dồn hết thính lực vào hai lỗ tai, nhưng chẳng còn nghe được gì. Mặt hồ im phăng phắc. Lão nghe lành lạnh ở sống lưng. Lão đưa tay lên xoa xoa trên mí mắt cho thần trí tỉnh táo lại.
Thực ra suốt cuộc đời lão, lão chưa hề tin ma quỷ bao giờ. Từ lúc bước chân vào quân đội, lão luôn luôn phục vụ ở các đơn vị tác chiến. Rừng rú, bụi bờ, mồ mả, không một nơi nào mà lão chưa từng ngủ qua. Lão gặp vô số những chuyện ly kỳ quái đản, nhưng bao giờ lão cũng cho đó là những nhầm lẫn về quang học, hoặc là những sự trùng hợp ngẫu nhiên gì đó thôi.
Lão đang nhìn đăm đăm vào cái bụi chết tiệt kia thì một luồng nước gợn dài ngoài mé hồ từ từ trườn về phía lão, trông giống như một con cá sấu đang tiến vào bờ đớp mồi. Lão lùi lại mấy bước, sẵn sàng tư thế phóng chạy, nhưng không còn kịp. Cái gợn nước đột nhiên nổi lên ào ào, nước bắn lên tung tóe, vụt nhanh về phía lão. Lão bật ngửa về phía sau. Mấy luồng nước mát lạnh trượt qua người lão, mang theo mấy tiếng cạp… cạp… rồi biến mất vào hàng bụi rậm. Lão định hồn, vừa lồm cồm ngồi dậy vừa chủi thề: “Đ.m… nó… mấy con vịt cà chớn”
***
Vợ lão đang loay hoay trong bếp thì có tiếng cửa garage. Bà ra bật đèn lên thì thấy lão uể oải từ ngoài xe lững thững đi vào. Bà hơi ngạc nhiên vì bà rất hiểu tính lão, đi câu ít khi lão chịu về sớm, dù có cá hay không lão cũng mịn riết dưới hồ. Nhưng hôm nay không biết sao, mới mười giờ tối mà lão đã lọt tọt trở về. Nhìn bộ mặt của lão, bà biết ngay lão chẳng câu được con nào. Thực ra bữa nào mà lão trở về tay không là bà mừng thầm trong bụng. Bởi không những bà mà cả đám con cháu trong nhà, chẳng có đứa nào chịu ăn cá hồ. Mỗi khi lão xách cá về là bà phải len lén đem bỏ thùng rác, hoặc đem cho người ta. Hôm nào rủi ro bị lão bắt gặp là lão cằn nhằn suốt ngày. Lão nói: “Cái gì mà dùng tiền để mua thì mới quý, còn cái gì mà mình tự kiếm được là đồ bỏ, đồ vô giá trị, phải biết vậy tôi cho người ta dưới hồ cho rồi”. Lão nói thì nói vậy, nhưng nếu hôm nào vợ lão lấy cá lão câu, nấu nướng đàng hoàng dọn lên bàn thì lão chỉ gắp qua loa một vài miếng, khen lấy khen để mấy câu rồi vừa cười hề hề vừa chìa đũa qua mấy món ăn khác của bà. Sau bữa ăn, bà ngang nhiên lấy mấy con cá lão câu đem bỏ thùng rác mà lão chẳng hề tiếc rẻ chút nào.

Bà bấm cửa garage xuống rồi bước theo lão vào trong. Nhìn bộ mặt tiu nghỉu của lão, bà vừa buồn cười vừa thương hại:
“Ụa, sao hôm nay ông về sớm vậy?”
“Thôi đừng hỏi nữa bà ơi! Tôi không ngờ ở cái xứ văn minh nhất thiên hạ này lại có nhiều ma quỷ đến như vậy, báo hại làm tôi xuýt bỏ mạng, về đến nhà là mừng rồi đó bà”.
“Ông nói cái gì vậy? Ma quỷ ở đâu mà ông gặp?”
“Thì ở dưới hồ J.P chớ ở đâu”
“Mà chuyện thế nào ông nói tôi nghe thử coi”
“Có đứa nào ở nhà không?”
“Không”
“Vậy thì được. Tụi nó còn nhỏ nghe chuyện ma quỷ không tốt, vả lại chuyện này là có thật, chính mắt tôi thấy, không phải nghe người ta kể lại đâu”
Lão vừa nói vừa làm ra vẻ bí mật, cứ vòng vo tam quốc mãi. Bà thì nôn nóng muốn nghe, hối thúc lão liền miệng. Thì ra lão gãi đúng chỗ ngứa của bà. Thật ra không phải đến bây giờ lão mới biết cái tật sợ ma lại thích nghe chuyện ma của vợ lão, mà ngay hồi mới cưới nhau, lão đã phát hiện cái điều này rồi. Khi ấy trong ngăn kéo của bà, lão thấy toàn là những cuốn sách kể về chuyện ma. Rồi sau khi qua Mỹ, mỗi lần bật TV lên mà thấy chiếu phim ma, thì coi như bà đã mở trúng đài, mọi người đành đi chỗ khác chơi!

