Trang Chính
VĂN
Ngộ Nhận
Nguyễn Đức Nhơn
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Sau 2 lần bị vợ bỏ, ông Vượng ghét cay ghét đắng đàn bà. Ông thường nói với bạn bè, tao thà ở vậy suốt đời chứ không bao giờ đụng tới cái thứ “hồng nhan họa thủy” ấy nữa đâu. Ông Vượng “tuyên bố” có vẻ cương quyết lắm… nhưng chưa đầy một năm ông lại bê một bà sồn sồn ở Tân Bình về làm vợ. Từ đó ông không còn ghét đàn bà nữa. Ông nói “không có đàn bà như nhà không có nóc”. Bạn bè chế giễu, ông chỉ cười trừ…
* * *
Sau một ngày tán dóc với người bạn già trong Chợ Lớn, ông Vượng đón xe bus trở về nhà. Khi chiếc xe dừng lại ở một trạm đưa đón khách. Bà khách đầu tiên xuống xe, vô ý bước ra đường bị một chiếc xe gắn máy húc bà ngã ra bất tỉnh; cũng may, những chiếc xe chạy sau kịp thời thắng lại. Ông tài xế nhảy xuống xe bê bà khách vô lề đường. Bà nằm bất tỉnh. Những người khách bu lại xem, có người đề nghị chở bà ta vào bệnh viện cấp cứu ngay, nếu không cứu chữa kịp thời thì nguy lắm. Ông Vượng với nét mặt khẩn trương, bước tới bê bà khách chạy đến chiếc taxi bảo tài xế chạy đến bệnh viện. Khi đến nơi, cô y tá ghi vội một vài chi tiết về tai nạn, hồ sơ cá nhân và địa chỉ ông Vượng rồi bỏ chạy theo mấy cô y tá đang đưa bà Hương vào phòng cấp cứu. Ông Vượng thấy không còn ai đếm xỉa gì tới mình nữa nên cũng bỏ ra đường đón taxi trở về nhà.
* * *
Sau khi tỉnh lại, bà Hương muốn gọi cho người nhà biết mình bị tai nạn nhưng điện thoại của bà bị rớt đâu mất, kể cả cuốn sổ ghi số điện thoại gia đình cũng mất luôn. Bà không cách nào liên lạc được với gia đình. Bà nghĩ chắc phải xin bác sĩ cho xuất viện trở về nhà để mọi người khỏi lo lắng.
Bà Hương chờ bác sĩ khám xong liền nói xin bác sĩ cho tôi xuất viện. Tôi có việc cần về nhà. Ông bác sĩ trả lời, cần phải ở lại bệnh viện thêm vài ngày nữa để xem có biến chứng gì không. Thế là bà Hương phải ở lại bệnh viện đến ngày thứ ba mới làm thủ tục xuất viện. Cũng trong ngày này, ông Vượng nhận được giấy mời của bệnh viện. Khi đến văn phòng, cô y tá bảo ông theo tôi. Ông Vượng không biết cô ta đưa mình đi đâu nhưng cũng lủi thủi bước theo. Đến một căn phòng ở tầng lầu 2. Cô y tá đẩy cửa bước vào. Ông Vượng cũng vào theo… Đứng xớ rớ trong phòng một hồi mà chẳng thấy ai hỏi han gì đến mình, nên ông Vượng bỏ ra ngoài đứng nhìn mấy cô y tá đang đùa giỡn với nhau.
Bà Hương thấy cách ăn mặc của ông Vượng không giống người làm trong bệnh viện. Bà hỏi cô y tá, “ông ở ngoài đó là ai vậy?” Cô y tá giương cặp mắt tròn xoe hỏi ngược lại, “Ông ấy không phải chồng bà sao?” “Không, tôi có chồng con gì đâu!” Cô y tá bước nhanh ra ngoài hỏi ông Vượng, “Bà ở trong phòng có phải là vợ ông không?” “Không! Tôi là khách của cùng chuyến xe buýt, thấy bà ta bị xe đụng bất tỉnh nên tôi đưa bà vào đây, có vấn đề gì không vậy?” Cô y tá há hốc mồm, than nhỏ “chết rồi, hỏng bét rồi, tất cả hồ sơ bệnh án của bà Hương đều ghi ông Vượng là chồng của bà. Bây giờ làm thủ tục xuất viện thì phải làm thế nào đây?!!!” Cô y tá trở vào phòng, bà Hương hỏi nhanh, “có phải ông ấy đưa tôi đến đây không?” Cô y tá trả lời, “phải, vậy nhờ cô mời ông ấy vào đây, tôi muốn nói chuyện với ông ta một chút.” Cô y tá trở ra nói, “mời ông vào phòng, bà Hương muốn nói chuyện với ông.” Khi ông Vượng bước vào, bà Hương nở một nụ cười thật tươi nói, “chào anh, cám ơn anh đã đưa tôi đi cấp cứu. Bây giờ bệnh viện gặp phải một việc rắc rối, không biết anh có vui lòng giúp họ không?” Ông Vượng nói, “được chứ, miễn đừng làm điều gì trái với pháp luật là được thôi. Nhưng không biết tôi giúp được gì cho bệnh viện đây?” Bà Hương nói, “xin anh đóng vai chồng tôi để ký vào hồ sơ bệnh án của tôi được không?” Ông Vượng suy nghĩ một chút rồi trả lời, “làm vậy là phạm pháp đó!” “Xin phép anh, hiện giờ anh đang ở với vợ con phải không?” “Tôi có vợ con gì đâu. Lâu lắm rồi, tôi cũng có hai bà vợ nhưng cả hai đều bỏ tôi ra đi, chắc tôi không có duyên với đàn bà!” “Ồ! Vậy là tốt lắm rồi. Tôi cũng là một góa phụ, chồng tôi đã chết từ lâu. Bây giờ chúng ta là hai người độc thân, làm vợ chồng giả để anh ký vào hồ sơ bệnh án, nếu xui xẻo bị đổ bể thì chúng ta làm cái kế ‘lộng giả thành chơn’, biết chừng đâu đây là một chuyện tốt phải không anh?” Thấy ông Vượng đứng trơ người như kẻ mất hồn. Bà Hương nói tiếp, “anh yên tâm, nhà nước không rảnh để lo ba cái chuyện lặt vặt này đâu!” “Thôi được tôi ký!” “Cảm ơn anh nhiều.” Bà Hương quay qua cô y tá bảo cô đưa giấy tờ cho ông ấy ký. Ông Vượng ký vào hồ sơ bệnh án xong, hai người từ giã nhau mà quên mất việc trao đổi số điện thoại để liên lạc với nhau sau này…
* * *
Một sáng mùa thu trời se se lạnh. Sài Gòn với nhịp sống thường ngày của nó, vẫn nhộn nhịp ồn ào xe cộ ngược xuôi. Ông Vượng đang thả bộ trên đường Lê Lợi, bất chợt nghe tiếng gọi mình phía sau. Ông quay lại, sững sờ khi nhận ra bà Hương với một nụ cười thật tươi nói chào anh. Ông Vượng với nét mặt buồn buồn nói sau vụ ngộ nhận ở bệnh viện tôi muốn gặp lại chị nhưng thành phố Sài Gòn rộng lớn, người đông như kiến dễ gì gặp lại nhau. Nhưng không ngờ hôm nay lại gặp chị, tôi cứ tưởng mình đang nằm mơ…
* * *
Ông Vượng và bà Hương tuy là một cặp vợ chồng chắp nối, tuổi tác cũng đã cao nhưng là một cặp vợ chồng chung sống với nhau vô cùng hạnh phúc. Ông Vượng thương bà Hương rất mực. Không cho bà làm bất cứ việc gì. Ông nói, “em không cần làm gì cả, mọi việc đã có anh.” Một hôm, bà Hương nói với ông Vượng, “em muốn lên Đà Lạt thăm một người bạn.” Ông Vượng ngạc nhiên hỏi, “người bạn nào của em sao lâu nay không nghe em nhắc tới vậy?” “Chỉ là người bạn thường thôi có gì quan trọng đâu mà phải nói với anh.” “Vậy em tính chừng nào đi?” “Thứ hai tuần sau lúc 9 giờ, em mua vé máy bay rồi.” Ông Vượng với nét mặt buồn buồn nói, “vậy cũng tốt, đi chơi cho thong thả, ở nhà hoài dễ sinh bệnh…”
Tuy không phản đối nhưng ông Vượng nghi ngờ rất nhiều về chuyến đi này của bà Hương. Trước đây một tuần, ông Vượng tình cờ thấy một bức điện thư ở dưới gối nằm của bà Hương. Đây là bức điện thư của một người nào đó viết cho bà từ Đà Lạt… “Em thu xếp lên Đà Lạt chơi, mùa này Đà Lạt đẹp lắm.” Ông Vượng đọc đi đọc lại nhiều lần bức điện thư nhưng không thấy có điều gì mờ ám; tuy nhiên, có một điều hơi lạ, tại sao người viết bức điện thư này lại ca tụng “Đà Lạt mùa này đẹp lắm” trong khi thành phố này đang chìm vào một mùa đông giá buốt. Nếu nghĩ xa hơn một chút thì bức điện thư này là một mật lệnh?!!!…
* * *
Ông Vượng bỏ giờ làm ở hãng đến phi trường không phải để đưa bà Hương lên máy bay mà để xem ai là người hò hẹn với bà trong chuyến đi này. Ông Vượng nhìn chăm chăm vào hàng người đang chờ nhân viên phi trường kiểm tra giấy tờ trước khi vào phòng đợi lên phi cơ. Bỗng ông Vượng thấy bà Hương đang chuyện trò vui vẻ, thân mật với một người đàn ông lạ mặt. Ông liền nổi trận lôi đình chạy đến đấm lia lịa vào mặt người đàn ông. Cảnh Sát đến kịp thời còng tay ông Vượng và giữ luôn người đàn ông và bà Hương để điều tra sự việc.
Ở phòng làm việc sở cảnh sát, cô điều tra viên hỏi vì sao ông đánh người ta? Ông Vượng trả lời, “tôi không nhịn được hành vi bỉ ổi của hắn, đang o bế dụ dỗ vợ tôi.” Cô điều tra viên hỏi tiếp, “ông có biết hành vi đánh người là phạm pháp không?” “Tôi biết, nhưng lúc đó tôi không kiềm chế được khi thấy có người ve vãn vợ mình!!!” “Thôi được. Chúng tôi tạm giữ ông để chờ ngày ra tòa. Cũng may ông không gây thương tích gì cho đối phương.”
Một tuần sau ông Vượng được trả tự do vì có người bảo lãnh và đóng tiền phạt cho ông. Trên đường về nhà, ông Vượng tự trách mình không hỏi rõ trắng đen gì cả, cứ xông vào đấm túi bụi vào mặt người ta, chắc chắn lần này lại thêm một bà vợ nữa bỏ đi!!!
* * *
Đẩy cửa bước vào nhà, ông Vượng thấy ở phòng khách ngoài vợ mình còn có một người đàn bà xinh đẹp và người đàn ông bị ông đánh ở phi trường, họ đang trò chuyện vui vẻ với nhau. Ông Vượng nổi “cơn điên” hùng hổ xông tới định đánh người đàn ông… nhưng bị người đàn bà và vợ ông cản lại. Người đàn bà xinh đẹp nói, “chú Vượng bình tĩnh nghe tôi nói. Đây là anh Thạnh chồng tôi và cũng là người anh họ của em Hương. Chúng tôi đang định cư ở Mỹ mới về Việt Nam hơn một tháng. Hôm đó chồng tôi đi Đà Lạt bàn chuyện làm ăn, tình cờ gặp em Hương. Vì lâu ngày không gặp, lại đi cùng chuyến bay nên hai người họ rất mừng, trò chuyện vui vẻ với nhau sau nhiều năm xa cách, không ngờ lại xảy ra sự ngộ nhận đáng tiếc này. Thấy chú còn bị giam ở sở cảnh sát nên chúng tôi quyết định hủy bỏ chuyến đi để lo cho chú được về sớm.” Ông Vượng vừa nghe vừa đưa mắt hết nhìn người này lại nhìn người khác, rồi với gương mặt vừa xấu hổ vừa hối hận do hành động thiếu suy nghĩ của mình. Ông nói, “xin mọi người tha lỗi cho việc làm thô bạo và thiếu suy nghĩ của tôi.” Ông Thạnh nói, “thôi bỏ đi! Việc làm sai trái của chú cũng vì thương vợ mà thôi!?…”
Viết Từ Houston, 28/4/2018
Nguyễn Đức Nhơn
Nguyên Đức Nhơn
Nhớ Về Quá Khứ
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Sau khi tôi vào tù một thời gian thì chính quyền địa phương bắt vợ con tôi đi vùng kinh tế mới. Nơi họ đưa đến là một ngôi làng hẻo lánh nằm về phía tây tỉnh lộ 8. Thời tiết nơi này vô cùng khắt nghiệt. Hàng năm vào khoảng tháng giêng, ngọn gió mùa đông bắc từ biển đông thổi vào, dấy lên một vùng khói bụi mịt mù từ trưa cho đến tối. Những ngôi nhà trong làng đều đóng cửa kín mít. Không có một bóng người lai vãng.
Khi ra tù, tôi đưa vợ con tôi từ vùng kinh tế mới này trở về sinh sống ở quê nhà. Tôi nghĩ sống trên quê hương mình dù gì cũng đỡ hơn sống nơi đất khách quê người.
Một hôm tôi bàn với mụ vợ:
– Này bà, tôi tính ra cây ngủ chiều gò đít thùng để kiếm chút ít tiền phụ bà mua cá gạo, bà thấy thế nào? Vợ tôi há hốc mồm nói:
– Trời mẹ ơi! ông học gò hồi nào mà đòi ra đó hành nghề. Chắc ông muốn ra đó để “gò” mấy bà chứ gì.
Tôi nghiêm sắc mặt nói:
– Bà à! Tôi thấy bà buôn gánh bán bưng vất vả hết ngày này qua ngày khác. Một thân nuôi sống cho cả gia đình, nên tôi muốn làm một việc gì đó kiếm chút tiền phụ bà mua cá gạo. Bà nhìn tôi thử xem, với cái bộ dạng của tôi hiện giờ, thì có ma nào chịu để cho tôi gò?!…
Vợ tôi ngẫm nghĩ một chút rồi nói:
– Vậy cũng được, ông ra đó ngồi cho đỡ buồn.
Tôi đang loay hoay đóng tấm “cạc tông” có dòng chữ “Gò Đít Thùng” viết bằng than lên thân cây ngủ chiều. Thằng Chín Út nhìn tấm bảng hỏi:
– Anh tính sửa thùng gàu ở đây hả anh Tám?
– Thì ở nhà buồn nên ra đây ngồi cho hết thì giờ, nhưng nếu có ai đem thùng gàu tới sửa thì tôi cũng làm. “Chỉ có người ngu chứ không có nghề dại” mà chú Chín.
– Anh Tám à, anh làm nghề này ở đây có lý lắm, nhưng không biết tay nghề của anh thế nào, nếu anh làm cho họ hài lòng thì họ sẽ đem đồ đến cho anh làm. Nếu họ không hài lòng thì anh dẹp đồ nghề là cái chắc.
– Chú Chín nói rất có lý. Làm nghề nào cũng vậy, chất lượng vẫn là điều quan trọng hơn hết. Nói thật với chú, tôi không mấy tin tưởng về việc làm này của mình. Hồi còn trong tù tôi thường hay làm những món đồ mỹ thuật bằng nhôm rất đẹp. Có thể nói tôi là người có khiếu về lãnh vực này. Nhưng tôi không biết có làm được những món đồ có dung tích lớn như thùng gàu hay không? Nhưng dù gì tôi cũng thử một lần. Nếu không khá thì dẹp đồ nghề vậy thôi.
Một hôm tôi đang cặm cụi gò cái đít thùng cho bà Dung thì có tiếng đàn bà gọi tôi từ trên xe ngựa, tôi đứng lên nhìn thì thấy bà Thắm vừa đưa tay vẫy vẫy vừa hỏi lớn:
– Anh Tám ơi. Anh gò cái đít tôi chưa? Anh gò cái đít tôi chưa?
Tôi định trả lời nhưng chiếc xe đã chạy xa rồi. Thằng Chín Út vừa đi ngang qua, nghe bà Thắm hỏi tôi, nó cười ngặt nga ngặt nghẽo nói:
– Anh Tám ơi, anh nhớ gò cẩn thận nghe. Cái đít bà Thắm cứng lắm đó.
Tôi cũng đùa:
– Ủa! Chú Chín gò cái đít bà Thắm hồi nào mà biết nó cứng vậy? Thằng Chín Út vừa cười ha hả vừa bỏ đi. Ngồi ở gốc ngủ chiều ngày nào cũng chứng kiến những chuyện tiếu lâm trên trời dưới đất xảy ra, nhờ vậy mà đở buồn phần nào.
Mới đó mà đã hết năm. Tôi đang lui cui sửa cái đít thùng cho bà Thắm thì thằng Chín Út bước tới nói;
– Dẹp đồ nghề đi anh Tám.
– Giỡn chú. Còn sớm mà.
– Hôm nay nhà em cúng tất niên mình nhậu một bửa cho đã anh Tám.
– Thôi được chú về trước đi, tôi dọn dẹp đồ nghề xong sẽ tới ngay.
Khi bước vào nhà thằng Chín Út, tôi thấy đã có năm sáu người đang ngồi trò chuyện trên bộ ván kê ở góc nhà. Đa số những người này là bạn nhậu của thằng Chín Út. Tôi bước tới ngồi bên cửa sổ nhìn ra đường. Những chiếc xe chở đầy hàng Tết lướt qua trước mặt, rồi nghĩ đến đám con đang đói ở nhà mà lòng đau như dao cắt.
Mới cạn vài ba ly mà người nào cũng đã ngà ngà say. Cái thân mật, lịch sự khi mới bắt đầu cuộc nhậu đã chạy đi đâu mất chỉ còn lại những chuyện trên trời dưới đất mà ai ai cũng dành nói, khiến cuộc nhậu trở thành một cuộc tranh luận mà không người nào chịu thua người nào. Cuối cùng, cuộc tranh luận lại trở thành một cuộc cãi vã lớn tiếng với nhau, Ấy thế mà ngày hôm sau cũng những khuôn mặt này lai xuất hiện ở nhà thằng Chín Út, chuyện trò rôm rả với nhau, hình như không còn ai nhớ những gì đã xảy ra trong cuộc nhậu của ngày hôm trước… Vì vậy mà ngày nào cũng như ngày nào, những cuộc nhậu ồn ào vô tổ chức cứ theo ngày tháng trôi đi…
Hoàng hôn buông xuống thật nhanh, tôi thu dọn đồ nghề rồi ghé vào nhà thằng Chín Út ngồi chơi. Thằng Chín Út nói:
– Hôm nay nhà em có việc nên không tổ chức nhậu được. Sẵn dịp anh tới, mình làm vai ly cho ấm lòng anh Tám.
Tôi nói:
– Nhà có việc mà mình nhậu có ổn không chú Chín?
Thằng Chín Út nói:
– Là việc thường thôi anh Tám. Vả lại cũng đã giải quyết xong rồi.
Vừa lai rai vừa chuyện trò với thằng Chín Út mà quên cả thì giờ. Tôi nhìn lên chiếc đồng hồ treo tường rồi nói:
– Khuya rồi chú Chín. Tôi về để cho mấy cháu nó ngủ.
– Vậy ngày mai gặp lại anh Tám.
Ra khỏi nhà thằng Chín Út, tôi lại nghĩ đến ngày mai, rồi ngày mai nữa, với cuộc sống bấp bênh của một kiếp người mà nghe lòng buồn vời vợi…
“Mùa hè năm nay anh sẽ đưa em vòng khắp cả hý trường …”
Tiếng hát thật buồn của Chế Linh vọng ra từ ngôi nhà tranh lụp xụp nằm bên vệ đường. Tôi dừng lại lắng nghe một lúc rồi bỏ đi. Con đường dẫn về nhà tôi còn xa lắm. Con trăng mùa hạ cũng xuống thấp dần. Tôi từng bước lần theo con đường mòn xuyên qua cánh đồng lúa non dẫn đến ngôi nhà tranh xiêu quẹo, nơi vợ con tôi đang chìm trong giấc ngủ…
***
Nguyễn Đức Nhơn
Ngộ Nhận
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Sau 2 lần bị vợ bỏ, ông Vượng ghét cay ghét đắng đàn bà. Ông thường nói với bạn bè, tao thà ở vậy suốt đời chứ không bao giờ đụng tới cái thứ “hồng nhan họa thủy” ấy nữa đâu. Ông Vượng “tuyên bố” có vẻ cương quyết lắm nhưng chưa đầy một năm ông lại bê một bà sồn sồn ở Tân Định về làm vợ. Từ đó ông không còn ghét đàn bà nữa. Ông nói “không có đàn bà như nhà không có nóc”. Bạn bè chế diễu, ông chỉ cười trừ…
***
Sau một ngày tán dóc với môt người bạn trong Chợ Lớn. Ông Vượng đón xe bus trở về nhà. Khi chiếc xe dừng lại ở một trạm đưa đón khách. Bà khách đầu tiên xuống xe vô ý bước ra đường bị một chiếc xe gắn máy húc bà ngã lăn ra bất tỉnh, cũng may những chiếc xe chạy sau kịp thời thắng lại. Ông tài xế nhảy xuống xe bê bà khách vô lề đường. Bà nằm bất tỉnh. Những người khách bu lại xem, có người đề nghị chở bà ta vào bệnh viện cấp cứu ngay, nếu không cứu chữa kịp thời thì nguy lắm. Ông Vượng với nét mặt khẩn trương bước tới bê bà khách chạy đến chiếc taxi bảo tài xế chạy đến bệnh viện. Khi đến nơi cô y tá ghi vội một vài chi tiết về tai nạn, lấy địa chỉ ông Vượng rồi bỏ chạy theo mấy cô y tá đang đưa bà Hương vào phòng cấp cứu. Ông Vượng thấy không còn ai đếm xỉa gì tới mình nữa nên cũng bỏ ra đường đón taxi trở về nhà. Bà Hương sau khi tỉnh lại muốn gọi cho người nhà biết mình bị tai nạn nhưng điện thoại của bà bị rớt đâu mất, cuốn sổ ghi số điện thoại gia đình cũng mất luôn.
***
Bà Hương chờ bác sỹ khám xong liền nói xin bác sỹ cho tôi xuất viện. Tôi có việc cần về nhà. Ông bác sỹ trả lời cần phải ở lại bệnh viện thêm vài ngày nữa để xem có biến chứng gì không. Thế là bà Hương phải ở lại bệnh viện đến ngày thứ ba mới làm thủ tục xuất viện. Cũng trong ngày này, ông Vượng nhận được giấy mời của bệnh viện. Khi đến văn phòng, cô y tá bảo ông theo tôi. Ông Vượng không biết cô ta đưa mình đi đâu nhưng cũng lủi thủi bước theo. Đến một căn phòng ở tầng lầu 2. Cô y tá đẩy cửa bước vào. Ông Vượng cũng vào theo…
Thấy cách ăn mặc của ông Vượng không giống người làm trong bệnh viện, bà Hương hỏi nhỏ cô y tá, ông đó là ai vậy? Cô y tá giương cặp mắt tròn xoe hỏi ngược lại, ông ấy không phải chồng bà sao? Không, tôi có chồng con gì đâu!… Cô y tá bước nhanh ra ngoài hỏi ông Vượng, bà ở trong phòng có phải là vợ ông không? Không. Tôi là khách của xe bus thấy bà ta bị xe đụng bất tỉnh nên tôi đưa bà vào đây thôi mà. Cô y tá há hốc mồm than nhỏ chết rồi, hỏng bét rồi, tất cả hồ sơ của bà Hương đều ghi ông Vượng là chồng bà. Bây giờ làm thủ tục xuất viện thì phải làm thế nào đây?!!!… Cô y tá trở vào, bà Hương hỏi có phải ông ấy đưa tôi đến đây không? Cô y tá trả lời phải. Vậy nhờ cô mời ông ấy vào đây, tôi muốn nói chuyện với ông ta một chút. Cô y tá trở ra nói mời ông vào phòng. Bà Hương muốn nói chuyện với ông. Khi ông Vượng bước vào, bà Hương nở một nụ cười thật tươi nói chào anh, cám ơn anh đã đưa tôi đi cấp cứu. Bây giờ bệnh viện gặp phải một việc rắc rối, không biết anh có vui lòng giúp họ không? Ông Vượng nói được chứ, miễn đừng làm điều gì trái với pháp luật là được thôi. Nhưng không biết tôi giúp được gì cho bệnh viện đây? Anh tiếp tục đóng vai chồng tôi để ký vào giấy xuất viện được không? Được chứ. Cảm ơn anh nhiều. Bà Hương quay qua cô Y tá nói cô đưa giấy tờ cho anh ấy ký đi…
***
Một sáng mùa thu trời se se lạnh. Sài Gòn với nhịp sống thường ngày của nó, vẫn nhộn nhịp ồn ào xe cộ ngược xuôi. Ông Vượng thả bộ trên đường Lê Lợi bất chợt nghe tiếng gọi mình phía sau. Ông quay lại, sững sờ khi nhận ra bà Hương với một nụ cười thật tươi nói chào anh. Ông Vượng với nét mặt buồn buồn nói sau vụ ngộ nhận ở bệnh viện tôi muốn gặp lại chị nhưng thành phố Sài Gòn rộng lớn, người đông như kiến dễ gì gặp lại nhau. Nhưng hôm nay lại gặp chị, tôi cứ tưởng như mình đang nằm mơ…
***
Ông Vượng và bà Hương tuy là một cặp vợ chồng chấp nối, tuổi tác cũng đã cao nhưng là một cặp vợ chồng sống vơi nhau vô cùng hạnh phúc. Ông Vượng thương bà Hương rất mực. Không cho bà làm bất cứ việc gì. Ông nói em không cần làm gì cả. Mọi việc đã có anh.
Một hôm bà Hương nói với ông Vượng, em muốn lên Đà Lạt thăm một người bạn. Ông Vượng ngạc nhiên hỏi, người bạn nào của em sao lâu nay không nghe em nhắc tới vậy? Chỉ là người bạn thường thôi có gì quan trọng đâu mà phải nói với anh. Vậy em tính chừng nào đi. Thứ hai tuần sau lúc 9 giờ, em mua vé máy bay rồi. Ông Vượng với nét mặt buồn buồn nói vậy cũng tốt, đi chơi cho thong thả, ở nhà hoài dễ sinh bệnh…
Tuy không phản đối nhưng ông Vượng nghi ngờ rất nhiều về chuyến đi này của bà Hương. Trước đây một tuần, ông Vượng tình cờ thấy một bức điện thư ở dưới gối nằm của bà. Đây là bức điện thư của một người nào đó viết cho bà từ Đà Lạt “Em thu xếp lên Đà Lạt chơi, mùa này Đà Lạt đẹp lắm”. Ông Vượng đọc đi đọc lại nhiều lần bức điện thư nhưng không thấy có điều gì mờ ám, tuy nhiên có một điều hơi lạ một chút là người viết bức điện thư này lại ca tụng “Đà Lạt mùa này đẹp lắm” trong khi Đà Lạt đang ở giữa một mùa đông giá buốt. Nếu nghĩ xa hơn một chút thì bưc điện thư này giống như một mật lệnh…
Ông Vượng bỏ giờ làm ở hãng đến phi trường không phải để đưa bà Hương lên máy bay mà để xem ai là người giúp bà tiền bạc để đi thăm người bạn gì đó trên Đà Lạt. Ông Vượng nhìn chăm chăm vào hàng người đang chờ nhân viên phi trường kiểm tra giấy tờ để vào phòng chờ lên phi cơ. Bỗng ông Vượng thấy bà Hương đang chuyện trò vui vẻ thân mật với một người đàn ông lạ mặt. Ông liền nổi trận lôi đình chạy đến đấm lia lịa vào mặt người đàn ông. Cảnh Sát đến kịp thời còng tay ông Vượng và giữ luôn người đàn ông và bà Hương để điều tra sự việc.
Ở phòng làm việc sở cảnh sát, cô điều tra viên hỏi vì sao ông đánh người ta? ông Vượng trả lời tôi không nhịn được hành vi bỉ ổi của hắn, đang o bế dụ dỗ vợ tôi. Cô điều tra viên hỏi tiếp ông có biết hành vi đánh người là phạm pháp không?. Tôi biết, nhưng lúc đó tôi không kiềm chế được khi thấy có người ve vãn vợ mình!!!… Thôi được. Chúng tôi tạm giữ ông để chờ ngày ra tòa. Cũng may ông không gây thương tích gì cho đối phương. Một tuần sau ông Vượng được trả tự do vì có người bảo lãnh và đóng tiền phạt cho ông. Trên đường về nhà, ông Vượng tự trách mình không hỏi rõ trắng đen gì cả, cứ xông vào đấm túi bụi vào mặt người ta, chắc chắn lần này lại thêm một bà vợ nữa bỏ đi…
Đẩy cửa bước vào nhà, ông Vượng thấy ở phòng khách ngoài vợ mình còn có một người đàn bà xinh đẹp và người đàn ông bị ông đánh ở phi trường, họ đang trò chuyện vui vẻ với nhau. Ông Vượng nổi “cơn điên” hùng hổ xông tới định đánh người đàn ông nhưng bị người đàn bà và vợ ông cản lại. Người đàn bà xinh đẹp nói chú Vượng bình tỉnh nghe tôi nói. Đây là anh Thạnh chồng tôi và cũng là người anh họ của em Hương. Chúng tôi đang định cư ở Mỹ mới về Việt Nam hơn một tháng. Hôm đó chồng tôi đi Đà Lạt bàn chuyện làm ăn, tình cờ gặp em Hương. Vì lâu ngày không gặp. Lại đi cùng chuyến bay nên hai người họ rất vui mừng trò chuyện với nhau sau nhiều năm xa cách. Không ngờ lại xảy ra sự ngộ nhận đáng tiếc này. Thấy chú còn bị giam ở sở cảnh sát nên chúng tôi quyết định hủy bỏ chuyến đi để lo cho chú được về sớm. Ông Vượng vừa nghe vừa đưa mắt hết nhìn người này lại nhìn người khác, rồi với gương mặt vừa xấu hổ vừa ăn năn do hành động thiếu suy nghĩ của mình. Ông nói xin mọi người tha lỗi cho việc làm thô bạo và thiếu suy nghĩ của tôi. Ông Thạnh nói thôi bỏ đi. Việc làm sai trái của chú cũng vì thương vợ mà thôi!?…
Ngày 28 Tháng 4 Năm 2018
Nguyễn Đức Nhơn
Ngộ Nhận
VĂN
Nguyễn Đức Nhơn
Ngộ Nhận
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Sau 2 lần bị vợ bỏ, ông Vượng ghét cay ghét đắng đàn bà. Ông thường nói với bạn bè, tao thà ở vậy suốt đời chứ không bao giờ đụng tới cái thứ “hồng nhan họa thủy” ấy nữa đâu. Ông Vượng “tuyên bố” có vẻ cương quyết lắm nhưng chưa đầy một năm ông lại bê một bà sồn sồn ở Tân Định về làm vợ. Từ đó ông không còn ghét đàn bà nữa. Ông nói “không có đàn bà như nhà không có nóc”. Bạn bè chế diễu, ông chỉ cười trừ…
***
Sau một ngày tán dóc với môt người bạn trong Chợ Lớn. Ông Vượng đón xe bus trở về nhà. Khi chiếc xe dừng lại ở một trạm đưa đón khách. Bà khách đầu tiên xuống xe vô ý bước ra đường bị một chiếc xe gắn máy húc bà ngã lăn ra bất tỉnh, cũng may những chiếc xe chạy sau kịp thời thắng lại. Ông tài xế nhảy xuống xe bê bà khách vô lề đường. Bà nằm bất tỉnh. Những người khách bu lại xem, có người đề nghị chở bà ta vào bệnh viện cấp cứu ngay, nếu không cứu chữa kịp thời thì nguy lắm. Ông Vượng với nét mặt khẩn trương bước tới bê bà khách chạy đến chiếc taxi bảo tài xế chạy đến bệnh viện. Khi đến nơi cô y tá ghi vội một vài chi tiết về tai nạn, lấy địa chỉ ông Vượng rồi bỏ chạy theo mấy cô y tá đang đưa bà Hương vào phòng cấp cứu. Ông Vượng thấy không còn ai đếm xỉa gì tới mình nữa nên cũng bỏ ra đường đón taxi trở về nhà. Bà Hương sau khi tỉnh lại muốn gọi cho người nhà biết mình bị tai nạn nhưng điện thoại của bà bị rớt đâu mất, cuốn sổ ghi số điện thoại gia đình cũng mất luôn.
***
Bà Hương chờ bác sỹ khám xong liền nói xin bác sỹ cho tôi xuất viện. Tôi có việc cần về nhà. Ông bác sỹ trả lời cần phải ở lại bệnh viện thêm vài ngày nữa để xem có biến chứng gì không. Thế là bà Hương phải ở lại bệnh viện đến ngày thứ ba mới làm thủ tục xuất viện. Cũng trong ngày này, ông Vượng nhận được giấy mời của bệnh viện. Khi đến văn phòng, cô y tá bảo ông theo tôi. Ông Vượng không biết cô ta đưa mình đi đâu nhưng cũng lủi thủi bước theo. Đến một căn phòng ở tầng lầu 2. Cô y tá đẩy cửa bước vào. Ông Vượng cũng vào theo…
Thấy cách ăn mặc của ông Vượng không giống người làm trong bệnh viện, bà Hương hỏi nhỏ cô y tá, ông đó là ai vậy? Cô y tá giương cặp mắt tròn xoe hỏi ngược lại, ông ấy không phải chồng bà sao? Không, tôi có chồng con gì đâu!… Cô y tá bước nhanh ra ngoài hỏi ông Vượng, bà ở trong phòng có phải là vợ ông không? Không. Tôi là khách của xe bus thấy bà ta bị xe đụng bất tỉnh nên tôi đưa bà vào đây thôi mà. Cô y tá há hốc mồm than nhỏ chết rồi, hỏng bét rồi, tất cả hồ sơ của bà Hương đều ghi ông Vượng là chồng bà. Bây giờ làm thủ tục xuất viện thì phải làm thế nào đây?!!!… Cô y tá trở vào, bà Hương hỏi có phải ông ấy đưa tôi đến đây không? Cô y tá trả lời phải. Vậy nhờ cô mời ông ấy vào đây, tôi muốn nói chuyện với ông ta một chút. Cô y tá trở ra nói mời ông vào phòng. Bà Hương muốn nói chuyện với ông. Khi ông Vượng bước vào, bà Hương nở một nụ cười thật tươi nói chào anh, cám ơn anh đã đưa tôi đi cấp cứu. Bây giờ bệnh viện gặp phải một việc rắc rối, không biết anh có vui lòng giúp họ không? Ông Vượng nói được chứ, miễn đừng làm điều gì trái với pháp luật là được thôi. Nhưng không biết tôi giúp được gì cho bệnh viện đây? Anh tiếp tục đóng vai chồng tôi để ký vào giấy xuất viện được không? Được chứ. Cảm ơn anh nhiều. Bà Hương quay qua cô Y tá nói cô đưa giấy tờ cho anh ấy ký đi…
***
Một sáng mùa thu trời se se lạnh. Sài Gòn với nhịp sống thường ngày của nó, vẫn nhộn nhịp ồn ào xe cộ ngược xuôi. Ông Vượng thả bộ trên đường Lê Lợi bất chợt nghe tiếng gọi mình phía sau. Ông quay lại, sững sờ khi nhận ra bà Hương với một nụ cười thật tươi nói chào anh. Ông Vượng với nét mặt buồn buồn nói sau vụ ngộ nhận ở bệnh viện tôi muốn gặp lại chị nhưng thành phố Sài Gòn rộng lớn, người đông như kiến dễ gì gặp lại nhau. Nhưng hôm nay lại gặp chị, tôi cứ tưởng như mình đang nằm mơ…
***
Ông Vượng và bà Hương tuy là một cặp vợ chồng chấp nối, tuổi tác cũng đã cao nhưng là một cặp vợ chồng sống vơi nhau vô cùng hạnh phúc. Ông Vượng thương bà Hương rất mực. Không cho bà làm bất cứ việc gì. Ông nói em không cần làm gì cả. Mọi việc đã có anh.
Một hôm bà Hương nói với ông Vượng, em muốn lên Đà Lạt thăm một người bạn. Ông Vượng ngạc nhiên hỏi, người bạn nào của em sao lâu nay không nghe em nhắc tới vậy? Chỉ là người bạn thường thôi có gì quan trọng đâu mà phải nói với anh. Vậy em tính chừng nào đi. Thứ hai tuần sau lúc 9 giờ, em mua vé máy bay rồi. Ông Vượng với nét mặt buồn buồn nói vậy cũng tốt, đi chơi cho thong thả, ở nhà hoài dễ sinh bệnh…
Tuy không phản đối nhưng ông Vượng nghi ngờ rất nhiều về chuyến đi này của bà Hương. Trước đây một tuần, ông Vượng tình cờ thấy một bức điện thư ở dưới gối nằm của bà. Đây là bức điện thư của một người nào đó viết cho bà từ Đà Lạt “Em thu xếp lên Đà Lạt chơi, mùa này Đà Lạt đẹp lắm”. Ông Vượng đọc đi đọc lại nhiều lần bức điện thư nhưng không thấy có điều gì mờ ám, tuy nhiên có một điều hơi lạ một chút là người viết bức điện thư này lại ca tụng “Đà Lạt mùa này đẹp lắm” trong khi Đà Lạt đang ở giữa một mùa đông giá buốt. Nếu nghĩ xa hơn một chút thì bưc điện thư này giống như một mật lệnh…
Ông Vượng bỏ giờ làm ở hãng đến phi trường không phải để đưa bà Hương lên máy bay mà để xem ai là người giúp bà tiền bạc để đi thăm người bạn gì đó trên Đà Lạt. Ông Vượng nhìn chăm chăm vào hàng người đang chờ nhân viên phi trường kiểm tra giấy tờ để vào phòng chờ lên phi cơ. Bỗng ông Vượng thấy bà Hương đang chuyện trò vui vẻ thân mật với một người đàn ông lạ mặt. Ông liền nổi trận lôi đình chạy đến đấm lia lịa vào mặt người đàn ông. Cảnh Sát đến kịp thời còng tay ông Vượng và giữ luôn người đàn ông và bà Hương để điều tra sự việc.