Lão cà kê dê ngõng một hồi cho đã rồi mới lên giọng tằng hắng:
“Bữa nay tôi gặp một con quỷ cái, nó mặc bộ đồ trắng toát”
Bà vợ lão há hốc mồm:
“Cái gì? Ông gặp quỷ? Nó có làm gì ông không?”
Lão làm ra vẻ quan trọng, nhìn trước nhìn sau, hạ giọng nói:
“Sau khi ngâm mồi xong đâu đấy, tôi ngồi dựa trên ghế chờ đợi, thì một con quỷ cái mặc đồ trắng, để tóc xỏa, cặp mắt đỏ như hai hòn lửa, nhìn tôi rồi thè cái lưỡi dài lòng thòng xuống tới mặt đất. Nó chờn vờn trên nhánh cây, chìa hai hàm răng nhọn hoắc, cười rít rít như người ta dũa răng cưa. Bà ơi! Từ nhỏ đến giờ tôi chưa hề thấy con quỷ cái nào dữ dằn như vậy. Mấy hôm trước tôi còn nghe người ta nói nhiều chuyện về nó nữa nhưng mà tôi không tin…”
“Người ta nói cái gì vậy ông?”
“Ngồi xích ra một chút coi nào. Làm cái gì mà nép nép vào người tôi vậy?”
“Cái ông này, được rồi, nói đi”
“Người ta nói con quỷ này rất thích làm đẹp”
“Cái gì? Quỷ mà cũng thích làm đẹp?”
“Chớ sao. Người ta nói con quỷ cái này mới xuất hiện gần đây thôi. Nó rất thần thông quảng đại, không sợ ánh sáng mặt trời nên ngày đêm gì nó cũng lảng vảng trước mấy cái “mo” hay trước mấy cửa tiệm bán hàng mỹ phẩm, hễ thấy ai mua quần áo hàng hiệu, hoặc loại mỹ phẩm đắc tiền là nó kè theo liền…Nó nhập vào những người đó để dùng chung những thứ đắt tiền, còn những người mua đồ bình thường thì nó không thèm ngó tới đâu”
“Trời ơi con quỷ cái này dễ sợ quá! Để tôi nói với mấy bà bạn đừng mua hàng hiệu nữa”
“Không được. Con quỷ cái này rất ghét những người nhiều chuyện. Nó mà biết được thì không tha đâu”
“Thôi được, tôi không dám nói đâu. Ông à! Tối nay ông cho tôi ngủ trong phòng ông với nghe?”
“Được rồi, muốn ngủ đâu thì ngủ”
Hù vợ lão một hồi cho chừa cái tật phung phí tiền bạc rồi bỏ ra ngoài vừa hút thuốc vừa bụm miệng cười khúc khích: để coi bà còn dám mua hàng hiệu nữa không?

Suốt cả buổi sáng lão cứ thắc mắc mãi về con quỷ cái ở hồ J.P. Bây giờ hồi tưởng lại, lão còn nhớ rất rõ những gì đã xẩy ra vào đêm vừa rồi, một cái bóng trắng toát, lùn chủn, bò qua bò lại trên mé nước rồi biến mất. Lão còn nghe những tiếng động lạ, những tiếng rên è è như người ta bị thắt cổ. Thế rồi cái tính tò mò lại thôi thúc lão. Lão quyết định hôm nay, vào ban ngày, lão phải khám phá cho bằng được cái điều bí mật trong cái lùm bụi kia. Lão chỉ xách theo một cái sô và một cây cần nhỏ, loại dùng để câu mồi giả. Sau khi cẩn thận kiếm một đoạn cây rắn chắc, dài chừng một thước. Lão rón rén tiến đến lùm bụi. Lão vừa đưa tay vén mấy cái nhánh là sà trên mặt nước thì một cái bóng trắng từ trong lùm bụi phóng vút vào người lão, lão ngã bật về phía sau, hồn bay phách tán…

Vợ lão loay hoay trong bếp một hồi rồi bưng ra cho lão một đĩa trứng ngõng, cái nào cái nấy to gần bằng nắm tay. Lão vừa ăn vừa khen ngon rồi lẩm bẩm: Mẹ, con quỷ cái này đẻ trứng to thật…

Cánh Đồng Bao La

Long và Quỳnh dìu nhau đến ngồi trên chiếc cầu gỗ bắt ngang con mương nhỏ ở khu vườn phía sau. Con mương với dòng chảy hiền hòa, êm ả cung cấp nước quanh năm cho hai vụ mùa ở khu vực này. Hai bên bờ mương, lau lách mọc đầy. Những chú cá đủ loại, thỉnh thoảng trồi lên mặt nước đớp mồi tạo nên những gợn song lăn tăn trông rất đẹp. Đây là lần sau cùng họ gặp nhau vì ngày mai Quỳnh phải theo Bác Sĩ Tân về Sài Gòn sau khi lễ cưới hoàn tất. Dưới ánh trăng thu vằng vặc, hai người ngồi sát vào nhau giống như một pho tượng đôi. Ba má Quỳnh là một đôi vợ chồng nông dân nghèo, suốt đời lam lũ trên hai thửa ruộng và một miếng vườn nhỏ bao bọc quanh nhà. Họ luôn ước mơ có một ngày nào đó, đời sống của họ khá giả hơn. Niềm mơ ước đó kéo dài lê thê cho đến một hôm có người mai mối Quỳnh cho Tân, một Bác Sĩ góa vợ, con của một gia đình giàu có ở Sài Gòn. Ông bà Trần mừng húm. Niềm ước mơ của ông bà giờ đây được gởi thác trên người Quỳnh. Ông bà dùng đủ mọi cách để thuyết phục nàng. Cuối cùng Quỳnh cũng phải khuất phục trước quyết tâm sắt đá của ông bà. Nàng đem hết mọi việc kể cho Long nghe. Với bản chất hiền hòa đôn hậu của một chàng trai miệt vườn, Long chỉ biết chấp nhận sự tan vỡ của mối tình đầu như một việc tất nhiên vì gia đình chàng quá nghèo. Sau đêm gặp Quỳnh, Long bỏ lên Sài Gòn vì chàng không đủ can đảm nhìn người yêu của mình lên xe hoa. Long sống lang bạt ở Sài Gòn một thời gian rồi tình nguyện vào quân đội, phục vụ ở một đơn vị tận ngoài Vùng 1 Chiến Thuật.