Ở phòng làm việc sở cảnh sát, cô điều tra viên hỏi vì sao ông đánh người ta? ông Vượng trả lời tôi không nhịn được hành vi bỉ ổi của hắn, đang o bế dụ dỗ vợ tôi. Cô điều tra viên hỏi tiếp ông có biết hành vi đánh người là phạm pháp không?. Tôi biết, nhưng lúc đó tôi không kiềm chế được khi thấy có người ve vãn vợ mình!!!… Thôi được. Chúng tôi tạm giữ ông để chờ ngày ra tòa. Cũng may ông không gây thương tích gì cho đối phương. Một tuần sau ông Vượng được trả tự do vì có người bảo lãnh và đóng tiền phạt cho ông. Trên đường về nhà, ông Vượng tự trách mình không hỏi rõ trắng đen gì cả, cứ xông vào đấm túi bụi vào mặt người ta, chắc chắn lần này lại thêm một bà vợ nữa bỏ đi…
Đẩy cửa bước vào nhà, ông Vượng thấy ở phòng khách ngoài vợ mình còn có một người đàn bà xinh đẹp và người đàn ông bị ông đánh ở phi trường, họ đang trò chuyện vui vẻ với nhau. Ông Vượng nổi “cơn điên” hùng hổ xông tới định đánh người đàn ông nhưng bị người đàn bà và vợ ông cản lại. Người đàn bà xinh đẹp nói chú Vượng bình tỉnh nghe tôi nói. Đây là anh Thạnh chồng tôi và cũng là người anh họ của em Hương. Chúng tôi đang định cư ở Mỹ mới về Việt Nam hơn một tháng. Hôm đó chồng tôi đi Đà Lạt bàn chuyện làm ăn, tình cờ gặp em Hương. Vì lâu ngày không gặp. Lại đi cùng chuyến bay nên hai người họ rất vui mừng trò chuyện với nhau sau nhiều năm xa cách. Không ngờ lại xảy ra sự ngộ nhận đáng tiếc này. Thấy chú còn bị giam ở sở cảnh sát nên chúng tôi quyết định hủy bỏ chuyến đi để lo cho chú được về sớm. Ông Vượng vừa nghe vừa đưa mắt hết nhìn người này lại nhìn người khác, rồi với gương mặt vừa xấu hổ vừa ăn năn do hành động thiếu suy nghĩ của mình. Ông nói xin mọi người tha lỗi cho việc làm thô bạo và thiếu suy nghĩ của tôi. Ông Thạnh nói thôi bỏ đi. Việc làm sai trái của chú cũng vì thương vợ mà thôi!?…
Ngày 28 Tháng 4 Năm 2018
Nguyễn Đức Nhơn
Ngộ Nhận
***
Nguyên Đức Nhơn
Nhớ Về Quá Khứ
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Sau khi tôi vào tù một thời gian thì chính quyền địa phương bắt vợ con tôi đi vùng kinh tế mới. Nơi họ đưa đến là một ngôi làng hẻo lánh nằm về phía tây tỉnh lộ 8. Thời tiết nơi này vô cùng khắt nghiệt. Hàng năm vào khoảng tháng giêng, ngọn gió mùa đông bắc từ biển đông thổi vào, dấy lên một vùng khói bụi mịt mù từ trưa cho đến tối. Những ngôi nhà trong làng đều đóng cửa kín mít. Không có một bóng người lai vãng.
Khi ra tù, tôi đưa vợ con tôi từ vùng kinh tế mới này trở về sinh sống ở quê nhà. Tôi nghĩ sống trên quê hương mình dù gì cũng đỡ hơn sống nơi đất khách quê người.
Một hôm tôi bàn với mụ vợ:
– Này bà, tôi tính ra cây ngủ chiều gò đít thùng để kiếm chút ít tiền phụ bà mua cá gạo, bà thấy thế nào? Vợ tôi há hốc mồm nói:
– Trời mẹ ơi! ông học gò hồi nào mà đòi ra đó hành nghề. Chắc ông muốn ra đó để “gò” mấy bà chứ gì.
Tôi nghiêm sắc mặt nói:
– Bà à! Tôi thấy bà buôn gánh bán bưng vất vả hết ngày này qua ngày khác. Một thân nuôi sống cho cả gia đình, nên tôi muốn làm một việc gì đó kiếm chút tiền phụ bà mua cá gạo. Bà nhìn tôi thử xem, với cái bộ dạng của tôi hiện giờ, thì có ma nào chịu để cho tôi gò?!…
Vợ tôi ngẫm nghĩ một chút rồi nói:
– Vậy cũng được, ông ra đó ngồi cho đỡ buồn.
Tôi đang loay hoay đóng tấm “cạc tông” có dòng chữ “Gò Đít Thùng” viết bằng than lên thân cây ngủ chiều. Thằng Chín Út nhìn tấm bảng hỏi:
– Anh tính sửa thùng gàu ở đây hả anh Tám?
– Thì ở nhà buồn nên ra đây ngồi cho hết thì giờ, nhưng nếu có ai đem thùng gàu tới sửa thì tôi cũng làm. “Chỉ có người ngu chứ không có nghề dại” mà chú Chín.
– Anh Tám à, anh làm nghề này ở đây có lý lắm, nhưng không biết tay nghề của anh thế nào, nếu anh làm cho họ hài lòng thì họ sẽ đem đồ đến cho anh làm. Nếu họ không hài lòng thì anh dẹp đồ nghề là cái chắc.
– Chú Chín nói rất có lý. Làm nghề nào cũng vậy, chất lượng vẫn là điều quan trọng hơn hết. Nói thật với chú, tôi không mấy tin tưởng về việc làm này của mình. Hồi còn trong tù tôi thường hay làm những món đồ mỹ thuật bằng nhôm rất đẹp. Có thể nói tôi là người có khiếu về lãnh vực này. Nhưng tôi không biết có làm được những món đồ có dung tích lớn như thùng gàu hay không? Nhưng dù gì tôi cũng thử một lần. Nếu không khá thì dẹp đồ nghề vậy thôi.
Một hôm tôi đang cặm cụi gò cái đít thùng cho bà Dung thì có tiếng đàn bà gọi tôi từ trên xe ngựa, tôi đứng lên nhìn thì thấy bà Thắm vừa đưa tay vẫy vẫy vừa hỏi lớn:
– Anh Tám ơi. Anh gò cái đít tôi chưa? Anh gò cái đít tôi chưa?
Tôi định trả lời nhưng chiếc xe đã chạy xa rồi. Thằng Chín Út vừa đi ngang qua, nghe bà Thắm hỏi tôi, nó cười ngặt nga ngặt nghẽo nói:
– Anh Tám ơi, anh nhớ gò cẩn thận nghe. Cái đít bà Thắm cứng lắm đó.
Tôi cũng đùa:
– Ủa! Chú Chín gò cái đít bà Thắm hồi nào mà biết nó cứng vậy? Thằng Chín Út vừa cười ha hả vừa bỏ đi. Ngồi ở gốc ngủ chiều ngày nào cũng chứng kiến những chuyện tiếu lâm trên trời dưới đất xảy ra, nhờ vậy mà đở buồn phần nào.
Mới đó mà đã hết năm. Tôi đang lui cui sửa cái đít thùng cho bà Thắm thì thằng Chín Út bước tới nói;
– Dẹp đồ nghề đi anh Tám.
– Giỡn chú. Còn sớm mà.
– Hôm nay nhà em cúng tất niên mình nhậu một bửa cho đã anh Tám.
– Thôi được chú về trước đi, tôi dọn dẹp đồ nghề xong sẽ tới ngay.
Khi bước vào nhà thằng Chín Út, tôi thấy đã có năm sáu người đang ngồi trò chuyện trên bộ ván kê ở góc nhà. Đa số những người này là bạn nhậu của thằng Chín Út. Tôi bước tới ngồi bên cửa sổ nhìn ra đường. Những chiếc xe chở đầy hàng Tết lướt qua trước mặt, rồi nghĩ đến đám con đang đói ở nhà mà lòng đau như dao cắt.
Mới cạn vài ba ly mà người nào cũng đã ngà ngà say. Cái thân mật, lịch sự khi mới bắt đầu cuộc nhậu đã chạy đi đâu mất chỉ còn lại những chuyện trên trời dưới đất mà ai ai cũng dành nói, khiến cuộc nhậu trở thành một cuộc tranh luận mà không người nào chịu thua người nào. Cuối cùng, cuộc tranh luận lại trở thành một cuộc cãi vã lớn tiếng với nhau, Ấy thế mà ngày hôm sau cũng những khuôn mặt này lai xuất hiện ở nhà thằng Chín Út, chuyện trò rôm rả với nhau, hình như không còn ai nhớ những gì đã xảy ra trong cuộc nhậu của ngày hôm trước… Vì vậy mà ngày nào cũng như ngày nào, những cuộc nhậu ồn ào vô tổ chức cứ theo ngày tháng trôi đi…
Hoàng hôn buông xuống thật nhanh, tôi thu dọn đồ nghề rồi ghé vào nhà thằng Chín Út ngồi chơi. Thằng Chín Út nói:
– Hôm nay nhà em có việc nên không tổ chức nhậu được. Sẵn dịp anh tới, mình làm vai ly cho ấm lòng anh Tám.
Tôi nói:
– Nhà có việc mà mình nhậu có ổn không chú Chín?
Thằng Chín Út nói:
– Là việc thường thôi anh Tám. Vả lại cũng đã giải quyết xong rồi.
Vừa lai rai vừa chuyện trò với thằng Chín Út mà quên cả thì giờ. Tôi nhìn lên chiếc đồng hồ treo tường rồi nói:
– Khuya rồi chú Chín. Tôi về để cho mấy cháu nó ngủ.
– Vậy ngày mai gặp lại anh Tám.
Ra khỏi nhà thằng Chín Út, tôi lại nghĩ đến ngày mai, rồi ngày mai nữa, với cuộc sống bấp bênh của một kiếp người mà nghe lòng buồn vời vợi…
“Mùa hè năm nay anh sẽ đưa em vòng khắp cả hý trường …”
Tiếng hát thật buồn của Chế Linh vọng ra từ ngôi nhà tranh lụp xụp nằm bên vệ đường. Tôi dừng lại lắng nghe một lúc rồi bỏ đi. Con đường dẫn về nhà tôi còn xa lắm. Con trăng mùa hạ cũng xuống thấp dần. Tôi từng bước lần theo con đường mòn xuyên qua cánh đồng lúa non dẫn đến ngôi nhà tranh xiêu quẹo, nơi vợ con tôi đang chìm trong giấc ngủ…
Nguyễn Đức Nhơn
Ngộ Nhận
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Sau 2 lần bị vợ bỏ, ông Vượng ghét cay ghét đắng đàn bà. Ông thường nói với bạn bè, tao thà ở vậy suốt đời chứ không bao giờ đụng tới cái thứ “hồng nhan họa thủy” ấy nữa đâu. Ông Vượng “tuyên bố” có vẻ cương quyết lắm nhưng chưa đầy một năm ông lại bê một bà sồn sồn ở Tân Định về làm vợ. Từ đó ông không còn ghét đàn bà nữa. Ông nói “không có đàn bà như nhà không có nóc”. Bạn bè chế diễu, ông chỉ cười trừ…
***
Sau một ngày tán dóc với môt người bạn trong Chợ Lớn. Ông Vượng đón xe bus trở về nhà. Khi chiếc xe dừng lại ở một trạm đưa đón khách. Bà khách đầu tiên xuống xe vô ý bước ra đường bị một chiếc xe gắn máy húc bà ngã lăn ra bất tỉnh, cũng may những chiếc xe chạy sau kịp thời thắng lại. Ông tài xế nhảy xuống xe bê bà khách vô lề đường. Bà nằm bất tỉnh. Những người khách bu lại xem, có người đề nghị chở bà ta vào bệnh viện cấp cứu ngay, nếu không cứu chữa kịp thời thì nguy lắm. Ông Vượng với nét mặt khẩn trương bước tới bê bà khách chạy đến chiếc taxi bảo tài xế chạy đến bệnh viện. Khi đến nơi cô y tá ghi vội một vài chi tiết về tai nạn, lấy địa chỉ ông Vượng rồi bỏ chạy theo mấy cô y tá đang đưa bà Hương vào phòng cấp cứu. Ông Vượng thấy không còn ai đếm xỉa gì tới mình nữa nên cũng bỏ ra đường đón taxi trở về nhà. Bà Hương sau khi tỉnh lại muốn gọi cho người nhà biết mình bị tai nạn nhưng điện thoại của bà bị rớt đâu mất, cuốn sổ ghi số điện thoại gia đình cũng mất luôn.
***
Bà Hương chờ bác sỹ khám xong liền nói xin bác sỹ cho tôi xuất viện. Tôi có việc cần về nhà. Ông bác sỹ trả lời cần phải ở lại bệnh viện thêm vài ngày nữa để xem có biến chứng gì không. Thế là bà Hương phải ở lại bệnh viện đến ngày thứ ba mới làm thủ tục xuất viện. Cũng trong ngày này, ông Vượng nhận được giấy mời của bệnh viện. Khi đến văn phòng, cô y tá bảo ông theo tôi. Ông Vượng không biết cô ta đưa mình đi đâu nhưng cũng lủi thủi bước theo. Đến một căn phòng ở tầng lầu 2. Cô y tá đẩy cửa bước vào. Ông Vượng cũng vào theo…
Thấy cách ăn mặc của ông Vượng không giống người làm trong bệnh viện, bà Hương hỏi nhỏ cô y tá, ông đó là ai vậy? Cô y tá giương cặp mắt tròn xoe hỏi ngược lại, ông ấy không phải chồng bà sao? Không, tôi có chồng con gì đâu!… Cô y tá bước nhanh ra ngoài hỏi ông Vượng, bà ở trong phòng có phải là vợ ông không? Không. Tôi là khách của xe bus thấy bà ta bị xe đụng bất tỉnh nên tôi đưa bà vào đây thôi mà. Cô y tá há hốc mồm than nhỏ chết rồi, hỏng bét rồi, tất cả hồ sơ của bà Hương đều ghi ông Vượng là chồng bà. Bây giờ làm thủ tục xuất viện thì phải làm thế nào đây?!!!… Cô y tá trở vào, bà Hương hỏi có phải ông ấy đưa tôi đến đây không? Cô y tá trả lời phải. Vậy nhờ cô mời ông ấy vào đây, tôi muốn nói chuyện với ông ta một chút. Cô y tá trở ra nói mời ông vào phòng. Bà Hương muốn nói chuyện với ông. Khi ông Vượng bước vào, bà Hương nở một nụ cười thật tươi nói chào anh, cám ơn anh đã đưa tôi đi cấp cứu. Bây giờ bệnh viện gặp phải một việc rắc rối, không biết anh có vui lòng giúp họ không? Ông Vượng nói được chứ, miễn đừng làm điều gì trái với pháp luật là được thôi. Nhưng không biết tôi giúp được gì cho bệnh viện đây? Anh tiếp tục đóng vai chồng tôi để ký vào giấy xuất viện được không? Được chứ. Cảm ơn anh nhiều. Bà Hương quay qua cô Y tá nói cô đưa giấy tờ cho anh ấy ký đi…
***
Một sáng mùa thu trời se se lạnh. Sài Gòn với nhịp sống thường ngày của nó, vẫn nhộn nhịp ồn ào xe cộ ngược xuôi. Ông Vượng thả bộ trên đường Lê Lợi bất chợt nghe tiếng gọi mình phía sau. Ông quay lại, sững sờ khi nhận ra bà Hương với một nụ cười thật tươi nói chào anh. Ông Vượng với nét mặt buồn buồn nói sau vụ ngộ nhận ở bệnh viện tôi muốn gặp lại chị nhưng thành phố Sài Gòn rộng lớn, người đông như kiến dễ gì gặp lại nhau. Nhưng hôm nay lại gặp chị, tôi cứ tưởng như mình đang nằm mơ…
***
Ông Vượng và bà Hương tuy là một cặp vợ chồng chấp nối, tuổi tác cũng đã cao nhưng là một cặp vợ chồng sống vơi nhau vô cùng hạnh phúc. Ông Vượng thương bà Hương rất mực. Không cho bà làm bất cứ việc gì. Ông nói em không cần làm gì cả. Mọi việc đã có anh.
Một hôm bà Hương nói với ông Vượng, em muốn lên Đà Lạt thăm một người bạn. Ông Vượng ngạc nhiên hỏi, người bạn nào của em sao lâu nay không nghe em nhắc tới vậy? Chỉ là người bạn thường thôi có gì quan trọng đâu mà phải nói với anh. Vậy em tính chừng nào đi. Thứ hai tuần sau lúc 9 giờ, em mua vé máy bay rồi. Ông Vượng với nét mặt buồn buồn nói vậy cũng tốt, đi chơi cho thong thả, ở nhà hoài dễ sinh bệnh…
Tuy không phản đối nhưng ông Vượng nghi ngờ rất nhiều về chuyến đi này của bà Hương. Trước đây một tuần, ông Vượng tình cờ thấy một bức điện thư ở dưới gối nằm của bà. Đây là bức điện thư của một người nào đó viết cho bà từ Đà Lạt “Em thu xếp lên Đà Lạt chơi, mùa này Đà Lạt đẹp lắm”. Ông Vượng đọc đi đọc lại nhiều lần bức điện thư nhưng không thấy có điều gì mờ ám, tuy nhiên có một điều hơi lạ một chút là người viết bức điện thư này lại ca tụng “Đà Lạt mùa này đẹp lắm” trong khi Đà Lạt đang ở giữa một mùa đông giá buốt. Nếu nghĩ xa hơn một chút thì bưc điện thư này giống như một mật lệnh…
Ông Vượng bỏ giờ làm ở hãng đến phi trường không phải để đưa bà Hương lên máy bay mà để xem ai là người giúp bà tiền bạc để đi thăm người bạn gì đó trên Đà Lạt. Ông Vượng nhìn chăm chăm vào hàng người đang chờ nhân viên phi trường kiểm tra giấy tờ để vào phòng chờ lên phi cơ. Bỗng ông Vượng thấy bà Hương đang chuyện trò vui vẻ thân mật với một người đàn ông lạ mặt. Ông liền nổi trận lôi đình chạy đến đấm lia lịa vào mặt người đàn ông. Cảnh Sát đến kịp thời còng tay ông Vượng và giữ luôn người đàn ông và bà Hương để điều tra sự việc.
Ở phòng làm việc sở cảnh sát, cô điều tra viên hỏi vì sao ông đánh người ta? ông Vượng trả lời tôi không nhịn được hành vi bỉ ổi của hắn, đang o bế dụ dỗ vợ tôi. Cô điều tra viên hỏi tiếp ông có biết hành vi đánh người là phạm pháp không?. Tôi biết, nhưng lúc đó tôi không kiềm chế được khi thấy có người ve vãn vợ mình!!!… Thôi được. Chúng tôi tạm giữ ông để chờ ngày ra tòa. Cũng may ông không gây thương tích gì cho đối phương. Một tuần sau ông Vượng được trả tự do vì có người bảo lãnh và đóng tiền phạt cho ông. Trên đường về nhà, ông Vượng tự trách mình không hỏi rõ trắng đen gì cả, cứ xông vào đấm túi bụi vào mặt người ta, chắc chắn lần này lại thêm một bà vợ nữa bỏ đi…
Đẩy cửa bước vào nhà, ông Vượng thấy ở phòng khách ngoài vợ mình còn có một người đàn bà xinh đẹp và người đàn ông bị ông đánh ở phi trường, họ đang trò chuyện vui vẻ với nhau. Ông Vượng nổi “cơn điên” hùng hổ xông tới định đánh người đàn ông nhưng bị người đàn bà và vợ ông cản lại. Người đàn bà xinh đẹp nói chú Vượng bình tỉnh nghe tôi nói. Đây là anh Thạnh chồng tôi và cũng là người anh họ của em Hương. Chúng tôi đang định cư ở Mỹ mới về Việt Nam hơn một tháng. Hôm đó chồng tôi đi Đà Lạt bàn chuyện làm ăn, tình cờ gặp em Hương. Vì lâu ngày không gặp. Lại đi cùng chuyến bay nên hai người họ rất vui mừng trò chuyện với nhau sau nhiều năm xa cách. Không ngờ lại xảy ra sự ngộ nhận đáng tiếc này. Thấy chú còn bị giam ở sở cảnh sát nên chúng tôi quyết định hủy bỏ chuyến đi để lo cho chú được về sớm. Ông Vượng vừa nghe vừa đưa mắt hết nhìn người này lại nhìn người khác, rồi với gương mặt vừa xấu hổ vừa ăn năn do hành động thiếu suy nghĩ của mình. Ông nói xin mọi người tha lỗi cho việc làm thô bạo và thiếu suy nghĩ của tôi. Ông Thạnh nói thôi bỏ đi. Việc làm sai trái của chú cũng vì thương vợ mà thôi!?…
Ngày 28 Tháng 4 Năm 2018
Nguyễn Đức Nhơn
Ngộ Nhận
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Sau 2 lần bị vợ bỏ, ông Vượng ghét cay ghét đắng đàn bà. Ông thường nói với bạn bè, tao thà ở vậy suốt đời chứ không bao giờ đụng tới cái thứ “hồng nhan họa thủy” ấy nữa đâu. Ông Vượng “tuyên bố” có vẻ cương quyết lắm nhưng chưa đầy một năm ông lại bê một bà sồn sồn ở Tân Định về làm vợ. Từ đó ông không còn ghét đàn bà nữa. Ông nói “không có đàn bà như nhà không có nóc”. Bạn bè chế diễu, ông chỉ cười trừ…
***
Sau một ngày tán dóc với môt người bạn trong Chợ Lớn. Ông Vượng đón xe bus trở về nhà. Khi chiếc xe dừng lại ở một trạm đưa đón khách. Bà khách đầu tiên xuống xe vô ý bước ra đường bị một chiếc xe gắn máy húc bà ngã lăn ra bất tỉnh, cũng may những chiếc xe chạy sau kịp thời thắng lại. Ông tài xế nhảy xuống xe bê bà khách vô lề đường. Bà nằm bất tỉnh. Những người khách bu lại xem, có người đề nghị chở bà ta vào bệnh viện cấp cứu ngay, nếu không cứu chữa kịp thời thì nguy lắm. Ông Vượng với nét mặt khẩn trương bước tới bê bà khách chạy đến chiếc taxi bảo tài xế chạy đến bệnh viện. Khi đến nơi cô y tá ghi vội một vài chi tiết về tai nạn, lấy địa chỉ ông Vượng rồi bỏ chạy theo mấy cô y tá đang đưa bà Hương vào phòng cấp cứu. Ông Vượng thấy không còn ai đếm xỉa gì tới mình nữa nên cũng bỏ ra đường đón taxi trở về nhà. Bà Hương sau khi tỉnh lại muốn gọi cho người nhà biết mình bị tai nạn nhưng điện thoại của bà bị rớt đâu mất, cuốn sổ ghi số điện thoại gia đình cũng mất luôn.
***
Bà Hương chờ bác sỹ khám xong liền nói xin bác sỹ cho tôi xuất viện. Tôi có việc cần về nhà. Ông bác sỹ trả lời cần phải ở lại bệnh viện thêm vài ngày nữa để xem có biến chứng gì không. Thế là bà Hương phải ở lại bệnh viện đến ngày thứ ba mới làm thủ tục xuất viện. Cũng trong ngày này, ông Vượng nhận được giấy mời của bệnh viện. Khi đến văn phòng, cô y tá bảo ông theo tôi. Ông Vượng không biết cô ta đưa mình đi đâu nhưng cũng lủi thủi bước theo. Đến một căn phòng ở tầng lầu 2. Cô y tá đẩy cửa bước vào. Ông Vượng cũng vào theo…
Thấy cách ăn mặc của ông Vượng không giống người làm trong bệnh viện, bà Hương hỏi nhỏ cô y tá, ông đó là ai vậy? Cô y tá giương cặp mắt tròn xoe hỏi ngược lại, ông ấy không phải chồng bà sao? Không, tôi có chồng con gì đâu!… Cô y tá bước nhanh ra ngoài hỏi ông Vượng, bà ở trong phòng có phải là vợ ông không? Không. Tôi là khách của xe bus thấy bà ta bị xe đụng bất tỉnh nên tôi đưa bà vào đây thôi mà. Cô y tá há hốc mồm than nhỏ chết rồi, hỏng bét rồi, tất cả hồ sơ của bà Hương đều ghi ông Vượng là chồng bà. Bây giờ làm thủ tục xuất viện thì phải làm thế nào đây?!!!… Cô y tá trở vào, bà Hương hỏi có phải ông ấy đưa tôi đến đây không? Cô y tá trả lời phải. Vậy nhờ cô mời ông ấy vào đây, tôi muốn nói chuyện với ông ta một chút. Cô y tá trở ra nói mời ông vào phòng. Bà Hương muốn nói chuyện với ông. Khi ông Vượng bước vào, bà Hương nở một nụ cười thật tươi nói chào anh, cám ơn anh đã đưa tôi đi cấp cứu. Bây giờ bệnh viện gặp phải một việc rắc rối, không biết anh có vui lòng giúp họ không? Ông Vượng nói được chứ, miễn đừng làm điều gì trái với pháp luật là được thôi. Nhưng không biết tôi giúp được gì cho bệnh viện đây? Anh tiếp tục đóng vai chồng tôi để ký vào giấy xuất viện được không? Được chứ. Cảm ơn anh nhiều. Bà Hương quay qua cô Y tá nói cô đưa giấy tờ cho anh ấy ký đi…
***
Một sáng mùa thu trời se se lạnh. Sài Gòn với nhịp sống thường ngày của nó, vẫn nhộn nhịp ồn ào xe cộ ngược xuôi. Ông Vượng thả bộ trên đường Lê Lợi bất chợt nghe tiếng gọi mình phía sau. Ông quay lại, sững sờ khi nhận ra bà Hương với một nụ cười thật tươi nói chào anh. Ông Vượng với nét mặt buồn buồn nói sau vụ ngộ nhận ở bệnh viện tôi muốn gặp lại chị nhưng thành phố Sài Gòn rộng lớn, người đông như kiến dễ gì gặp lại nhau. Nhưng hôm nay lại gặp chị, tôi cứ tưởng như mình đang nằm mơ…
***
Ông Vượng và bà Hương tuy là một cặp vợ chồng chấp nối, tuổi tác cũng đã cao nhưng là một cặp vợ chồng sống vơi nhau vô cùng hạnh phúc. Ông Vượng thương bà Hương rất mực. Không cho bà làm bất cứ việc gì. Ông nói em không cần làm gì cả. Mọi việc đã có anh.
Một hôm bà Hương nói với ông Vượng, em muốn lên Đà Lạt thăm một người bạn. Ông Vượng ngạc nhiên hỏi, người bạn nào của em sao lâu nay không nghe em nhắc tới vậy? Chỉ là người bạn thường thôi có gì quan trọng đâu mà phải nói với anh. Vậy em tính chừng nào đi. Thứ hai tuần sau lúc 9 giờ, em mua vé máy bay rồi. Ông Vượng với nét mặt buồn buồn nói vậy cũng tốt, đi chơi cho thong thả, ở nhà hoài dễ sinh bệnh…
Tuy không phản đối nhưng ông Vượng nghi ngờ rất nhiều về chuyến đi này của bà Hương. Trước đây một tuần, ông Vượng tình cờ thấy một bức điện thư ở dưới gối nằm của bà. Đây là bức điện thư của một người nào đó viết cho bà từ Đà Lạt “Em thu xếp lên Đà Lạt chơi, mùa này Đà Lạt đẹp lắm”. Ông Vượng đọc đi đọc lại nhiều lần bức điện thư nhưng không thấy có điều gì mờ ám, tuy nhiên có một điều hơi lạ một chút là người viết bức điện thư này lại ca tụng “Đà Lạt mùa này đẹp lắm” trong khi Đà Lạt đang ở giữa một mùa đông giá buốt. Nếu nghĩ xa hơn một chút thì bưc điện thư này giống như một mật lệnh…
Ông Vượng bỏ giờ làm ở hãng đến phi trường không phải để đưa bà Hương lên máy bay mà để xem ai là người giúp bà tiền bạc để đi thăm người bạn gì đó trên Đà Lạt. Ông Vượng nhìn chăm chăm vào hàng người đang chờ nhân viên phi trường kiểm tra giấy tờ để vào phòng chờ lên phi cơ. Bỗng ông Vượng thấy bà Hương đang chuyện trò vui vẻ thân mật với một người đàn ông lạ mặt. Ông liền nổi trận lôi đình chạy đến đấm lia lịa vào mặt người đàn ông. Cảnh Sát đến kịp thời còng tay ông Vượng và giữ luôn người đàn ông và bà Hương để điều tra sự việc.
Ở phòng làm việc sở cảnh sát, cô điều tra viên hỏi vì sao ông đánh người ta? ông Vượng trả lời tôi không nhịn được hành vi bỉ ổi của hắn, đang o bế dụ dỗ vợ tôi. Cô điều tra viên hỏi tiếp ông có biết hành vi đánh người là phạm pháp không?. Tôi biết, nhưng lúc đó tôi không kiềm chế được khi thấy có người ve vãn vợ mình!!!… Thôi được. Chúng tôi tạm giữ ông để chờ ngày ra tòa. Cũng may ông không gây thương tích gì cho đối phương. Một tuần sau ông Vượng được trả tự do vì có người bảo lãnh và đóng tiền phạt cho ông. Trên đường về nhà, ông Vượng tự trách mình không hỏi rõ trắng đen gì cả, cứ xông vào đấm túi bụi vào mặt người ta, chắc chắn lần này lại thêm một bà vợ nữa bỏ đi…
Đẩy cửa bước vào nhà, ông Vượng thấy ở phòng khách ngoài vợ mình còn có một người đàn bà xinh đẹp và người đàn ông bị ông đánh ở phi trường, họ đang trò chuyện vui vẻ với nhau. Ông Vượng nổi “cơn điên” hùng hổ xông tới định đánh người đàn ông nhưng bị người đàn bà và vợ ông cản lại. Người đàn bà xinh đẹp nói chú Vượng bình tỉnh nghe tôi nói. Đây là anh Thạnh chồng tôi và cũng là người anh họ của em Hương. Chúng tôi đang định cư ở Mỹ mới về Việt Nam hơn một tháng. Hôm đó chồng tôi đi Đà Lạt bàn chuyện làm ăn, tình cờ gặp em Hương. Vì lâu ngày không gặp. Lại đi cùng chuyến bay nên hai người họ rất vui mừng trò chuyện với nhau sau nhiều năm xa cách. Không ngờ lại xảy ra sự ngộ nhận đáng tiếc này. Thấy chú còn bị giam ở sở cảnh sát nên chúng tôi quyết định hủy bỏ chuyến đi để lo cho chú được về sớm. Ông Vượng vừa nghe vừa đưa mắt hết nhìn người này lại nhìn người khác, rồi với gương mặt vừa xấu hổ vừa ăn năn do hành động thiếu suy nghĩ của mình. Ông nói xin mọi người tha lỗi cho việc làm thô bạo và thiếu suy nghĩ của tôi. Ông Thạnh nói thôi bỏ đi. Việc làm sai trái của chú cũng vì thương vợ mà thôi!?…
Nguyễn Đức Nhơn
Ngày 28 Tháng 4 Năm 2018
—o0o—
Nguyễn Đức Nhơn
Ông Hai Sẹo
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Ông Hai Sẹo ngồi trên chiếc chiếu cũ, trải trên lề con hẻm dẫn đến nhà em gái tôi. Ông chỉ mặc một chiếc quần đùi, tay cầm cây quạt bằng lá buông, vừa phe phẩy cho mát vừa đập mấy con ruồi. Rất hiếm thấy Hai Sẹo ngồi uống rượu với bạn bè. Thường thì ông ngồi một mình với một xị rượu và một dĩa mồi nhỏ. Ông rất dễ dãi với mọi người, kể cả đám trẻ con thường hay nghịch ngợm, phá phách. Người ta gọi ông là Hai Sẹo vì trên trán ông có hai vết sẹo nhỏ, còn tên thật của ông là gì thì không ai biết.
Con hẻm nằm trong khu vực thành Ô Ma. Một số gia đình bỏ quê chạy về Sài Gòn kiếm sống. Họ đến đây dựng những căn lều nhỏ, nằm sát nhau. Lúc đầu độ chừng vài chục gia đình, nhưng dần dần, cả con hẻm không còn chỗ nào trống. Ban ngày, khu nhà ổ chuột này chỉ thấy trẻ em và người già. Chiều tối con hẻm mới trở nên ồn ào đông vui. Ông Hai Sẹo là người sau cùng đến cắm dùi ở khu ổ chuột này. Ông sống hòa đồng, cởi mở, vui vẻ với mọi người nên chẳng ai buồn để ý, tò mò, tìm hiểu đời tư của ông làm gì. Chỉ biết ông là người miệt lục tỉnh và đến sống ở đây một mình. Nghe nói ông làm công nhân khuân vác cho một kho hàng xuất nhập cảng tận trong Chợ Lớn. Có lẽ vì vậy mà người ta chỉ thấy ông xuất hiện vào buổi chiều, khi thành phố sắp lên đèn.
Có một điều trùng hợp khá lý thú, ở con hẻm này cũng có một ông tên là Hai Sẹo. Nhưng cái tên Hai Sẹo này được xác định lý lịch hẳn hoi, gần như mọi người ở đây đều biết rõ về cái quá khứ thúi quắc của lão. Để dễ phân biệt, tôi xin tạm gọi lão là ông Sẹo Ngực, bởi vì hai vết sẹo của lão nằm trong ngực, chéo lên nhau, hình như do bàn tay con người chứ không phải do một tai nạn nào đó gây ra. Mỗi lần uống rượu ngà ngà say, lão thường vạch áo ra và dõng dạc tuyên bố: thằng Hai Sẹo này không ngán ai đâu. Bọn lính tao còn không coi ra gì ờ… ờ…
Có lần ngang qua chỗ Hai Sẹo ngồi uống rượu, lại nhầm lúc lão Sẹo Ngực vừa vạch áo vừa la lối om sòm, ông Hai Sẹo nhìn tôi phân bua: cái quá khứ của hắn thúi hơn cứt, khai hơn nước đái mà lúc nào hắn cũng vạch áo ra cho thiên hạ xem. Ông trời cũng trớ trêu thật. Hai cái sẹo của hắn đáng giấu, hắn lại cứ khoe ra. Còn hai cái sẹo của tôi, nói thiệt nghe, nó rất xứng đáng được khoe ra, nhưng tôi muốn giấu lại không làm cách nào giấu được, hề… hề…, Ồ sẵn dịp, ngồi xuống làm một cốc chơi anh Hai.
Tôi ngồi xuống ở một góc chiếu nói: cảm ơn. Ông Hai sẹo cầm xị rượu rót vào cái chén nung bằng đất sét. Nét mặt ông thoáng một chút vui. Tôi nóc cạn chén rượu rồi nói bâng quơ: không cần đâu. Ông Hai sẹo nhìn chăm bẵm vào mặt tôi cất cao giọng: sao không. Tôi ngước mặt nhìn trời. Bầu trời trước mắt tôi dường như bị thu hẹp lại thành một vệt sẩm đục vắt ngang đỉnh đầu. Tôi thở dài sườn sượt nói: ở đời ai cũng có một vết tích gì đó để giấu và để khoe. Có người, vết tích hằn rõ bên ngoài. Có người lại chìm khuất bên trong. Nhưng dù trong, dù ngoài, dù xấu, dù đẹp gì rồi cũng khổ vì nó thôi. Ông Hai Sẹo dương cặp mắt sáng quắc nhìn tôi nói: có chút triết lý. Tôi nói: hình như vậy. Ông Hai Sẹo tò mò: anh nói giống như anh cũng có một vết sẹo đang nằm đâu đó: Có chứ. Nó nằm trong tim tôi. Ông Hai Sẹo nhìn theo một người đàn bà vừa mới ngang qua, miệng lẩm bẩm: cũng tại đàn bà cả. Ông chép chép miệng rồi quay qua tôi nói: ồ vậy thì không cần phải bận tâm. Không ai nhìn thấy được đâu… ờ… ờ… mà anh cũng không làm cách nào banh nó ra để khoe với thiên hạ được… hề… hề. Tôi nói: không phải thiên hạ mà là một người. Một người đàn bà?: Đúng. Ông nói đúng. Là một người đàn bà. Vết sẹo trong tim tôi do bà ta gây ra nhưng chính bà ta cũng không hề hay biết. Còn tôi thì cho đến bây giờ vẫn không đủ can đảm mổ ngực mình ra cho bà ấy xem! Thôi nhé. Cám ơn cốc rượu. Chào.