Cưới nhau gần 2 năm mà Quỳnh và Tân vẫn chưa có mặt con nào. Tân suốt ngày ở bệnh viện. Khi tan sở lại đi đâu đó cho đến gần nửa đêm mới về. Quỳnh thui thủi ở nhà một mình. Nguồn vui duy nhất của nàng là đọc sách. Thỉnh thoảng Tân cũng có đưa Quỳnh đi ăn hoặc dạo chơi ở một vài nơi nào đó, nhưng Quỳnh thừa biết đây chỉ là việc làm bất đắc dĩ của Tân để lấp vào cái khoảng trống giữa hai người. Ngồi một mình ở phòng khách. Cái vắng lặng về đêm trong căn nhà rộng lớn làm Quỳnh rùng mình. Nàng vói tay lấy tờ tạp chí mở ra đọc. Những hàng chữ nhảy múa nhòe nhoẹt truớc mắt Quỳnh. Nàng đưa tay lau nước mắt định trở về phòng thì Tân bước vào:
“Em chưa ngủ à?”
“Em đang chờ anh”
Tân không nói gì thêm, vói tay cầm tờ báo, nhìn thoáng qua rồi lặng lẽ về phòng. Thái độ lạnh lùng, im lặng của Tân càng kéo dài càng làm cho Quỳnh bồn chồn, lo lắng. Quỳnh đang chờ đợi một cái gì đó sẽ xẩy ra sau lần Tân vô tình bắt gặp lá thư của Long gởi cho nàng hồi hai người vừa mới yêu nhau, nhưng đã nửa năm rồi mà chưa thấy Tân tỏ ra một thái độ nào rõ rệt. Cũng với cái vẻ lầm lì cố hữu. Cũng đêm đêm lầm lũi hiện về như một bóng ma.

—o0o—

Ông bà Trần dưới quê lên thăm, đang trò chuyện với Quỳnh ở phòng khách thì Tân bước vào. Nhìn thấy ông bà Trần, Tân chào lấy lệ rồi quay ra cửa đi luôn. Ông bà Trần ngẩn người nhìn Quỳnh. Nàng cúi đầu nói khẽ:
“Ba má về đi”
Ông Trần nhìn Quỳnh với đôi mắt đầy ngạc nhiên, lo lắng:
“Vợ chồng phải hòa thuận với nhau”
Trên chiếc taxi, ông Trần ngồi ở ghế trước đăm chiêu nhìn ra bên ngoài. Bà Trần ngồi băng sau với Quỳnh:
“Hai người xẩy ra chuyện gì vậy?”
Quỳnh nói khẽ vào tai bà Trần:
“Chuyện dài dòng. Vài bữa nữa về thăm nhà, con sẽ nói cho ba má biết”.
Bà Trần biết có hạch hỏi thêm cũng chẳng được gì, nên ngồi yên, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn ra bên ngoài. Cảnh phồn hoa đô hội của Sài Gòn làm bà choáng mắt. Bà thở dài sườn sượt…

Đưa ông bà Trần về xong, Quỳnh ghé qua nhà Loan, một người bạn chí thân từ thời còn đi học. Nhìn vẻ mặt buồn buồn của Quỳnh, Loan ái ngại:
“Có chuyện không vui à? Độ này anh Tân ra sao rồi?”
“Cũng vậy thôi”
Loan nhìn thẳng vào mặt Quỳnh không nháy mắt. Quỳnh bối rối trước cái nhìn quái gở của bạn:
“Làm gì mà mày nhìn tao như muốn ăn tươi nuốt sống vậy?”
“Quỳnh à! Có việc này muốn nói với mày từ lâu, nhưng tao cứ ngần ngại mãi”
“Có gì cứ nói. Bộ mày quên hai đứa mình là cặp bài trùng rồi sao?”
“Anh Tân đã… đã…”
Quỳnh đoán biết Loan muốn nói gì, nhưng nàng tỏ ra vẻ tò mò:
“Nói đi. Sao cứ ấp úng hoài vậy”
“Anh Tân có bồ bên ngoài”
Quỳnh tỉnh bơ như chẳng có gì quan trọng:
“Thì có sao đâu”
“Hả? Chuyện như sét đánh mà mày tỉnh queo. Tao phục mày sát đất rồi đó Quỳnh”
“Thực ra tao cũng biết việc này từ lâu rồi. Có điều tao không muốn làm lớn chuyện. Cứ xuôi theo tự nhiên thì hơn”
Loan giương cặp mắt tròn xoe nhìn Quỳnh:
“Bộ mày điên rồi sao?”
“Thôi tao về”
Quỳnh vừa nói vừa đứng lên bước ra cửa. Loan ngã người trên ghế salon “lẩm bẩm có thiệt không vậy, chồng có bồ khác mà tỉnh queo!…”

Về đến nhà, bước lên lầu, Quỳnh thấy Tân đang ngồi với một người đàn bà trẻ đẹp. Quỳnh khựng lại. Tân vừa dìu người đàn bà đứng lên vừa ném xuống bàn một xấp giấy rồi cả hai cùng bỏ xuống lầu. Quỳnh mở xấp giấy ra xem, thì ra đây là bản sao tập hồ sơ xin ly dị của Tân. Quỳnh lẩm bẩm:
“Việc phải đến cuối cùng rồi cũng đến”
Hồ sơ xin ly dị của Tân được giải quyết êm thắm tại Tòa, vì cả hai đương sự đều không có một khiếu nại nào. Sau phiên tòa vài ngày Quỳnh từ giã Tân về quê sống với ông bà Trần. Ông bà Trần cảm thấy hối hận về chuyện ép hôn nên cư xử rất thân thiện hòa nhã với Quỳnh. Ngược lại Quỳnh cũng tỏ ra vui vẻ cho an lòng cha mẹ trong lúc tuổi già.