Đèn đường bật sáng. Con bóng của tôi ngã dài trên mặt đường loang lỗ dẫn đến cuối con hẻm, và đó là lần sau cùng tôi ngang qua con hẻm này. Mãi về sau, tôi mới có dịp ghé ngang thành Ô Ma, nhưng con hẻm lúc này chỉ còn những cột đèn, những đống rác, và vài ba con chó đói cụp đuôi bỏ chạy khi nhìn thấy tôi…
***
Dòng đời trôi tuồn tuột trên mỗi số phận con người. Không ngờ tôi lại gặp ông Hai Sẹo ở cái thị trấn buồn hiu này. Ông đã già đi nhiều, làm nghề hớt tóc. Tôi ngạc nhiên: ồ, ông Hai Sẹo! ngọn gió nào thổi ông tắp vào cái thị trấn này vậy?: Không phải gió mà dòng đời. Tôi thở dài: ờ đúng há. Mà này ông Hai Sẹo, ông có biết là mỗi con người sống trên đời này đều chuẩn bị cho mình một lối thoát không? Ông Hai Sẹo dừng tay nhìn tôi nói: nhưng dường như không mấy ai thoát thân từ cái lối do mình chọn sẵn!… Ông khách ngồi chờ hớt tóc xen vào: hai ông nói điều khó hiểu. Tôi thì cho rằng cái lối thoát duy nhất của con người đều được định sẵn bởi một đấng tối cao nào đó.
Thấy cuộc đối thoại sắp đi vào một đề tài mà cả đời tôi luôn tránh né. Tôi vội lãng sang chuyện khác: này ông Hai Sẹo, lâu ngày gặp lại, có muốn tối nay mình lai rai chơi một chút không?: Nhưng tôi không biết nhà ông ở đâu: đợi tôi ở đây, 6 giờ tôi quay lại chỡ ông. Ông Hai Sẹo gật đầu…
Nguyễn Đức Nhơn
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Xuôi Theo Dòng Nước Ngược
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Từ bến xe về nhà chú tôi phải băng ngang một cánh đồng hoang. Ở cuối cánh đồng, gần khu chợ chồm hổm Tân Mai có một căn nhà lá nằm trơ vơ với những bức vách xiêu vẹo te tua vì trải qua nhiều năm tháng không được tu sửa. Tôi ghé vào xin nước uống. Bà chủ nhà hé cửa ló đầu ra hỏi anh cần gì? Tôi nói trời nóng quá chị cho xin miếng nước và đụt mát một chút được không? Bà chủ nhà vừa mở cửa vừa nói mời anh vào rồi bước đến cầm chiếc ấm rót nước vào cái ly làm bằng đất nung. Căn nhà, ngoài lối đi và cái sân nhỏ phía trước, chung quanh đều là cây dại và cỏ tranh. Bên trong nhà kê một chiếc giường tre và một cái bàn với bốn chiếc ghế đẩu làm bằng gỗ tạp. Ở bức vách phía sau, kê một bàn thờ, trên bàn thờ là ảnh một người lính trẻ, mặc đồ trận, không thấy mang cấp bậc. Trước ảnh là một lư hương bằng sành, trên lư hương, vài ba chân nhang cắm xiêu vẹo. Thấy tôi đứng nhìn trân tấm ảnh, bà chủ nhà thở dài nói mời anh ngồi. Đó là ảnh thằng con tôi. Nó chết hồi còn chiến tranh. Thằng nhỏ mới ra trường Bộ Binh Thủ Đức được mấy tháng thì đụng trận bị thương, trực thăng chở về chưa tới bệnh viện là nó đi rồi.
Thấy bà chủ nhà có vẻ cởi mở nên tôi bắt chuyện làm quen, xin lỗi chị tên gì vậy? Tôi tên Trang. Cảm ơn chị Trang, tôi từ bến xe về nhà chú tôi nhưng nắng nóng quá đành ghé vào đây làm phiền chị. Có phiền gì đâu, nhưng nhà không có trà, anh dùng tạm nước lạnh vậy. Tôi hỏi Trang chị còn cháu nào không? Còn. còn một đứa con gái. Nó lấy chồng tuốt dưới miệt lục tỉnh. Năm, nửa năm mới về một lần. Chị ở nhà này một mình? Chớ sao giờ. Bà Trang ngừng một chút rồi nhìn tôi tò mò, anh có mấy cháu? Chị làm nghề gì vậy? Bà xã tôi lấy chồng khác rồi. Tôi cũng có một đứa con trai, nó nghịch ngọm lượm đầu đạn đập lấy chì bị nổ chết rồi. Ồ! Xin lỗi đã khơi lại chuyện buồn của anh. Mà lý do gì hai người thôi nhau vậy? Vợ tôi không chờ được, bà ấy lấy chồng khác vì cho rằng tôi không thể trở về. Anh ở tù cải tạo? Vâng, tôi ở sáu năm. Bà Trang thở dài sườn sượt nói ông xã tôi cũng ở tù. Tôi hỏi anh ấy về chưa? Ổng chết rồi. Chết khi còn ở trong tù. Có người cùng trại với ổng về nói với tôi như vậy. Tôi bán tín bán nghi nên có đến trại giam hỏi thăm tin tức. Người ta bảo là ổng đã chuyển trại. Tôi có hỏi chuyển đến trại nào thì họ không trả lời vì vậy mà tôi tin là ổng đã chết thật rồi. Chiến tranh cũng chết, hòa bình cũng chết. Biết sao giờ!
Bà Trang không nói gì thêm. Hình như bà đang hồi tưởng một điều gì đó. Nét mặt bà thoáng hiện một nỗi buồn xa xăm khó hiểu. Mặt trời đã ngã về phương tây. Khu đồng hoang trở nên vắng lặng buồn hiu sau một vài cơn gió mùa thoảng qua. Tôi đứng lên cảm ơn bà Trang rồi bước ra cửa, một mình lần theo con đường mòn dẫn đến nhà chú tôi. Từ đó, năm ba ngày tôi đến thăm bà Trang một lần. Lúc đầu Trang có vẻ dè dặt nhưng dần dần bà ấy tỏ ra thân thiện và khi tôi ra về, lúc nào bà cũng mời tôi rảnh rỗi ghé nhà chơi.
Bầu trời đen nghịt, gió bắt đầu thổi mạnh. Tôi cố đi thật nhanh, nhưng vừa tới gần khu chợ chồm hổm thì cơn mưa đổ ụp xuống. Tôi đành tạt vào nhà bà Trang trú tạm. Cơn mưa giông đầu mùa thật dữ tợn, gió giật từng cơn. Một vài tấm lá trên nóc bị tróc. Nước đổ xuống đọng thành vũng nhỏ trên nền nhà. Bà Trang ngồi ở mép giường, nét mặt buồn buồn nói nhà không có đàn ông, mưa to gió lớn cũng sợ. Tôi nói chiến tranh qua rồi, nhưng hậu quả của nó thật ghê gớm. Kẻ mất vợ, người mất chồng. Tôi và chị gần như cùng cảnh ngộ, kiếp này chúng ta trả quá nhiều. Những ngày còn lại không biết rồi sẽ ra sao. Tôi buồn thật sự. Những lời tôi nói ra đều xuất phát tự đáy lòng. Bà Trang không nói gì và tôi cũng không biết bà đang nghĩ gì.
Cơn giông chấm dứt, nhưng trận mưa vẫn kéo dài. Trời đã tối hẳn, không còn nhìn rõ cảnh vật bên ngoài. Bà Trang bước đến đốt cây đèn trên bàn thờ. Ánh sáng từ ngọn đèn chao đảo, khi tỏ khi mờ, chiếu lên khuôn mặt đầy đặn, còn phảng phất nét diễm kiều của một thời con gái. Tôi nhìn bà đăm đăm… Cái cảm giác tự nhiên của một người đàn ông vắng vợ lâu ngày thôi thúc, khiến tôi không còn tự chủ được. Bà Trang cũng chỉ phản ứng lấy lệ…
Ngoài trời, mưa vẫn còn nặng hột, thỉnh thoảng một vài ánh chớp lóe lên rồi tắt ngúm. Căn nhà bà Trang chìm trong một đêm mưa đầu mùa dai dẳng, cho đến khi bình minh ló dạng, bắt đầu cho một ngày mới và cũng bắt đầu cho một cuộc tình muộn màng nhưng đầy hạnh phúc.
Cuối cùng, chúng tôi cũng được định cư ở Hoa Kỳ sau một chuyến vượt biên đầy nguy hiểm. Trang suốt ngày buồn bã vì nhớ đứa con gái còn ở lại quê nhà. Chúng tôi sống ở New York một thời gian rồi chuyển về thành phố Garland, Tiểu bang Texas vì không chịu nổi khí hậu buốt giá ở miền bắc. Tại đây tôi và Trang dồn nỗ lực vào nghề may. Thời điểm đó nghề may khá thịnh hành và kiếm rất nhiều tiền. Từ công việc may thuê, chúng tôi mở được một cửa tiệm, rồi hai cửa tiệm vì vậy mà chúng tôi phải chia nhau mỗi người trông coi một tiệm. Hầu như chúng tôi chỉ gặp nhau về ban đêm và cuối tuần. Chúng tôi khá thành công trên xứ sở tạm dung này.
Một hôm, có một người đàn ông trạc tuổi trung niên vào tiệm tôi xin việc. Ông ấy nói tôi qua diện HO, mới được nửa năm. Tôi vốn là một sĩ quan ở tù cải tạo nhiều năm nên rất thông cảm với những người cùng cảnh ngộ. Tôi xem xong tờ đơn xin việc rồi nói được anh đến đây làm cho vui. Ngày mai anh có thể đi làm. Anh Tân cứ yên tâm, ở đây không có việc gì nặng đâu. Tân đứng lên nói cảm ơn rồi ra về.
Tân làm được vài tháng, công việc đã thành thạo nhưng lúc nào cũng buồn bã đăm chiêu, ít trò chuyện và thố lộ việc riêng tư của mình. Lúc đầu tôi không để ý nhưng dần dà tôi thấy ở anh hình như có một nỗi buồn gì đó đang giữ kín trong lòng. Một hôm nhân công việc rảnh rỗi, tôi mời Tân đi nhậu. Tân có vẻ do dự nhưng rồi cũng đồng ý. Trong một nhà hàng khá sang ở Garland, tôi và Tân vừa uống bia vừa nói chuyện bao đồng. Khi cả hai ngà ngà say tôi tò mò hỏi Tân về hoàn cảnh gia đình anh. Tân buồn buồn trả lời, tôi qua đây một mình! Vợ tôi đã lấy chồng khác khi tôi còn ở trong tù, nghe nói bà ấy cũng qua Mỹ rồi. Tôi hỏi anh về năm nào. Tân trả lời về hồi năm tám lăm. Tôi gật gù nói như vậy là anh về sau tôi tới bốn năm. Tôi dặn Tân một vài công việc cho ngày hôm sau rồi lên xe ra về.
Mùa đông năm nay lạnh hơn những năm trước rất nhiều. Nhất là vào dịp tết ta, gió từ miền Bắc thổi về lạnh thấu xương. Tuyết cũng bắt đầu rơi càng lúc càng nhiều. Sân sau nhà tôi và những mái nhà nằm bên kia hàng rào phủ lên một màu trắng xóa.
Ngày hôm sau tuyết ngừng rơi. Tôi mở cửa nhà xe bước ra bên ngoài. Mặt trời chói chang phủ lên mặt tuyết một màu trắng lung linh rực rỡ trông giống như một cảnh thần tiên nào đó mà tôi đã từng tưởng tượng. Con đường trước nhà hằn lên những vết xe trên mặt tuyết. Những đứa trẻ ở mấy ngôi nhà đối diện túa ra sân lấy tuyết đắp thành những hình người trông thật ngộ nghĩnh. Tôi cũng thấy vui lay với các cô cậu nhóc con nghịch ngợm này.
Tôi trở vào nhà thì chuông điện thoại bật reo. Tôi nghe đầu giây bên kia tiếng Tân nói sẽ đến nhà thăm vợ chồng tôi. Tôi nói đường đông đá lái xe nguy hiểm lắm, Tân nói xe cộ chạy nhiều rồi, không sao đâu. Tôi đoán được Tân đến với mục đích tặng quà tết cho tôi nên không tiện từ chối. Trang hỏi anh cần đồ nhậu không. Tôi trả lời Tân có lòng đến nhà, mình cũng nên đối đãi tử tế với anh ấy. Vả lại thời tiết này mà có người cùng nhậu thật là tuyệt.
Khoảng một tiếng sau thì Tân đến nhà. Tôi mời Tân ngồi và nói hôm nay mình lai rai một chút chơi. Tân nói lời từ chối. Tôi gạt ngang và nói vợ tôi đang làm đồ nhậu. Chắc một chút nữa là xong. Trong lúc chờ đợi tôi hỏi Tân có ý lập gia đình với một người đàn bà khác không. Tân trả lời tôi chưa có ý định này. Tôi nói ở cái xứ này sống một mình bất tiện lắm. Dù gì cũng nên lập gia đình để nương tựa nhau thì tốt hơn. Tôi vừa dứt lời thì Trang từ trong bếp bước ra với một dĩa đồ nhậu trên tay. Trang khựng lại khi nhận ra Tân. Nàng đứng sững như trời trồng. Dĩa đồ nhậu vuột khỏi tay nàng rơi xuống nền gạch vỡ toang, thức ăn văng tung tóe. Tân đứng bật dậy như một cái máy bước nhanh ra cửa, không nói một lời nào. Tôi vô cùng kinh ngạc khi chứng kiến sự việc ngoài sức tưởng tượng này. Trang vẫn đứng lặng người tại chỗ. Nét mặt thất thần tái mét. Tôi đứng lên nắm tay nàng dìu đến ngồi trên ghế sofa hỏi sao hai người có cử chỉ kỳ cục như vậy. Trang ồ lên khóc nức nở. Bây giờ thì tôi đã đoán được phần nào sự việc rồi. Tôi nhỏ nhẹ hỏi Trang có phải anh Tân là người chồng cũ mà em tưởng đã chết trong tù đó không? Trang gật đầu rồi ù té chạy vào phòng ôm gối khóc. Tôi nói việc đâu còn có đó. Em đừng quá xúc động. Trang thôi khóc nhưng vẫn nằm trên giường quay mặt vào trong. Tôi an ủi nàng vài lời nữa rồi ra ngồi ở phòng khách. Tâm trạng tôi lúc này rối như tơ vò. Tôi không hề trách cứ Trang và tôi cũng không hiểu được phản ứng của nàng xuất phát từ một cảm xúc nào trước sự việc vừa mới xảy ra. Tôi nghĩ ngợi lung tung về một tương lai mà tôi phải đối mặt. Suốt ngày hôm đó tôi luôn ở bên Trang vì sợ nàng không chịu nổi nghịch cảnh rồi làm chuyện điên rồ. Ngoài trời tuyết bắt đầu tan nhưng cái lạnh trong hồn tôi dường như mới bắt đầu. Những chai bia thay nhau cạn, dĩa đồ nhậu vỡ tung vẫn còn nằm nguyên đó. Căn nhà trở nên trống vắng đến rợn người. Tôi vào phòng thăm chừng Trang. Nàng vẫn nằm yên đó. Tóc nàng xỏa ra che khuất một phần khuôn mặt còn đọng một vài giọt nước mắt…
Trang à! Bây giờ em định thế nào? Trang trả lời để em được yên tĩnh một vài ngày nữa rồi chúng ta sẽ nói chuyện sau. Vậy cũng được. Anh chỉ muốn em thật bình tĩnh để có một quyết định sáng suốt, đừng để cho sự việc trở nên rắc rối hơn. Chúng ta nên giải quyết vấn đề một cách êm thắm. Anh sẵn sàng chấp nhận những gì em muốn và tôn trọng mọi quyết định của em. Nói xong tôi bỏ ra ngoài với một tâm trạng đầy mâu thuẫn. Hai ngày sau tôi bảo Trang em ở nhà nghỉ ngơi. Anh ra tiệm coi công việc thế nào rồi về ngay. Trang nói dù gì anh cũng nên có mặt ở tiệm để công việc khỏi bị tồn đọng. Tôi nói em yên tâm. Anh sẽ lo mọi việc. Đến tiệm, việc đầu tiên của tôi là muốn nói chuyện với Tân về sự việc đã xảy ra nhưng cô thư ký bảo mấy ngày nay không thấy ông Tân đến tiệm. Tôi hỏi anh ấy có nói đi đâu không. Cô thư ký trả lời mấy hôm trước ông Tân nói đến tìm ông có việc rồi không thấy ông ta đến tiệm nữa. Tôi nói thôi được cô làm việc đi. Trở về nhà tôi đem chuyện Tân bỏ việc nói cho Trang nghe. Nàng tỏ ra một chút ngạc nhiên rồi nhìn tôi nói anh không cần quan tâm nhiều về vấn đề này. Tân bỏ làm là một việc tất nhiên vì dù gì anh ấy cũng bị một cú xóc khá nặng, nhưng thế nào anh ấy cũng sẽ tìm em để tỏ bày một điều gì đó. Anh cũng nghĩ như vậy, nhưng em đã chuẩn bị phải trả lời như thế nào chưa? Em sẽ trả lời dứt khoát với anh ấy là mọi việc đã được an bài không còn một chọn lựa nào khác ngoài việc phải chấp nhận nó. Em nghĩ là anh ấy sẽ phản ứng thế nào? Phản ứng thế nào cũng mặc vì em cảm thấy mình không hoàn toàn có lỗi trong vấn đề này và em tin là anh ấy cũng nghĩ như thế. Theo anh thì mọi việc phải được giải quyết một cách ổn thỏa, rõ ràng hơn là biến mình thành một cỗ máy không người lái muốn đâm đầu vào đâu cũng được. Anh muốn chúng ta, cả ba người phải đối mặt nhau để giải quyết vấn đề. Trang nói không được. Anh có nghĩ khi cả ba người gặp nhau thì sự việc sẽ càng phức tạp và tồi tệ hơn không? Thôi được, anh tôn trọng quyết định của em. Nói xong tôi bỏ qua phòng làm việc vùi đầu vào những chồng hồ sơ dày cộm cho đến nửa đêm mới lăn ra ngủ. Đã nhiều đêm thức trắng, nên vừa nằm xuống là chìm vào giấc ngủ như một đứa trẻ vô tư lự.
Hai tuần trôi qua trong sự chờ đợi nhưng chúng tôi vẫn không thấy một phản ứng nào từ Tân. Trang cố làm ra vẻ bình thản nhưng tôi biết nàng đang chịu một áp lực rất lớn trước sự im lặng khó hiểu này của Tân. Tôi không còn đủ kiên nhẫn nên đã nhờ Lượng đến nhà Tân để thăm dò thái độ của anh. Lượng cho tôi biết Tân đã trả căn chung cư và đi đâu không rõ. Tôi đem chuyện này nói với Trang. Nàng không nói gì và cũng không biểu lộ một cử chỉ đặc biệt nào. Sự chờ đợi của chúng tôi lại tiếp tục đến tuần thứ tư thì tôi nhận được thư của Tân gởi từ Cali (theo dấu bưu điên). Ngoài phong bì không đề địa chỉ người gởi. Tôi mở thư ra xem, anh viết:
“Kính gởi anh chị Hưng,
Lời đầu tiên của tôi là chúc anh chị luôn vui khỏe và may mắn trong công việc làm ăn. Tôi cũng xin lỗi anh chị về chuyện bỏ việc ra đi mà không báo trước, mong anh chị thông cảm. Tôi không biết anh chị có nảy sinh vấn đề gì khó xử khi sự việc ngoài ý muốn xảy ra hay không? Nhưng tôi luôn cầu mong anh chị tha thứ trước phản ứng không mấy tốt đẹp xảy ra ngoài vòng kiểm soát của tôi. Tôi cũng xin cảm ơn anh Hưng đã cư xử tốt với tôi trong những ngày tôi còn ở Garland. Kính thư, Tân”
Đọc xong, tôi đưa lá thư cho Trang. Nàng xem qua rồi nói cũng may chúng ta là những người hiểu biết và rộng lượng. Mọi việc coi như đã giải quyết xong.
Hội trường trang hoàng khá đẹp. Thân hữu khắp nơi tụ về tham dự đại hội rất đông. Tôi đang loay hoay chào hỏi mọi người. Trang cũng lăng xăng với mấy bạn học cũ ở một góc hội trường. Bất chợt tôi nhìn thấy Tân cùng lúc anh cũng vừa nhận ra tôi. Chúng tôi vừa đưa tay chào vừa tiến về phía nhau. Chúng tôi bắt tay với một cử chỉ niềm nở thân thiện. Tôi chỉ tay về phía Trang nói bà ấy rất vui khi gặp lại bạn bè. Tân nói bà xã mình cũng vậy. Anh đã lập gia đình? Vâng. Đã được vài năm. Mừng anh. Tân nói anh chờ chút. Tôi tìm bà xã đưa đến chào anh chị. Tôi gật đầu rồi hướng về phía Trang ra dấu gọi nàng đến. Trang nói gì đó với mấy bà bạn rồi đến với tôi. Trang hỏi có việc gì vậy? Tôi trả lời em chờ một chút. Anh sẽ dành cho em một việc rất bất ngờ. Trang định gặng hỏi tôi việc gì nhưng nàng khựng lại vì nhận ra nét mặt tôi biến đổi một cách kỳ lạ. Trang tò mò nhìn theo hướng mắt tôi và nhận ra Tân đang nắm tay một người đàn bà xinh đẹp tiến về phía chúng tôi. Tôi kịp lấy lại bình tĩnh khi Tân vui vẻ giới thiệu đây là Lệ bà xã mình. Tôi cố kiềm chế cho giọng không bị run nói chào chị Lệ. Tân cũng chào hỏi Trang trong khi Lệ đứng yên như trời trồng. Tôi nhận ra sự giao động kịch liệt từ đôi mắt Lệ nhưng cố làm ra vẻ tự nhiên hỏi chị Lệ qua Mỹ lâu chưa. Lệ biết tôi không muốn gây ra rắc rối trước sự tao ngộ oái oăm đầy kịch tính này nên nàng giả vờ vui vẻ trả lời dạ em qua được bốn năm rồi. Tôi nói thôi chào anh chị, tôi còn chút việc phải làm. Hẹn khi khác gặp lại. Tôi nói xong liền nắm tay Trang rời khỏi hội trường. Trang không thắc mắc gì cả vì nàng nghĩ là tôi không muốn trò chuyện với Tân nhiều. Nàng nghĩ tôi đang trốn chạy sự thật, nhưng nàng đâu hiểu tâm trạng tôi khi gặp lại Lệ, người vợ cũ đã lấy chồng khác khi tôi còn ở trong tù. Tôi băn khoăn không biết nên nói với Trang việc này không và tôi cũng thắc mắc không biết hoàn cảnh nào đưa đẩy Tân và Lệ gặp nhau trên xứ sở tạm dung này. Tôi tự nhủ mình không nên để ý đến vấn đề này làm gì và không cần biết Trang nghĩ thế nào về mình. Tôi quyết định không tham dự đại hội nữa và cùng Trang biến chuyến đi thành một chuyến du lịch ở miền Nam Cali…
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Một Chuyến Đi Hụt Hẫng
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Người khách sau cùng vừa chui vào được bên trong thì chiếc xe đã rời khỏi bến. Bà đứng lom khom, hai tay quờ quạng không biết bám vào đâu. Bỗng chiếc xe lắc mạnh, bà mất thăng bằng, ngồi phệt xuống cái giỏ gà dưới chân. Mấy con gà hoảng hốt kêu lên oang oác. Người chủ gà càm ràm:
“Mẹ ơi, đè chết mấy con gà tôi rồi”
Thằng lơ xe cười khúc khích:
“Bảo để trên mui không chịu, chết đáng”
Ông tài xế vừa nhìn lên kính chiếu hậu vừa chửi:
“Đ.m mày, còn không xếp chỗ cho người ta ngồi”
Thằng lơ vất vả lắm mới kê được một bao gạo để làm chỗ ngồi cho bà khách. Người đàn ông trung niên ngồi phía sau (có lẽ là chủ bao gạo) than nhỏ:
“Chết mẹ! Ăn bao gạo này chắc nghiến răng suốt ngày”
Trong số hành khách, có người đến sớm chiếm chỗ, phải ngồi trên xe gần cả tiếng đồng hồ. Họ mong từng giây từng phút cho xe chạy. Chiếc xe đầy nhóc người, nhưng ông tài xế (cũng là chủ xe) cứ rề rà để kiếm thêm khách. Không ai dám hối thúc, vì biết có hối thúc cũng vô ích, vả lại cũng không muốn làm mất lòng ông ta, lỡ lần sau đi trể, bị bỏ lại thì khốn.
Đây là chiếc xe than duy nhất chạy trên lộ trình này. Chiếc xe được “cải tiến” từ một chiếc Peugeot 203 cũ kỹ. Xe chạy mỗi ngày một chuyến, bắt đầu từ ngã ba Long Thành đến khu kinh tế mới Suối Quít.
Con đường dài gần năm mươi cây số này bị bỏ hoang từ thời chiến tranh nên đầy dãy ổ gà. Chiếc xe vừa chạy vừa lắc lư như chiếc thuyền con tròng trành trên sóng. Chạy được một đoạn thì hành khách có người say sóng ọc mửa tùm lum, bốc lên một mùi chua lợm giọng, khiến một vài người khác chịu không nổi phải mửa theo.
Lúc này thì không còn ai để tâm đến những cung cách lịch sự thường ngày, kể cả cô gái ngồi bên cạnh tôi. Mỗi lần chiếc xe lắc mạnh, cả người cô ngã lên mình tôi, một tay choàng qua vai, bấu chặt như bấu vào một khúc gỗ, không một chút úy kỵ. Cố gái khá đẹp. Nước da trắng mịn. Khuôn mặt trái xoan. Mũi cao. Miệng nhỏ. Cặp chân mày dài, cong vút với mái tóc đen huyền phủ xuống gần tới thắt lưng.
Sau một hồi dằn xóc kịch liệt, chiếc xe chạy qua một khúc đường tương đối bằng phẳng. Cô gái lấy lại tinh thần, sửa lại thế ngồi ngay ngắn. Cô nhìn thoáng qua tôi nhưng không biểu lộ một cử chỉ đặc biệt nào. Tôi cũng tảng lờ, nghiêng người nhìn ra bên ngoài. Mặt trời đã lên đến đỉnh đầu. Thời tiết tháng Tư oi bức. Xa xa một vài đám mây lững lờ trên nền trời trong xanh. Một con chim khách nghịch ngợm lượn theo chiếc xe mấy vòng rồi bay thẳng vảo khu rừng, mất hút.
Chiếc xe ì ạch bò lên một ngọn đồi thoai thoải. Khói từ hai ống bô tuôn ra tạo thành một vòng xoáy bám sát vào đuôi xe. Bên lề đường, một em bé trần truồng đứng trước một ngôi nhà tranh lụp xụp, chăm chú nhìn chiếc xe như nhìn một con quái vật. Một người đàn bà trạc tuổi năm mươi, mặc bộ bà ba đen ngả màu, kéo lê một bao than ra đường. Chiếc xe từ từ ngừng lại. Thằng lơ nhảy xuống nhét vào tay người đàn bà một xấp tiền rồi bê bao than ém vào đuôi xe. Chiếc xe gầm lên rồi cố sức trườn tới. Người đàn bà chăm chú đếm từng tờ bạc lẻ. Thằng bé vẫn nhìn theo chiếc xe với một niềm vui hiếm hoi, mỗi ngày chỉ đến với nó một lần. Chạy thêm một đoạn chừng vài chục cây số, bỗng chiếc xe rung lên bần bật như một người bị chứng kinh phong. Ông tài xế vừa đạp ga vừa chửi thằng lơ luôn miệng. Hình như ông ta chửi vì thói quen chứ không vì lỗi lầm hay biếng nhác của thằng lơ.
Dù cố gắng đến đâu cũng vô ích. Chiếc xe vẫn khạc ra những tiếng khằng khặc rồi tắt phụt. Hành khách trên xe vừa lo vừa mừng. Ngồi trên xe gần hai tiếng đồng hồ. Đây là cơ hội tốt để trút đi những thứ thừa thải trong người. Nhưng xuống xe rồi mọi người mới chợt nhận ra, chiếc xe ác ôn lại chết máy ngay trên một khu đồng trống. Những người đàn ông thì thoải mái, bước ra chừng vài chục thước là xong. Những bà sồn sồn thì chịu khó ra xa một chút rồi cũng êm chuyện. Tôi bất chợt nhìn sang cô gái. Cô ta đứng chết trân tại chỗ, ứa nước mắt. Tôi biết cô đang gặp khó khăn gì. Nhưng trong trường hợp này, tôi vô phương giúp đỡ. Nhìn cô ta thật đáng thương. Bỗng tôi chợt nghĩ ra và móc từ trong túi xách một tấm vải che mưa, bước đến chìa vào cô. Cô gái hơi lúng túng nhưng cũng đưa tay nắm lấy miếng vải. Tôi trở về chỗ, tựa lưng vào hông xe và hơi ngạc nhiên vì thấy cô gái vẫn đứng tần ngần tại chỗ, đôi mắt càng đỏ hơn. Tôi biết sự chịu đựng của cô đã đến mức tột cùng. Cũng may lúc ấy có một người đàn bà tốt bụng, hiểu ý, nắm tay cô dẫn ra một chỗ xa xa giúp cô căng tấm vải làm bức màn che. Cô gái trở vào với một dáng điệu ngượng nghịu, sượng sùng. Cô nhờ người đàn bà đem trả tôi tấm nylon. Tôi quay mặt qua chỗ khác để khỏi làm tăng thêm nỗi hổ thẹn, ngượng ngùng của cô.
Mặt trời đã ngả về phương tây. Ông tài xế và thằng lơ vẫn hì hục với chiếc cỗ máy bất động như một con vật đuối sức nằm lỳ. Dưới sức nóng hanh hao của buổi chiều tháng Tư, mọi người đều mỏi mệt, không ai buồn nói chuyện. Trong cái không gian vắng lặng của vùng hoang dã chỉ còn nghe tiếng va chạm của kềm búa, tiếng chủi bới oang oang của ông tài xế và tiếng càm ràm khe khẻ của thằng lơ. Tôi bước đến ngồi trên một khúc gỗ nằm bên vệ đường, bật lửa đốt thuốc. Thỉnh thoảng tôi đưa mắt nhìn về phía cô gái. Giữa nơi đồng không mông quạnh mà được ngắm nhìn một bông hoa kiều diễm thế kia thì còn gì bằng. Ước gì…
Đang đắm chìm trong mơ mộng thì tiếng máy xe nổ rang, kéo tôi về hiện thực. Hành khách mừng rỡ chen nhau lên xe. Tôi bước theo sau cô gái vào ngồi ở chỗ của mình. Nhìn đồng hồ đã 4 giờ 30 chiều. Xe chạy thêm một đoạn chừng vài cây số thì đến một con suối nhỏ, hai bên cây mọc um tùm. Ông tài xế cho xe ngừng lai. Thằng lơ cầm cái thùng nhựa vừa đi xuống suối vừa nói oang oang:
“Đi ỉa , đi đái… đi bà con ơi”
Thì ra đây là chỗ thường ngày chiếc xe dừng lại đổ nước máy và cho bà con đi tiểu. Đây là lần đầu tiên tôi đến khu kinh tế mới Suối Quít, nên không biết còn bao lâu nữa thì đến nơi. Nếu đến đó vào ban đêm thì việc tìm nhà sẽ vô cùng khó khăn. Bất chợt tôi quay sang cô gái hỏi:
“Xin lỗi, ở Suối Quít cô có biết nhà ông Sáu Ngởi không vậy?”
Cô gái nhìn tôi với vẻ không được tự nhiên lắm:
“Dạ không. Cháu mới đến Suối Quít lần đầu”
Bây giờ tôi mới để ý đến cách ăn mặc của cô gái. Tuy không sang trọng lắm nhưng rất đúng “mốt” của những cô gái thị thành. Tôi biết mình bị hớ, nên vội khỏa lấp:
“Ồ! thì ra cô cũng như tôi. Nếu mình đến nơi mà trời tối thì thật là phiền” Cô gái không nói gì, đưa tay vuốt lại mái tóc.
***
Càng vào sâu địa hình càng phức tạp. Những ngọn đồi nối tiếp nhau phơi mình dưới ánh nắng chiều mùa hạ, chấp chới, mông lung. Một vài căn chòi lá nằm trơ vơ trên ngọn đồi với những cuộn khói bốc lên từ những hàng cao su mới trồng, thẳng tắp. Bất chợt tôi thấy một đám mây đen xuất hiện ở hướng tây nam. Đám mây mau chóng hình thành một trận mưa giông đầu mùa dữ tợn. Hành khách vội vàng thả tấm màn nylon chống mưa, nhưng nó không giúp được gì. Những đợt gió thay nhau thóc vào hông xe, tấm màn nylon giẫy lên phành phạch, ngọn mưa theo đó tạt vào. Hành khách la ơi ới. Thằng lơ lòn hai cánh tay xiết chặt vào chiếc thang gắn ở đuôi xe, gồng mình chịu đựng. Ông tài xế cho xe chạy chậm lại. Lúc này, mọi người trên xe dường như đã khuất phục trước sự cuồng nộ của thiên nhiên. Tất cả đều ngồi co rút, im lặng, trên mặt thoáng hiện một chút sợ hãi. Có người mấp máy đôi môi, hình như đang cầu xin một đấng thiêng liêng nào đó phù hộ. Cô gái nép sát vào người tôi. Với bàn tay rắn chắt của một người đàn ông chưa tới bốn mươi, tôi lấy hết sức ghì chặt tấm màn, vừa che cho cô gái vừa che cho mình. Tôi nghe lòng ấm lại trong cái mát lạnh của trận mưa giông đầu mùa.
***
Chiếc xe ngừng lại trên một khu đất trống. Trời đã nhá nhem tối. Cảnh vật trở nên mơ hồ lãng đãng sau trận mưa. Hành khách lần lượt xuống xe đi vào các ngả rẽ, mất hút. Trên bãi đậu xe, chỉ còn lại tôi, thằng lơ và cô gái. Tôi đứng nhìn quanh với một nỗi buồn rười rượi. Không ngờ ông Sáu Ngởi, một thương gia có chút tiếng tăm ở Biên Hòa, bây giờ phải giam mình trong cái hóc khỉ ho cò gáy này.
Tôi đang lưỡng lự không biết phải đi về hướng nào thì chợt nhớ đến cô gái. Thì ra cô ta vẫn đứng tần ngần ở trước đầu xe. Nhìn dáng vẻ của cô, tôi đoán được không phải cô đang chờ người thân đến đón. Tôi bước đến hỏi:
“Người nhà chưa đến đón cô à?”
Cô gái rươm rướm nước mắt:
“Cháu không báo trước cho chị Mai”
Tôi không hỏi gì thêm, từ từ rút điếu thuốc đặt lên môi, bật lửa, những lọn khói cuộn tròn, quấn quít như chưa muốn tan biến vào không gian.
“Vậy cô tính thế nào?”
“Cháu không biết”
Tôi đứng ngớ người vài giây rồi hỏi tiếp:
“Nếu vậy, cô có muốn đi với tôi cho có bạn không?”
Cô gái nói nhanh:
“Dạ muốn”
Bây giờ tôi mới để ý đến cử chỉ và lời nói của cô gái. Nhìn vào vóc dáng và khuôn mặt, tôi đoán chắc, tuổi của cô không thể dưới hăm lăm, nhưng không biết tại sao cô ta lại có cái vẻ ngây thơ khờ khạo như vậy.
***
Địa hình khu kinh tế mới Suối Quít vô cùng phức tạp. Những ngôi nhà không nằm gần nhau mà bị phân cách bởi những khu vườn rộng lớn, trồng đủ loại hoa màu. Tôi và cô gái bước theo thằng bé, luồn lách giữa những đám bắp cao khỏi đầu người. Phải mất gần nửa tiếng đồng hồ, chúng tôi mới tới được một căn nhà lá nằm cạnh một con suối nhỏ. Tôi cho tiền thằng bé dẫn đường rồi bước tới gõ nhẹ lên cánh cửa làm bằng những mảnh gỗ ghép lại. Nhìn qua khe cửa, tôi thấy một ngọn đèn dầu treo trên bức vách, tỏa ra một thứ ánh sáng yếu ớt, bệnh hoạn. Một ông già lọm khọm bước đến mở cửa. Dù chỉ một chút ánh sáng lờ mờ từ ngọn đèn dầu chiếu ra, tôi vẫn nhận ra ông Sáu Ngởi. Người ông gầy hẳn đi, ốm yếu, hom hem như một cụ già tám mươi. Ông Sáu Ngởi nhìn tôi đăm đăm, dè dặt như nhìn một tên trộm. Tôi vội lên tiếng:
“Thưa bác, cháu là Dũng đây. Cháu mới về”
Ông Sáu Ngởi nhướng đôi mắt nhìn tôi từ đầu đến chân rồi vỗ nhẹ lên vai nói:
“Mô Phật, về được là tốt rồi. Thôi vào đi, đứng đây muỗi cắn”
Tôi và cô gái bước vào ngồi trên chiếc sạp bện bằng tre. Ông Sáu Ngởi rót trà ra hai cái tách, nói:
“Hai cháu dùng nước. Cháu Dũng lập gia đình rồi à?”
Thấy ông Sáu hiểu lầm, tôi vội lên tiếng:
“Thưa bác, cô gái này đi chung chuyến xe với cháu. Vì trời tối không tìm được nhà người thân, nên theo cháu đến đây xin tạm trú một đêm, xin bác thông cảm”
Ông Sáu Ngởi vui vẻ đáp:
“Ối, ăn thì nhiều chứ ở bao nhiêu”
Ông Sáu đang chăm chú vấn thuốc, bất chợt dừng tay nhìn tôi thở dài sườn sượt:
“Thật không may, cháu vào chơi mà con Quỳnh không có ở nhà. Nó theo chồng về dưới Vũng Tàu gần một tháng nay rồi”
Nghe ông Sáu nói, tôi thấy người choáng váng nhưng kịp lấy lại bình tĩnh:
“Quỳnh làm đám cưới lâu chưa bác?”