—o0o—

Cuối năm 1968, Tân bị động viên vào trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Sau khi học xong chương trình huấn luyện quân sự cơ bản, Tân được chuyển về ngành quân y, phục vụ tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, nhưng mới được 6 tháng thì bị thuyên chuyển ra Vùng I Chiến Thuật, phục vụ tại một bệnh viện dã chiến của Trung Đoàn 51 bộ binh. Từ những năm 70 trở đi, tình hình chiến sự tại Vùng I Chiến Thuật vô cùng sôi động. Trung Đoàn tổ chức hành quân liên miên. Hàng ngày Tân phải tiếp nhận và chữa trị rất nhiều thương binh từ mặt trận chuyển về. Trong số đó, Tân đặc biệt tận tâm chửa trị cho một Thiếu Úy mà chàng đã quen khá thân từ những ngày đầu đáo nhận đơn vị. Tấm thẻ bài khắc tên Phạm Long còn dính đầy máu. Sau một thời gian điều trị, Tân quyết định chuyển Long ra Tổng Y Viện Duy Tân, nơi có đầy đủ phương tiện để điều trị tốt hơn. Một tháng sau Tân ra Đà Nẵng thăm Long.
“Sao ông bạn thấy đỡ phần nào chưa?”
“Đã bớt nhiều rồi. À này Tân. Mày giúp tao một việc được không?”
“Được chứ. Chuyện gì vậy?”
“Nhờ mày viết một lá thư gửi về cho ba má tao. Bàn tay phải của tao bị đơ cứng, không cử động được”
“Yên chí. Nhưng phải viết như thế nào?”
“Tao đọc cho mày viết”
“Đọc đi”

Kính ba má,
Độ này ba má có khỏe không? Ba má nhớ giữ gìn sức khỏe. Phần con vẫn bình thường. Ba má đừng lo gì cả. Ít hôm nữa con sẽ xin phép về thăm ba má. À, Quỳnh độ này ra sao rồi má? Thằng Lượng viết thư cho con bảo là Quỳnh đã ly dị với Bác sỉ Tân, có đúng vậy không má?
Nghe Long đọc đến đây, Tân chợt nhớ đến lá thư Long gởi cho Quỳnh. Chàng thắc mắc tại sao lại có sự trùng hợp lạ lùng thế này? Tân ngừng viết hỏi:
“Này Long. Có phải quê mày ở xã Tân Hoài, Huyện Mỹ Sơn, tỉnh Kiến Hòa không vậy?”
“Sao mày biết?”
“Ờ, hồi nãy tao hỏi Bác Sĩ mày nằm phòng nào, ông ấy có hỏi lại tao quê quán của mày ở đâu”
“Thì ra là vậy”
Tân nhanh trí bịa chuyện thật tài tình khiến Long không còn thắc mắc gì cả. Tân với giọng buồn buồn nói:
“Đọc tiếp đi”
“Tao đọc đến đâu rồi Tân?”
“Ờ… ờ mầy hỏi má mầy, Quỳnh đã ly dị với Bác Sĩ Tân rồi phải không”
“Thôi Tân. Tao thấy hơi mệt. Như vậy cũng được rồi. Mầy ghi địa chỉ này rồi ghé bưu điện gởi đi giùm tao được không?”
“Được. Thôi tao về. Chúc mày mau lành”
Tân nói xong bỏ đi ngay. Bầu trời Đà Nẵng âm u lất phất mưa phùn. Tân lên xe bảo tài xế ghé bưu điện bỏ thư rồi lên đường trở về đơn vị. Đêm đó Tân trằn trọc mãi, không làm sao chợp mắt được. Không lẽ mình còn thương Quỳnh chăng? Không lẽ mình ghen với Long chăng? Tân tự mâu thuẩn với mình. Tân nghĩ về người đàn bà đã xúi chàng ly dị với Quỳnh để làm lại cuộc đời, nhưng khi chàng vào quân đội không bao lâu thì bà ta lại cặp bồ với một Bác Sĩ khác cùng làm chung bệnh viện với chàng lúc trước.