Ông Sáu vừa tiếp tục vấn thuốc vừa trả lời:
“Có làm đám cưới đám hỏi gì đâu cháu. Thằng chồng nó làm nghề buôn ngũ cốc, thường tới lui Suối Quít để thu mua bắp và các loại đậu. Hai đứa nó quen nhau. Bác thấy con Quỳnh đã lớn tuổi rồi nên cũng ừ cho nó yên bề gia thất. Cuộc sống đã đổi thay, mình đâu còn gì để mà lựa chọn nữa cháu!”
Nghe giọng nói rầu rầu, chua chát của ông Sáu, tôi đoán được Quỳnh chịu lấy người lái buôn nào đó chỉ vì muốn thoát khỏi cái vùng tăm tối này. Tôi cúi đầu yên lặng, chịu đựng nỗi đớn đau dày vò như có hàng ngàn mũi kim châm vào lòng ngực.
Đêm đó tôi và cô gái ngủ lại nhà ông Sáu Ngởi. Nhà chỉ có một cái gường duy nhất có mùng. Ông Sáu nhường cho cô gái. Tôi và ông ngủ ở cái sạp tre phía trước. Đêm đã khuya, tôi cứ thao thức trằn trọc mãi, không cách nào chợp mắt được. Lâu lâu lại nghe tiếng thở dài của ông Sáu. Tôi biết nỗi đau buồn của ông không kém gì tôi. Ông buồn vì cuộc sống, tôi buồn vì đã mất người yêu…
Thì ra nhà dì cô gái nằm cách bãi đậu xe chỉ vài trăm thước mà chúng tôi không biết. Mai, người chị họ của cô mừng rỡ, lăng xăng hỏi han tíu tít. Bây giờ tôi mới rõ tên cô gái là Phượng Vy. Có một điều làm tôi hơi ngạc nhiên là tính tình cô gái hoàn toàn khác hẳn với ngày hôm trước, nói cười luôn miệng, thỉnh thoảng lại pha trò thật dí dỏm, khiến mọi người cười vang.
Trò chuyện một hồi, Mai đưa tôi và Phượng Vy dạo quanh những khu vườn có nhiều loại cây ăn trái. Phượng Vy nhanh nhẹn như một con sóc, nghịch ngợm, phá phách. Nhìn cô ta tôi nghĩ thầm, chắc cô gái này chưa hề bị tình yêu khuấy động, nên cái vẻ ngây thơ, thuần khiết vẫn còn. Mai thì có vẻ già dặn hơn, nhưng vẫn còn giữ được cái dáng dấp của một cô gái thị thành. Mai đưa chúng tôi đến một con suối nhỏ chảy ngang một khu đất bằng phẳng đã được khai hoang để trồng hoa màu. Những luống rau đủ loại xanh mướt trải dài dọc theo hai bên bờ con suối như hai thảm lụa xanh, phơi mình dưới ánh nắng mai dìu dịu. Chúng tôi đến ngồi trên một chiếc cầu nhỏ bắt qua con suối. Dòng nước chảy êm nhưng đục ngầu vì chứa nhiều phù sa. Cách đó chừng vài chục thước, một cô gái đang cặm cụi chăm sóc mấy luống cải mới trồng. Nhìn cái vẻ lam lũ của cô gái rồi nhìn lại Mai, tôi nghĩ thầm, dù ở bất cứ thời đại nào, dù ở bất cứ nơi đâu, sự bất công của xã hội vẫn luôn luôn tồn tại…
***
Chợ nhóm trên một khu đất trống. Các mặt hàng chính yếu bày bán tại đây hầu hết là những thứ sản xuất tại địa phương như rau cải, thịt heo, thịt rừng và một vài thứ linh tinh khác. Tôi đứng nhìn hai cô gái lăng xăng mua sắm những thứ cần dùng cho buổi cơm chiều. Người tôi mệt nhoài vì suốt ngày lẽo đẽo theo sau hai cô gái. Bữa cơm chiều tuy không thịnh soạn lắm nhưng rất ngon miệng vì tài nấu nướng khéo léo của Mai. Một tô canh mướp, một đĩa mì xào và một đĩa hột gà chiên. Có một điều làm tôi khá cảm động là trước mặt tôi, một chai bia đã khui nắp và một cái ly làm bằng thủy tinh.
“Cám ơn hai cô nhiều, hai cô chu đáo quá”
Mai nhanh nhẩu:
“Đâu có gì. À, mà không có đá đâu nhé. Ở cái nơi thâm sơn cùng cốc này, kiếm một cục đá còn khó hơn kiếm một cục vàng”
Tôi cười xã giao:
“Không sao. Hai cô uống một chút cho vui”
Phượng Vy với một giọng trầm buồn khó hiểu đọc nho nhỏ một câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:
“Người buồn rượu có vui đâu bao giờ”
Mai cười hồn nhiên:
“Nhỏ ơi! Nguyễn Du nói cảnh chứ nói rượu hồi nào”
“Người buồn thì cảnh rượu gì mà chẳng buồn”
“Chứ nhỏ không nghe người ta nói uống rượu giải sầu sao. Ủa, mà nhỏ buồn hay ai buồn vậy?”
Phượng Vy lườm Mai một cái rồi bỏ vào trong lấy chén đủa.
Tôi phải ở lại nhà Mai qua đêm vì đến ngày hôm sau, chiếc xe mắc dịch kia mới trở về Long Thành. Đêm đó ba người chúng tôi ngồi quay quanh một cái bàn nhỏ, trò chuyện. Mẹ Mai, sau một ngày buôn bán thấm mệt đã vào phòng ngủ trước. Dưới ánh sáng mờ ảo của ngọn đèn dầu, khuôn mặt Phượng Vy càng hiện rõ cái nét diễm kiều, khả ái. Tôi ngồi yên nghe hai cô trò chuyện. Bất chợt, tôi cảm thấy sự hiện diện của mình lúc này là một trở ngại cho hai người lâu ngày gặp nhau tâm sự, nên cáo lỗi bước ra ngoài. Bầu trời đen nghịt. Tiếng con trùng râm ran như một bản nhạc hòa tấu ngân nga bất tận…
***
Một ngày hai đêm ở Suối Quít trôi qua như một giấc mộng. Nỗi đau buồn, hụt hẫng của chuyến đi tìm Quỳnh vẫn còn nguyên vẹn trong tôi. Từ giã gia đình Mai, tôi lặng lẽ bước theo hai cô gái tiến về bãi đậu xe. Vẫn chiếc xe than cũ kỹ mang chúng tôi trở về Long Thành. Phương Vy ngồi yên như pho tượng, trên mặt loáng thoáng một nét buồn xa xăm, khó hiểu… Tôi cũng ngồi yên nhìn ra bên ngoài. Bầu trời trong xanh, một cặp chim rừng đang xoải cánh bên nhau, bay về hướng mặt trời…
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Người Đàn Bà Ở Căn Chung Cư Số 13
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Có tiếng động mạnh trên tầng lầu 2. Tôi bước vội ra sân nhìn lên, nhưng chỉ kịp thấy cánh cửa căn chung cư đóng sầm lại rồi im bặt. Tôi chờ thêm vài phút xem có chuyện gì xẩy ra nữa hay không thì điện thoại trong nhà bật reo. Tôi vội trở vào nhấc máy và sững sờ khi nghe đầu dây bên kia, anh Hải ơi! anh lên khóa cửa giùm em. Hồi chiều ra đi em quên khóa. Cảm ơn anh. Alô… alô… tôi chưng hửng, càu nhàu, con khỉ! chưa kịp hỏi gì đã cúp, đồ điên…
Hôm sau, khi gặp bà Trang, tôi chưa kịp mở lời phân trần… thì bà nhìn tôi tươi cười nói, cám ơn anh đã khóa cửa giùm em. Nghe bà Trang nói, tôi chới với không biết phải ứng đáp thế nào vì tôi có khóa cửa giùm bà bao giờ đâu! Chìa ở đâu mà khóa! Bất chợt, tôi nghĩ đến một điều, ở Mỹ chìa khóa nhà ai nấy giữ, đâu có tùy tiện đưa cho người khác được. À, mà sao bà ta lại nghĩ là mình có chìa khóa nhỉ? Nếu bà bị mất đồ thì sao? Nghĩ đến đây tôi đâm hoảng nhưng cố lấy bình tĩnh hỏi, chị có bị mất mát gì không? Bà Trang cười tươi như hoa, dạ không, nhờ anh khóa cửa nên không xẩy ra chuyện gì. Tôi bực mình hỏi, này chị Trang, khóa cửa của chị có mấy chìa vậy? Bà Trang trố mắt nhìn tôi ngạc nhiên, anh hỏi làm chi vậy. Anh Hải ơi, ở Mỹ đừng hỏi những việc như vậy, không tốt đâu. Tôi kêu trời không thấu nhưng nhìn cái vẻ vô tư ngớ ngẩn của bà, tôi đành gượng gạo nói, đúng… đúng…, chị nói đúng! À này chị Trang, tôi làm gì có chìa khóa của chị mà chị nhờ tôi khóa cửa? Chị có chắc là khi trở về, cửa của chị đã được khóa không? Bà Trang nhìn tôi với vẻ ngơ ngác, cặp mắt láo liên hình như đang nghĩ đến một điều gì đó, rất quan trọng. Bà thở dài sườn sượt nói, xin lỗi… xin lỗi… em lẩm cẩm quá. Bà vừa nói vừa vội vã bước lên thang gác…
Gần một tháng nay căn chung cư số 13 của bà Trang cửa đóng im ỉm, cũng không thấy xe bà đậu ở parking lot. Tôi không rõ bà đi xa hay đã đổi chỗ ở? Tuy căn nhà bỏ trống, nhưng thỉnh thoảng lại nghe có tiếng chân người đi tới, đi lui, nện gót giầy thình thịch trên sàn nhà. Đôi khi lại có ánh sáng lờ mờ của loại đèn ngủ phát ra từ khung cửa sổ. Tôi vốn là người không tin ma quỷ, nhưng với những hiện tượng kỳ lạ trên tầng lầu 2, khiến tôi khó tìm được giấc ngủ thanh thản, nhất là về ban đêm. Tôi đâm lo và không biết tại sao lại cảm thấy buồn buồn sau những ngày không gặp bà Trang! Nhiều đêm tôi cứ trằn trọc, thao thức mãi cho đến nửa đêm mới chợp mắt được. Tôi đến ở đây gần được một năm. Tôi không vợ con và cũng chẳng có bạn bè, thân thuộc gì. Có thể nói bà Trang là người thân quen duy nhất của tôi. Bà cũng như tôi. Độc thân. Tính tình trầm lặng. Không thích giao du bạn bè. Bà làm thu ngân viên cho một trung tâm bán lẻ. Ngoài thời gian đi làm và đi chợ, hầu như lúc nào bà cũng có mặt ở nhà.
Căn nhà số 13 yên tịnh lạ thường và bà Trang cũng bặt vô âm tín. Một hôm khi đi làm về, tôi thấy một miếng giấy nhỏ dán trên khung cửa, chữ viết bằng mực đỏ, nhòe nhoẹt từa tựa như viết bằng máu. Miếng giấy chỉ viết có mấy dòng “Anh Hải ơi! Ngày 13 tháng này anh lên gác đốt vài nén hương trên kệ thờ giùm em nhé. Cảm ơn anh nhiều” Tôi đọc mấy dòng chữ mà dở khóc dở cười, lầm bầm trong miệng, ở căn nhà số 13 mà còn nhờ mình ngày 13 lên gác đốt nhang. Trời ơi, con số 13 đâu có đem ra đùa cợt được. Tôi tính nhẩm, từ đây đến ngày 13 còn khoảng hơn một tuần. Thế là tôi cứ nơm nớp chờ đến ngày 13 xem có việc gì xẩy ra hay không?
Đang ngồi đọc báo ở phòng khách thì điện thoại reo. Tôi nhấc lên nghe nhưng điện thoại cứ rít rít, è è không làm sao nghe được. Giọng nói ở đầu dây bên kia cũng nhòe nhoẹt, đứt quãng, chỉ nghe được mấy tiếng Trang đây… Trang đây… rồi sau đó là những tạp âm nghe đến rợn người. Đó là vào một chiều Chúa nhật trời nhá nhem tối. Bên ngoài mưa tầm tã. Những giọt nước từ trên hành lang căn gác nhỏ xuống khóm bạc hà trước hiên nghe lộp độp, lộp độp, thật buồn. Tôi mở cửa bước ra ngoài. Một cảnh tượng làm tôi suýt đứng tim đang hiện ra trước mắt. Những giọt máu từ trên hành lang căn gác rơi xuống đọng trên mấy phiến lá bạc hà, rồi nhiễu từng giọt xuống bộ xương người làm bằng chất nhựa trắng mà tôi đã đặt ở dưới mái hiên trong ngày Halloween. Tôi bước vội vào nhà định gọi 911. Nhưng kịp nghĩ lại, không lẽ có kẻ giết người vào giờ này? Tôi do dự một chút rồi quyết định lên gác xem việc gì đã xẩy ra. Tôi cẩn thận rón rén từng bước đến trước căn nhà số 13. Tôi ngẩn người khi phát hiện ra ngay ở mép hành lang, ai đó đã để một hộp sơn màu đỏ (loại pha nước). Nước mưa tạt vào làm tràn hộp sơn rồi theo kẽ hở chảy xuống tầng dưới. Tôi lững thững bước xuống cầu thang mà nghe lòng buồn rười rượi!…
Vào nhà ngả lưng trên sofa, tôi ngẫm nghĩ, có lẽ gần đây mình bị ám ảnh bởi căn nhà số 13, nên không kịp nhận định, quan sát kỹ càng mới tưởng tượng ra cái chuyện buồn cười, lảng nhách này! Nhưng rồi tôi lại nghĩ, tại sao hộp sơn để ngay trước căn nhà số 13 mà không để ở một căn chung cư nào khác? Tại sao hộp sơn lại mở nắp ra? Tại sao lại chọn đúng vào buổi tối nhá nhem, trời mưa tầm tã này? Hay là có kẻ dùng sơn đỏ để hăm dọa, cảnh cáo mình? Tại sao và tại sao?… Hàng loạt câu hỏi khó trả lời lần lượt hiện ra trong đầu tôi…
Ngày 13 đã đến. Khi làm về, tôi đứng ở parking lot rất lâu để quan sát kỹ càng căn nhà bà Trang. Cửa vẫn đóng. Không thấy có hiện tượng gì khác lạ. Tôi vào nhà thay quần áo rồi vô bếp lục thức ăn. Bưng tô cơm có trộn xì dầu và cải mặn vào phòng khách, tôi vừa ăn vừa nghĩ đến những mẩu chuyện rùng rợn mà người ta đã kể cho tôi nghe về con số 13.
Câu chuyện đầu tiên xẩy ra vào thời Đệ nhị Thế chiến, một quả đại pháo của quân Đức rớt ngay giữa một nhóm lính Mỹ gồm 13 người, tất cả đều tử thương. Từ đó về sau người ta rất úy kỵ con số 13 và cũng từ đó người ta sáng tác ra không biết bao nhiêu chuyện ly kỳ quái đản có liên quan đến con số 13, với một kết luận chắc nịch, 13 là con số xui tận mạng!
Ngồi nghĩ ngợi lung tung một hồi đâm chán, tôi mở cửa ra ngoài cho thư giãn một chút, nhưng bầu trời xám ngắt, cảnh vật âm âm, tôi vội trở vào nhà vì thấm lạnh. Ngồi một mình ở phòng khách, tôi cảm thấy buồn bã, cô đơn, trống vắng vô cùng. Thú thật, cái cảm giác này chỉ đến với tôi trong những ngày không gặp bà Trang. Nhưng lắm lúc tôi lại cảm thấy băn khoăn vì những hiện tượng quái lạ trên tầng lầu 2.
Ngày xưa, khi còn trẻ, tôi đã say mê đọc Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh. Vì vậy, không ít thì nhiều, cũng bị ảnh hưởng bởi những mối tình tuyệt đẹp giữa người và yêu tinh. Tôi không phải là một anh học trò nghèo mải mê đèn sách. Bà Trang cũng không phải là một con chồn tinh. Ấy thế mà tôi cứ thấp tha thấp thỏm trong lòng. Tôi uể oải đứng lên, định lái xe chạy một vòng cho khuây khỏa, nào ngờ mới mở cửa ra, thì bà Trang đang từ nơi đậu xe lù lù bước tới. Tôi đứng sững như trời trồng, miệng cứ ú ớ mãi. Bà Trang hơi ngạc nhiên nhưng cũng kịp nhận ra ở tôi có một việc gì đó, không được bình thường. Bà đoán như vậy rồi vội vàng lên tiếng, làm sao vậy anh Hải? Không hoan nghênh em trở về à? Tôi vội lấp liếm cho qua chuyện, đâu có! Chỉ hơi ngạc nhiên thôi. Bà Trang tiếp, lạnh quá! Em vào nhà được không? Tôi mời bà vào nhà với một nỗi băn khoăn lo lắng. Ngồi vào ghế xong, bà Trang cất giọng hỏi, hôm nay anh có lên gác thắp giùm em mấy nén hương không vậy? Nghe bà Trang hỏi tôi đâm bực mình nhưng cố làm ra vẻ tự nhiên, chị Trang ơi! Chị biết tôi không có chìa khóa của chị mà sao chị cứ nhờ khóa cửa hoài vậy?! Bà Trang hơi ngơ ngác một chút rồi lên tiếng, chết rồi, em lại lẩm cẩm nữa rồi. Xin lỗi anh nhé. Tôi nói, không có gì. Im lặng một chút. Bà Trang nhìn quanh căn nhà với một vẻ chăm chú khác thường. Tôi đánh tan sự im lặng, này chị Trang, hai tháng nay chị đi đâu vậy? Tôi có gọi cell phone mấy lần mà không được. Bà Trang nhìn tôi với nét buồn vời vợi nói, mấy tháng nay em không dùng cell phone anh à! Tôi định hỏi bà thêm một câu, nhưng chưa kịp mở miệng thì bà Trang tiếp, anh Hải à! Nếu em có một việc đáng buồn nào đó muốn tâm sự với anh thì anh có chịu nghe không? Tôi trả lời không do dự, nghe chứ! Nhưng tôi sợ không giữ được bí mật khi nghe những điều ấy! Bà Trang thở dài nói, thực ra cũng chẳng có bí mật gì cả. Bà vừa nói dứt câu thì gục đầu xuống bàn khóc tức tưởi. Tôi đâm hoảng, bối rối không biết phải ứng xử thế nào trước sự việc xẩy ra đột ngột như vậy. Tôi còn đang ngồi chết trân thì bà Trang ngước mặt lên, vừa đưa tay quẹt nước mắt vừa thì thầm qua hơi thở, anh lên gác với em được không? Tôi giật mình. Một ý nghĩ không được lành mạnh hiện ra trong đầu tôi. Bà Trang thấy tôi lưỡng lự nên hỏi lại. Tôi gật đầu, nhưng trong thâm tâm có một chút băn khoăn, ngần ngại. Đây là lần đầu tiên bà mời tôi lên nhà.