Long xuất viện với đề nghị giải ngũ vì bàn tay phải bị đơ không thể cầm súng được. Long ghé đơn vị để từ giã bạn bè trước khi trở về quê nhà chờ ngày ra Hội Đồng Y Khoa. Long rủ Tân về Hội An uống cà phê. Tân vui vẻ nhận lời. Tân cho tài xế nghỉ phép và chàng tự lái xe cùng Long về Hội An. Thời tiết Quảng Nam Đà Nẵng vào mùa này lúc nào cũng mưa lâm râm, gió thổi nhè nhẹ tạo thành một không gian u ám, buồn tẻ. Ngồi trên xe, Long nói luôn miệng còn Tân thì chỉ ậm ờ cho qua chuyện. Thành phố Hội An chìm trong lớp mưa phùn dày đặc. Tân cho xe đậu lại trước một quán cà phê. Chủ quán là một góa phụ tuổi chừng ba mươi, khá đẹp. Nghe nói chồng bà ta đã chết trong trận Mậu Thân, để lại cho bà cái quán cà phê này.
“Cô em cho ly cà phê đen”
Cô chủ quán trề môi. Vành môi đỏ hồng trông rất khiêu gợi.
“Ê! Gọi chị đàng hoàng nghe không?”
“Nhưng em lỡ yêu chị rồi làm sao đây?”
Thì ra Long thường “chuồn” về Hội An ghé quán cà phê này tán gẫu. Khác với bản tính đôn hậu thư sinh khi còn ở quê nhà, Long có vẻ sỏi đời hơn nhiều. Long hỏi Tân uống cà phê gì. Tân trả lời lập lờ cà phê gì cũng được. Tân thả khói thuốc thành những vòng tròn trông rất đẹp. Bà chủ quán bưng hai ly cà phê đặt trước mặt hai người rồi nhìn Long nguýt một cái. Đây là cách câu khách của những bà chủ quán dày dạn trong nghề. Long vừa nhâm nhi cà phê vừa kể cho Tân nghe về mối tình đầu của mình ở quê nhà.
“Mày biết không. Tao và Quỳnh yêu nhau thắm thiết. Cứ tưởng sẽ ăn đời ở kiếp với nhau. Nào ngờ có thằng Bác Sĩ mắc dịch ở Sài Gòn cướp mất”
“Vậy mày có hận ông ta không?”
“Hận làm mẹ gì. Đời là vậy đó. Con chim trong lồng, con cá trong chậu có khi còn bị vuột mất, huống chi…”
Long nói đến đây bỗng khựng lại. Nét mặt chàng biến đổi thật nhanh. Ngoài trời cơn mưa phùn vẫn bay lất phất trong gió. Long nhìn ra ngoài thở dài sườn sượt. Tân biết rõ tâm trạng của Long nên cố tình lảng sang chuyện khác:
“Khi nào mày về Kiến Hòa cho tao gởi lời thăm mấy người bạn của mày nghe”
Long nhìn châm bẩm vào mặt Tân:
“Bạn tao mắc mớ gì đến mày mà gởi lời thăm?”
Tân ú ớ:
“Ừ, thì tao coi mấy đứa con gái làng mày như những em gái hậu phương của tao thôi mà”
Long không nói gì thêm. Nét mặt chàng u ám như cơn mưa phùn đang bay lả tả bên ngoài song cửa. Long nhớ đến Quỳnh. Những kỷ niệm của mối tình đầu luôn ám ảnh đến tâm tư tình cảm chàng. Long nhìn Tân với giọng buồn buồn:
“Ngày mốt tao lên máy bay. Không biết bao giờ mới gặp lại mày. Súng đạn vô tình, mày nhớ cẩn thận đấy”
“Rất tiếc tao không thể đưa mày ra Đà Nẵng được. Mày biết mà, không có phép làm sao vắng mặt qua đêm được. Hơn nữa dạo này các đơn vị đụng độ thường xuyên nên tao phải có mặt ở đơn vị để chăm sóc thương binh. Tao nghĩ nếu mình có duyên thì sẽ gặp lại nhau thôi”
Long gọi bà chủ tính tiền rồi cùng Tân ra xe. Tân cho nổ máy, bắt tay Long lần cuối rồi nhấn ga, chiếc xe trườn lên phía trước, bỏ lại một nhụm khói từ từ tan đi trong lớp bụi mưa phùn.

–o0o–

Quỳnh đang lui cui quét dọn ở sân trước, bất chợt thấy Loan từ ngoài cổng đi vào. Quỳnh vừa ngạc nhiên vừa mừng. Nàng ném cây chổi trên tay, chạy vội ra ôm lấy Loan. Hai người mừng mừng tủi tủi sau bao tháng trời xa cách. Hai người nắm tay nhau đi vào nhà. Ông bà Trần cũng rất vui, hỏi Loan đủ thứ chuyện. Thăm hỏi ông bà Trần xong, Loan kéo Quỳnh ra vườn sau, lục bóp lấy ra một phong thư đưa cho Quỳnh nói mày đọc đi. Tao dạo vườn mày một chút. Quỳnh ngồi xuống chiếc sạp gỗ kê dưới tàn cây, chậm rãi đưa phong bì lên xem. Nàng ngẩn người khi thấy ba chữ Huỳnh Quang Tân hiện ra trước mắt. Nàng do dự một chút rồi mở phong bì ra xem. Bức thư chỉ võn vẹn mấy dòng:
“Quỳnh ơi, Anh không dám nghĩ đến việc nối lại nhịp cầu đã gẫy. Anh chỉ cầu xin em tha thứ sự lỗi lầm của anh. Long, bạn anh sắp được giải ngũ và sẽ trở về quê nhà trong nay mai. Hy vọng hai người sẽ nối lại duyên xưa… Tân”
Đọc xong thư, một quá khứ đau buồn trổi dậy phủ kín tâm hồn Quỳnh. Nàng uể oải đứng lên, từng bước đến đưa bức thư cho Loan xem. Loan hỏi:
“Mày nghĩ thế nào?”
“Chuyện đã thành quá khứ rồi”.

—o0o–

Từ ngày trở về sống ở quê nhà, chiều nào Quỳnh cũng thả bộ trên con đường mòn râm mát xuyên qua mấy khu vườn dẫn ra cánh đồng phía trước. Cỏ cây, hoa lá, chim muông hai bên đường quyện lấy nhau hài hòa dưới ánh nắng chiều dìu dịu khiến Quỳnh vơi đi phần nào nỗi buồn trong quá khứ. Quỳnh đang thả nhẹ từng bước, chợt nghe tiếng chân người phía sau. Nàng quay lại, sững sờ khi nhận ra người đối diện mình là Long. Cũng với nụ cười nửa vui nửa buồn cố hữu, Long khẽ hỏi:
“Em khỏe không?”
“Dạ cũng được”
“Anh sắp được giải ngũ và sẽ về đây ở luôn”
“Em có nghe lờ mờ về việc anh bị thương. À, chắc anh biết em và Tân đã ly dị?”
“Nghe ba má anh nói”
“Thời gian trôi mau quá. Mới đó mà đã gần hai năm!”
“Ừ, gần hai năm rồi em nhỉ?”
Buổi chiều ở thôn quê thật êm ả. Hai người tiếp tục hướng về phía trước, sánh vai bên nhau trên con đường nhỏ xuyên qua cánh đồng lúa non xanh rờn bao la bát ngát.

“… Tình ngỡ đã phôi pha
Nhưng tình vẫn còn đầy
Người ngỡ đã đi xa
Nhưng người vẫn quanh đây…”
Trịnh Công Sơn

Ngôi Nhà Ma
* Bút ký

Gia đình tôi tổ chức đi nghỉ mát ở Navaree beach thuộc Tiểu bang Florida. Từ chỗ tôi ở đến khu nghỉ mát này phải mất trên 10 tiếng lái xe. Để có một ngôi nhà rộng và đầy đủ tiện nghi cho cả gia đình, chúng tôi phải book từ nửa năm trước. Khi đó chúng tôi rất cẩn thận, xem xét từng phòng trên trang quảng cáo nhưng khi đến nơi, chúng tôi mới bật ngữa vì ngôi nhà quá cũ kỹ bệ rạc. Cảm giác đầu tiên của chúng tôi thì đây là một ngôi nhà hoang vì cái vẻ hoang dã của nó. Nhưng công bằng mà nói, ngôi nhà này rất đầy đủ tiện nghi. Từ nhà bếp đến các phòng ốc, mỗi nơi đều thiết trí đầy đủ những thứ cần dùng, có điều mọi thứ đều cũ rích. Ngôi nhà 3 tầng rộng lớn này cũng có thiết kế thang máy, nhưng chả đứa nào dám xử dụng vì nó quá bệ rạc.

Cả đám con cháu bu lại nhà bếp tán gẫu, chê cái này khen cái nọ, ồn ào như cái chợ chồm hổm. Riêng đứa cháu lớn của tôi thì tới kệ sách tò mò lục lạo tùm lum; Thấy trên kệ một quyển sổ dày, ngoài bìa có dòng chữ: “lưu bút của quý khách”; Mở ra xem được vài trang, bỗng dưng nó thét lên “nhà có ma” rồi ném quyển sổ xuống đất, hớt hơ hớt hãi, vừa chạy vừa la lớn “nhà có ma… nhà có ma”.
Đứa con út tôi bước tới nhặt quyển lưu bút lên đọc “Nhà này có ma. Các bạn cẩn thận. Tôi sẽ cầu nguyện cho các bạn và những người đến sau luôn được bình an”. Lời lẽ trong cuốn lưu bút của một người nào đó làm cho cả nhà nhốn nháo bất an. Chúng nó tụ tập nhau bàn ra tán vào đủ thứ. Bà vợ tôi cũng hùa theo bọn chúng, chỉ có tôi là người duy nhất không bao giờ tin có ma.

Sau khi thu xếp mọi thứ, tôi đi ra biển xem nó đẹp xấu thế nào. Lúc đó là giữa trưa, tôi lại quên đeo kính mát, nắng biển chói chang làm tôi khó chịu nên quay trở về. Khi bước vào cầu thang để lên lầu thì một hiện tượng rất lạ hiện ra trước mắt. Toàn bộ phần nền của cầu thang hiện lên một màu xanh lung linh rất đẹp. Vì ánh hào quang này che khuất tất cả các bậc thang nên tôi phải dò dẫm từng bước để lên lầu. Khi bước vào sàn lầu, tôi quay lại nhìn thì không còn thấy gì nữa. Tôi giấu bưng chuyện này vì ngại tụi nhỏ hoang mang lo sợ. Cũng ngày hôm đó, một hiện tượng lạ nữa lại hiện ra trước mắt tôi. Ở tầng trệt ngôi nhà có trưng bày một pho tượng trẻ con làm bằng thạch cao. Pho tượng cao chừng 2 tấc, được đặt trên nóc cái tủ sơn màu đen. Chiếc tủ được thiết kế theo mô hình thời trung cổ. Tấm ván phía sau nhô cao khỏi mặt tủ chừng 5 tấc. Bức tượng được đặt tựa lưng vào đó.
Tối đến tôi xuống tầng trệt, nơi đặt pho tượng, ngồi hóng gió biển, bất chợt tôi thấy lạnh cả người vì pho tượng không biết tại sao lại quay mặt vào bên trong. Sự kiện pho tượng ngày quay mặt ra ngoài, đêm quay mặt vào trong diễn đi diễn lại mấy lần trước khi nó đứng yên trong vị thế bình thường.
Đêm đầu tiên không thấy có hiện tượng gì khác thường xảy ra ngoài cái pho tượng trẻ con và vùng ánh sáng màu xanh mà tôi vừa kể. Mọi người đều ngủ ngon lành sau một chuyến hành trình dài hàng trăm cây số.
Mặt trời lên cao. Tôi đưa mắt nhìn về phía biển. Mặt biển hiền khô. Đã có một số người căn lều trên nền cát trắng phau. Tôi nghĩ thầm: bãi biển này đẹp thật!…

Vừa bước vào nhà bếp, bà vợ tôi chạy tới nắm tay tôi vừa kéo vừa nói:
– Không xong rồi Ông ơi.
Tôi hỏi:
– Cái gì mà không xong?
– Nhà này có ma.
Thì ra cả đám con cháu tôi tụ tập nghe Kim An (con gái lớn của tôi) kể lại chuyện kỳ lạ mà nó thấy trong đêm vừa qua. Nó nói:
– Thật mà Ba. Khi để đèn ngủ thì thấy một thằng Mỹ con lượn qua lượn lại dưới chân giường. Khi bật đèn sáng lên thì không thấy gì cả. Con thấy rõ ràng. Không phải bịa đặt đâu.
– Được rồi, đừng nói bậy nữa. Coi chừng mấy đứa nhỏ sợ không dám ngủ đó.
Kim Hằng, đứa con thứ hai của tôi xen vào:
– Thiệt đó Ba à. Bà An sợ không dám ngủ, chạy sang phòng con. Bả thót lên giường kéo mền phủ kín mít, bả nói “Tao gặp ma đó Hằng”. “Tào lao, thời đại này làm gì có ma. Bà kéo hết mền lấy gì tôi đắp?”. “Mày năm không cũng được mà”
Tôi hỏi:
– Rồi sao nữa?
– Ba à! Lúc đầu con tưởng bà An nói láo chọc con, nào ngờ vừa tắt đèn, con thấy thằng bé Mỹ trắng ngồi trên chiếc ghế vừa nhìn con vừa thòng đôi chân xuống, đu đưa qua lại, trông thật dễ sợ. Con sợ quá nên kéo bà An xuống nhà bếp ngủ đó Ba.
Tôi nạt:
– Đừng nói bậy. Sửa soạn đồ ra biển chụp hình.
Cả đám riu ríu về phòng, mặt đứa nào cũng căng thẳng. Tôi thầm nghĩ “Chắc cái đám lu bu này không dám nói láo với mình đâu…”

Con út tôi là đứa dạn nhất trong đám. Nó kéo tôi ra ngoài hỏi nhỏ:
– Ba có lên mở cửa phòng con không vậy?
Tôi cười hỏi:
– Bộ mày cũng thấy ma nữa hả?
– Ba à! Hồi đi ngủ, Andy khóa cửa kỹ lắm, không biết sao sáng dậy con thấy 2 cánh cửa mở toang hoác. Con lấy làm lạ nên hỏi hết cả nhà nhưng không ai mở cả.
Bây giờ tôi mới kể về 2 hiện tượng “ánh hào quang” ở thang lầu và “pho tượng trẻ con” làm bằng thạch cao cho con Út nghe. Nó nói:
– Chắc nhà này có ma thiệt đó Ba.
Tôi trấn an:
– Có lẽ do một sự nhầm lẫn gì đó. Ba tin chắc không có ma quỷ gì đâu.

Sau những hiện tượng lũ con tôi kể, cho dù không tin có ma, tôi cũng không cách nào giải thích được. Đến ngày thứ ba, một hiện tượng lạ nữa lại xẩy ra. An là người con lớn, nên lúc nào cũng thức khuya để dọn dẹp mọi thứ sau một ngày sinh hoạt. Ở tầng trệt ngôi nhà là một khu giải trí không có vách che. Gió biển thổi vào mát rượi. Chống đỡ ngôi nhà là những cây cột khổng lồ, chạm trổ những hình thù quái dị. Như những ngày trước, An sắp xếp ngăn nắp những đồ chơi của mấy đứa nhỏ vào một nơi, nhưng sáng hôm sau, con An hô hoán lên “Ai bày đồ chơi mấy đứa nhỏ tùm lum vậy?” Mọi người nhìn nhau, lắc đầu lia lịa.
Tôi trấn an:
– Chắc là gió lớn thổi chúng bay lung tung đó mà.
Mặc dù nói vậy nhưng tôi vẫn không tin lời nhận xét của mình. Gió nào thổi bay nổi mấy món đồ chơi đó! Đầu óc tôi rối tung, nhưng vẫn không tìm ra một lời giải thích nào hợp lý hơn.

Sau hai hiện tượng kỳ lạ này thì đám lu bu sợ hãi ra mặt, nhưng càng sợ thì chúng càng tụ họp nhau bàn tán… Không biết chúng có thêm bớt gì không nhưng tôi thì lúc nào cũng giữ im lặng với những ý nghĩ vô cùng phức tạp hiện ra trong đầu.

Như thường lệ con gái lớn tôi là người ra về sau cùng vì còn kiểm tra kỹ lưỡng coi có đồ đạt của ai bỏ quên hay không? Trong lúc nó đang loay hoay dọn dẹp trong nhà thì có tiếng gõ cửa. Nó mở cửa ra nhưng không thấy ai hết. Chồng nó và mấy đứa con đang ở ngoài “ban công” tầng lầu 3 thả diều. Nó trở vào tiếp tục dọn dẹp thì có tiếng điện thoại reo ở tầng dưới. Nghi là ai đó trong gia đình bỏ quên điện thoại nên xuống đó tìm nhưng không thấy gì. Nó sợ quá nên kêu chồng con nó đi về. Khi xuống tới tầng trệt thì chúng phát hiện tất cả những cánh cửa chính đều mở toang ra, mặc dù tôi là người đích thân đóng kỹ những cánh cửa này trong lúc mấy đứa nó còn đang ngủ say. Sau khi nghe con An kể qua điện thoại, tôi liền bảo nó phải rời khỏi ngôi nhà lập tức, mặc dù còn một vài công việc phải làm trước khi trả nhà để người ta khỏi đánh giá thấp người Việt Nam mình.

Navaree Beach, ngày 20 tháng 8 năm 20014
Nguyễn Đức Nhơn

Ông Hai Sẹo

Ông Hai Sẹo ngồi trên chiếc chiếu cũ, trải ngay trên lề con hẻm dẫn đến nhà em gái tôi. Ông chỉ mặc một chiếc quần đùi, tay cầm cây quạt bằng lá buông, vừa phe phẩy cho mát vừa đập mấy con ruồi. Rất hiếm thấy Hai Sẹo ngồi uống rượu với bạn bè. Thường thì ông ngồi một mình với một xị rượu và một dĩa mồi nhỏ. Ông rất dễ dãi với mọi người, kể cả đám trẻ con thường hay nghịch ngợm, phá phách. Người ta gọi ông là Hai Sẹo vì trên mặt ông có hai vết sẹo nhỏ, còn tên thật của ông là gì thì không ai biết. Con hẻm nằm trong khu vực thành Ô Ma. Một số gia đình bỏ quê chạy về Sài Gòn kiếm sống. Họ đến đây dựng những căn lều nhỏ, nằm sát nhau. Lúc đầu độ chừng vài chục gia đình, nhưng dần dần, cả con hẻm không còn chỗ nào trống. Ban ngày, khu nhà ổ chuột này chỉ thấy trẻ em và người già. Chiều tối con hẻm mới trở nên ồn ào đông vui. Ông Hai Sẹo là người sau cùng đến cắm dùi ở khu ổ chuột này. Ông sống hòa đồng, cởi mở, vui vẻ với mọi người nên chẳng ai buồn để ý, tò mò, tìm hiểu đời tư của ông làm gì. Chỉ biết ông là người miệt lục tỉnh và đến sống ở đây một mình. Nghe nói ông làm công nhân khuân vác cho một kho hàng xuất nhập cảng tận trong Chợ Lớn. Có lẽ vì vậy mà người ta chỉ thấy ông xuất hiện vào buổi chiều, khi thành phố sắp lên đèn.
Có một điều trùng hợp khá lý thú, ở con hẻm này cũng có một ông tên là Hai Sẹo. Nhưng cái tên Hai Sẹo này được xác định lý lịch hẳn hoi, gần như mọi người ở đây đều biết rõ về cái quá khứ của lão. Để dễ phân biệt, tôi xin tạm gọi lão là ông Sẹo Ngực, bởi vì hai vết sẹo của lão nằm trong ngực, chéo lên nhau, hình như do bàn tay con người chứ không phải do một tai nạn nào đó gây ra. Mỗi lần uống rượu cao hứng, lão thường vạch áo ra và dõng dạc “tuyên bố”, thằng Hai Sẹo này không ngán ai đâu. Bọn lính tao còn không coi ra gì ờ… ờ…
Có lần ngang qua chỗ Hai Sẹo ngồi uống rượu, lại nhầm lúc lão Sẹo Ngực vừa vạch áo vừa la lối om sòm, ông Hai Sẹo nhìn tôi phân bua, cái quá khứ của hắn thúi hơn cứt, khai hơn nước đái mà lúc nào hắn cũng vạch áo ra cho thiên hạ xem. Ông trời cũng trớ trêu thật. Hai cái sẹo của hắn đáng giấu, hắn lại cứ khoe ra. Còn hai cái sẹo của tôi, nói thiệt nghe, nó rất xứng đáng được khoe ra, nhưng tôi muốn giấu lại không làm cách nào giấu được, hề… hề…, Ồ sẵn dịp, ngồi xuống làm một cốc chơi anh Hai.
Tôi ngồi xuống ở một góc chiếu nói cảm ơn. Ông Hai sẹo cầm xị rượu rót vào cái chén nung bằng đất sét. Nét mặt ông thoáng một chút vui. Tôi nóc cạn chén rượu rồi nói bâng quơ, không cần đâu. Ông Hai Sẹo nhìn chăm bẵm vào mặt tôi cất cao giọng nói, sao không. Tôi ngước mặt nhìn trời. Bầu trời trước mắt tôi dường như bị thu hẹp lại thành một vệt sẩm đục vắt ngang đỉnh đầu. Tôi thở dài sườn sượt nói, ở đời ai cũng có một vết tích gì đó để giấu và để khoe. Có người, vết tích hằn rõ bên ngoài. Có người lại chìm khuất bên trong. Nhưng dù trong, dù ngoài, dù xấu, dù đẹp gì rồi cũng khổ vì nó thôi. Ông Hai Sẹo dương cặp mắt sáng quắc nhìn tôi nói, có chút triết lý. Tôi nói, hình như vậy. Ông Hai Sẹo tò mò, anh nói giống như anh cũng có một vết sẹo đang nằm đâu đó. Có chứ. Nó nằm trong tim tôi. Ông Hai Sẹo nhìn theo một người đàn bà vừa mới ngang qua, miệng lẩm bẩm, cũng tại đàn bà cả. Ông chép chép miệng rồi quay qua tôi nói, ồ vậy thì không cần phải bận tâm. Không ai nhìn thấy được đâu… ờ… ờ… mà anh cũng không làm cách nào banh nó ra để khoe với thiên hạ được… hề… hề. Tôi nói, không phải thiên hạ mà là một người. Một người đàn bà. Đúng. Ông nói đúng. Là một người đàn bà. Vết sẹo trong tim tôi do bà ta gây ra nhưng chính bà ta cũng không hề hay biết. Còn tôi thì cho đến bây giờ vẫn không đủ can đảm mổ ngực mình ra cho bà ấy xem! Thôi nhé. Cám ơn cốc rượu. Chào.
Đèn đường bật sáng. Con bóng của tôi ngã dài trên mặt đường loang lỗ dẫn đến cuối con hẻm, và đó là lần sau cùng tôi ngang qua con hẻm này. Mãi về sau, tôi mới có dịp ghé ngang thành Ô Ma, nhưng con hẻm lúc này chỉ còn những cột đèn, những đống rác, và vài ba con chó đói cụp đuôi bỏ chạy khi nhìn thấy tôi…

—o0o—

Dòng đời trôi tuồn tuột trên mỗi số phận con người. Không ngờ tôi lại gặp ông Hai Sẹo ở cái thị trấn buồn hiu này. Ông đã già đi nhiều, làm nghề hớt tóc. Tôi ngạc nhiên, ồ! ông Hai Sẹo, ngọn gió nào thổi ông tắp vào cái thị trấn nhỏ bé này vậy? Không phải gió mà dòng đời. Tôi thở dài nói, ờ đúng há. Mà này ông Hai Sẹo, ông có biết là mỗi con người sống trên đời này đều chuẩn bị cho mình một lối thoát không? Ông Hai Sẹo dừng tay nhìn tôi nói, nhưng dường như không mấy ai thoát thân từ cái lối do mình chọn sẵn!… Ông khách ngồi chờ hớt tóc xen vào, hai ông nói điều khó hiểu. Tôi thì cho rằng cái lối thoát duy nhất của con người đều được định sẵn bởi một đấng tối cao nào đó. Thấy cuộc đối thoại sắp đi vào một đề tài mà cả đời tôi luôn né tránh. Tôi vội đứng lên nói này ông Hai Sẹo lâu ngày gặp nhau có muốm đến nhà tôi sương sương một chút không ? Nhưng tôi không biết nhà ông ở đâu. Ông chờ đây, 6 giờ tôi đến đón…

Nguyễn Đức Nhơn

1 32 33 34