Bà Trang mở cửa rồi vói tay vặn nút điện. Ánh sáng từ chiếc đèn màu vàng nhạt trên trần nhà tỏa xuống một thứ ánh sáng yếu ớt, nhờn nhợn nhưng cũng đủ cho tôi quan sát tường tận mọi vật bày biện trong nhà. Tôi để ý đến cái kệ thờ bằng gỗ, sơn màu đỏ gắn trên tường nhà. Trên kệ thờ là ảnh một người đàn ông còn khá trẻ, khoảng ba mươi, ba mươi lăm gì đó. Phía trước tấm ảnh là một lư hương bằng đồng, đầy ắp chân nhang.
Bà Trang loay hoay trong bếp một hồi rồi bưng ra ba ly cà phê. Tôi hơi ngạc nhiên nhưng rồi hiểu ra ngay. Bà Trang lấy một ly để lên kệ thờ rồi đốt nhang cắm vào lư hương. Bà làm mấy việc này một cách tự nhiên và thành thạo. Bà nhìn tôi hỏi, anh Hải làm gì mà ngồi thừ người ra vậy? Tôi lúng túng chưa kịp trả lời thì bà chỉ ly cà phê nói tiếp, mời anh. Em không biết uống cà phê, nhưng hôm nay trời lạnh, em uống với anh một ly. Tôi tò mò hỏi, không biết uống mà sao chị có sẵn cà phê trong nhà vậy? Bà Trang trả lời một cách tự nhiên, dạ hôm nay là ngày giỗ anh Long, hồi nãy, trên đường về, em ghé chợ mua một gói để cúng anh ấy. Tôi biết rõ Long là chồng bà Trang nhưng giả vờ hỏi, anh Long nào vậy? Bà Trang vừa đưa tay chỉ lên kệ thờ vừa trả lời hồn nhiên như một đứa bé, ảnh đó, chồng em đó. Tôi ồ lên một tiếng rồi lảng sang chuyện khác, mấy tháng nay chị Trang đi đâu vậy? Bà Trang trả lời ngay, không một chút suy nghĩ, em đi lấy chồng. Tôi chưng hửng. Bà Trang nói tiếp, mà không được đâu anh à, thà ở vậy còn sướng hơn. Bà Trang nói như để phân bua, còn tôi thì như một quả banh, bị bà ta nhồi tới nhồi lui đến tối tăm mày mặt!
Một phút im lặng. Mỗi người đang theo đuổi một ý nghĩ riêng. Bỗng dưng bà Trang giương cặp mắt tròn xoe nhìn tôi nói nhanh, hôm trước em có về nhưng không gặp anh. Em về để thắp hương cho anh Long và sơn lại cái kệ thờ. Hôm đó em lu bu quá nên để quên cái hộp sơn ở trước nhà bị trời mưa trôi đi hết lại còn bị office cằn nhằn đòi em phải kêu người đến sơn lại. Tôi ngớ người lẩm bẩm, thì ra là vậy! Bà Trang nhìn tôi ngơ ngác, anh lầm bầm cái gì đó? Ờ không, tôi định hỏi chị Trang chừng nào đi lại? Bà Trang thở dài sườn sượt nói, còn đi đâu nữa, em sợ quá rồi. Những câu úp mở của bà Trang càng gợi thêm tính tò mò của tôi. Tôi quyết định từ bà Trang phải khám phá cho bằng được những sự việc kỳ quái mà mấy tháng nay nó luôn ẩn hiện trong đầu tôi. Chị Trang à! Có việc này tôi hơi tò mò một chút, chị đừng giận nhé. Bà Trang nhìn tôi với vẻ thản nhiên nói, anh cứ hỏi, có sao đâu! Tôi mạnh dạn hỏi, chị nói đi lấy chồng sao còn tính về đây ở luôn? Bà Trang trả lời một cách thản nhiên thật thà, chuyện hơi dài dòng, anh chịu khó ngồi nán lại một chút nhé. Cách đây 2 tháng, tình cờ em gặp một người đàn ông. Nhà ông ta ở cách đây chừng một giờ lái xe. Ông ta là chủ một cửa tiệm nhỏ. Ông ấy vung vãi tiền bạc để chinh phục em. Nhắc đến thật xấu hổ. Lúc đó em bị tiền bạc làm mờ mắt nên đồng ý ở chung với ông ta. Nào ngờ, người chồng mới này của em là một người ghen tuông bậc nhất trên đời. Ông ta kềm kẹp giám sát em còn hơn một cai tù. Thậm chí còn cấm không cho em nói chuyện điện thoại với bất cứ người nào. Tuy vậy, thỉnh thoảng, em cũng tìm cách lén về nhà dọn dẹp đồ đạc, thắp nhang cho anh Long rồi trở về ngay. Những lần như vậy, em biết anh có ở nhà, nhưng không dám quấy rầy giấc ngủ của anh. Với cái cảnh sống như ở tù này làm tinh thần em sa sút rất nhiều. Hồi sáng này như tức nước vỡ bờ, em cãi với ông ta một trận rồi cuốn gói về đây.
Nghe bà Trang kể xong, tôi thở phào nhẹ nhõm lẩm bẩm, làm ầm ầm, còn nói là sợ người ta mất ngủ. Bà Trang giương cặp mắt tròn xoe hỏi, anh nói gì? Tôi trả lời ú ớ, à không, không có gì. Bà Trang lớ ngớ, không hiểu rõ tôi muốn nói gì, nhưng bà cũng không mấy quan tâm về câu nói ỡm ờ của tôi. Hình như bà đang nghĩ về một điều gì khác, quan trọng hơn. Bà nhìn tôi im lặng, thở dài… Đồng hồ trên tường gõ nhẹ 12 tiếng, tôi thấy ngồi thêm bất tiện nên từ giã bà Trang với một niềm vui thấp thoáng trong lòng…
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Huế, Em Và Tôi
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Bóng chiều vương cánh sắt
Lạc lõng giữa trời Trung
Mây ngàn mây lãng bạt
Núi gợn núi chập chùng !!!
(nđn)
Cô gái ngồi cạnh tôi đưa mắt nhìn mấy câu thơ tôi viết trên tờ giấy lau rồi khen:
“Thiếu Úy làm thơ hay quá!”
“Cám ơn cô. Tôi mới biết làm thơ gần đây thôi. Cô khen làm tôi ngượng quá”
“Thiếu Úy làm việc ở Huế ?”
“Vâng, tôi là lính của Sư Đoàn I Bộ Binh”
“Anh tôi cũng là lính của Sư Đoàn I, Trung Úy Bình anh có quen không?”
“Ồ! Trung Úy Bình là bạn thân của tôi. Mấy lần anh ấy rủ tôi đến nhà chơi, nhưng tôi đều từ chối. Nếu biết trước anh ấy có em gái thì…”
Cô gái nghĩ thầm:
“Anh chàng này trông cũng được quá, sao lại có cái kiểu tán gái vụng về vô duyên như vậy hỉ ?!…”.
Nghĩ đến đây cô gái nhìn tôi mỉm cười rồi quay mặt ra cửa sổ. Tôi cũng nhìn ra bên ngoài.
Những đám mây trắng như tuyết đùn lên từng cụm lớn, nối đuôi nhau trôi ngược về phía sau. Tôi cảm thấy lạc lõng cô đơn, nghĩ đến mình chẳng khác gì những đám mây kia, trôi nổi bồng bềnh, không biết đâu là bờ bến. Mới ra trường, tôi bị đẩy thẳng ra vùng hỏa tuyến. Một nơi hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Thực ra hồi còn đi học, tôi cũng thường mơ mộng đến những thành phố miền Trung, nhất là Huế. Những địa danh và những từ ngữ mỹ miều nói về Huế đã vẽ trong đầu tôi một thành phố vô cùng thơ mộng. Khi ấy tôi nghe lõm bõm về một bến nước nào đó mà người ta gọi là Bến Vân Lâu, rồi hình dung nơi đó có những cô gái tuyệt đẹp, mặc áo dài trắng với mái tóc thề bay bay trong gió. Chỉ chừng ấy thôi cũng đủ để tôi lạc vào cõi thơ:
Có những buổi hoàng hôn êm ả
Tôi thẩn thờ trên bến Vân Lâu
Nhớ thương ai câu hò vĩ dậm
Thuyền ai kia tách bến về đâu?
(nđn)
Cái thời mơ mộng đó không ngờ lại trở thành hiện thực khi tôi cầm trên tay cái Sự Vụ Lệnh bổ sung quân số cho Sư Đoàn I bộ binh. Ngày đầu tiên đặt chân lên thành phố Huế, tôi cảm thấy có một cái gì đó hoàn toàn trái ngược với những gì mà tôi đã từng hình dung. Cả một thành phố đang nằm co ro, mệt mỏi, buồn hiu trong cái không khí chiến tranh bao trùm với những tiếng “đại bác đêm đêm vọng về thành phố”(*), với những chiếc GMC chở đầy lính Mỹ xuôi ngược trên các con đường ngoại ô, bỏ lại những đám bụi mịt mù tỏa vào các quán ăn, quán nước, nơi mà những cô gái hành nghề mãi dâm và những em bé rách rưới thường đến đây, cà rà theo mấy anh lính Mỹ để kiếm chút tiền còm hay chút bánh kẹo. Tôi cảm thấy bâng khuâng, lạc lõng thật sự.
Tôi đang suy nghĩ miên man về cuộc đời lính tráng rày đây mai đó, thì chiếc phi cơ giằng xốc kịch liệt, nghiêng hẳn về một bên. Tiếng động cơ ù lên, ngầm ngầm, nặng trịch, nhói vào tai tôi làm nhức buốt cả màn nhĩ. Hành khách, có người còn đang ngủ gà ngủ gật, chợt choàng dậy, đưa mắt nhìn dáo dác. Cô tiếp viên cũng vừa đến yêu cầu tôi sửa lại lưng ghế và cài dây an toàn.
***
Bình gọi hai ly cà phê đen. Móc túi lấy ra gói capstan đầu lọc, rút một điếu đưa lên môi, rồi ném cả gói thuốc về phía tôi. Tôi hít một hơi dài rồi nói:
“Mầy kín miệng thật”
“Cái gì? Tao kín miệng cái gì?”
“Em gái mầy”
“Em gái tao? Răng mi biết? Mi gặp nó ở mô?”
“Cái gì mà mầy cuống cuồng lên vậy. Làm như tao sắp bắt cóc em gái mầy không bằng. Thiệt tình. Mà em gái mầy tên gì vậy?”
“Lan, Tôn Nữ Ngọc Lan. Đang học lớp Đệ Nhị trường Trung Học Đồng Khánh”
Tôi định hỏi thêm một câu, nhưng chợt thấy cô chủ quán bước đến, nên vội đánh trống lảng:
“Cô em hôm nay đẹp quá nhỉ, tôi chịu cô em rồi đó”
“Dạ không dám”
Chờ cô chủ quán đi rồi, Bình lườm tôi:
“Ê, đừng có lạng quạng nghe cha nội, coi chừng tao đục bỏ mạng đó”
Hai thằng nhìn nhau cười ngất.
***
Bình cho xe dừng lại trước ngôi nhà lợp ngói âm dương ở ngoại ô thành phố. Bình xuống xe trước. Tôi nhìn vào khoảnh sân rộng trước nhà. Sân lát bằng gạch đỏ, có nhiều hoa và cây kiểng. Trong sân không thấy một bóng người. Tôi hồi hộp thật sự. Bình nắm tay tôi kéo vào nhà. Đây là một ngôi nhà cổ, mái thấp, thiếu ánh sáng, bên trong rộng thênh thang. Chỉ có một căn phòng độc nhất, làm bằng gỗ, nằm ở một góc nhà.
Khi vào đến giữa nhà, Bình gọi oang oang:
“Lan ơi, nhà đi mô hết rồi?”
Tôi nghe tiếng Lan trả lời từ căn nhà bếp phía sau. Tim tôi đập mạnh, cố lấy bình tĩnh để đối diện với cô gái mà tôi đã gặp một lần trên máy bay. Lan từ nhà sau đẩy cửa bước vào. Nhìn thấy tôi, Lan ngạc nhiên đứng khựng lại. Bình lên tiếng trước:
“Thiếu Úy Thắng, bạn anh”
Quay qua tôi, Bình nheo một mắt, làm ra vẻ quan trọng:
“Lan, em gái tao”
Tôi hơi bối rối, nhưng cũng kịp lấy lại bình tĩnh:
“Chào Lan, hân hạnh được gặp lại cô”
Lan cúi đầu chào tôi nhưng không nói gì. Bình muốn phá tan cái không khí căng thẳng giữa hai người, nên pha trò:
“Này ông bạn, làm gì mà đứng chết trân rứa, ngồi xuống đi chứ”
Tôi nói cám ơn rồi ngồi xuống ghế. Lan cũng bỏ ra nhà sau.
***
Uống xong ly trà, Bình đưa tôi ra trước sân, vừa ngắm hoa vừa trò chuyện. Bình nói cho tôi nghe về cách thức trồng cây kiểng, dẫn giải từng loại cây phải làm thế nào để biến nó thành những hình dạng mình ưa thích. Làm thế nào để giữ cho nó chậm phát triển mà vẫn sống tươi tốt, khỏe mạnh. Tôi hơi ngạc nhiên về kiến thức chơi cây kiểng của anh chàng sĩ quan trẻ măng này, nhưng tôi còn đầu óc đâu mà nghe những thứ tào lao đó. Mặc cho Bình thao thao bất tuyệt, tôi chỉ… ờ… ờ… cho có lệ rồi để hết tâm trí vào cô gái xinh đẹp kia. Tôi lắc đầu chán nản, thở dài sườn sượt. Bình ngạc nhiên hỏi:
“Răng, mi không thích chơi cây kiểng à?”
“Đâu có, ai mà chẳng thích chơi cây kiểng”
Tôi vừa trả lời vừa cười thầm trong bụng. Thực ra tôi đâu có thích ba cái trò chơi lẩm cẩm của mấy ông già vô công rỗi nghề này. Tôi mặc cho Bình hiểu lầm. Đầu óc tôi chơi vơi, trôi nổi vào cái không gian nửa quen nửa lạ của cái xứ Thần Kinh vừa thơ mộng vừa đầy bất trắc này.
Đã mấy ngày rồi tôi cứ đứng xớ rớ trước cổng trường Trung Học Đồng Khánh vào những giờ tan học, không bỏ sót bất cứ một tà áo dài nào ngang qua trước mặt. Mấy cô nữ sinh tinh nghịch, bấm tay nhau nhìn tôi cười khúc khích. Đã mấy lần muốn bỏ cuộc, nhưng tôi lại cứ lẩn quẩn mãi ở trước cổng trường với một nỗi buồn nôn nao khó tả.
Đang đăm đăm nhìn theo một cô gái có thân hình quen quen, mà khuông mặt thì bị cái cặp che mất. Tôi đang đứng thừ người ra, thì một cú đấm như trời giáng nện xuống bờ vai. Tôi điếng người quay lại thì Bình đang đứng lù lù trước mặt. Tôi đứng chết trân, không thốt được một lời. Bình kéo tôi vào một quán cà phê gần đó:
“Mi cứ nằng nặc đòi cho được cái phép về Sài Gòn thăm ông già mi đang bệnh nặng răng bây chừ mi lại ở đây?”
“Ờ! vừa mới được tin ông già tao khỏe lại rồi”
“Thôi đừng giả vờ nữa cha nội. Coi chừng tao đục bỏ mạng đó. Ủa, làm răng mà mi mặc nguyên cái bộ đồ nhà binh đứng chờ gái ngoài đường rứa, trời đất, lại còn gắn hai cái bông mai vàng khè lên cổ áo nữa chứ!”
“Kệ tao, lòe một chút không được sao”
“Lòe con khỉ. Cái thời buổi giặc giã này, chỉ có mấy cô nàng “tửng tửng” mới chịu bợ mấy ông lính về làm của nợ. Mi lên quân y viện mà coi, cụt tay, cụt chân nằm cả đống trên đó.
Tôi lảng sang chuyện khác:
“Mày cũng về phép hả?”
“Tao đi công việc. Mi về cùng tao hay còn muốn ở lại gác trường?”
Tôi cười bẽn lẽn:
“Biết rồi còn hỏi”
“Răng mi không đến nhà mà chờ nó ở cổng trường rứa? Con nhóc đó không chịu gặp mi ngoài đường đâu”
***
Từ khi yêu Lan, tôi thấy thành phố Huế đẹp lạ thường. Nhất là vào những buổi chiều êm gió, tay trong tay thả bộ dọc theo các con đường râm mát trong Thành Nội. Tôi và Lan khắn khít với nhau cho đến một hôm, tiếng bom đạn rền vang, thành phố Huế chìm trong khói lửa…
Nguyễn Đức Nhơn
26 – 11- 2017
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Như Một Giấc Mơ
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Anh đã lập gia đình khác sao còn bảo lãnh em qua làm gì? Anh không còn cách nào khác để lựa chọn. Nói xong, người đàn ông vứt mẩu thuốc còn đang cháy dở xuống cái rãnh nước chảy dọc theo lối đi, nhưng chưa đầy một phút, ông lại bật lửa đốt điếu khác, những điếu thuốc vô tội vạ lần lượt bị vứt xuống cái rãnh, trôi lờ đờ theo dòng nước, không biết sẽ tắp vào đâu. Người đàn bà đầu cúi thấp. Bước chân quờ quạng. Đôi tay bấu chặt vào chiếc túi xách giống như con kiến bấu vào một cành khô giữa dòng nước xoáy.
Mặt trời ngã xuống thật nhanh. Vạn vật trở mình thanh thản bước vào đêm. Người đàn bà nói qua hơi thở, anh Lượng làm ơn chở em về. Được. Ngày mai anh sẽ đến thăm Linh.
Linh mở cửa bước vào căn chung cư, đi thẳng vào phòng nằm vật ra khóc tức tưởi. Từ lúc đón Linh ở phi trường về căn chung cư này, hôm nay Lượng mới thố lộ sự tình cho Linh biết. Phản ứng của nàng là những giọt nước mắt không ngớt trào ra. Nàng cảm thấy lạc lõng bơ vơ ở cái xứ xa quê nhà gần nửa vòng trái đất này.
***
Anh Lượng, có việc gì mà mấy tuần nay anh làm như kẻ mất hồn vậy. Có gì đâu, anh chỉ bực mình vì công việc độ này cứ gặp trở ngại hoài. Vậy mà em cứ tưởng anh có việc gì quan trọng đang giấu em. Trang à! Sao em giàu tưởng tượng dữ vậy. Thôi anh đi tắm, chút nữa anh có chút việc phải đi làm. Em ăn cơm trước đi. Dạ được.
Chờ Lượng đi rồi, Trang vào phòng nằm nghĩ ngợi lung tung. Trang không tin lời giải thích của Lượng. Giác quan nhạy cảm của người đàn bà báo cho nàng biết chắc chắn có một việc vì đó Lượng đang giấu mình. Trang đoán già đoán non đủ thứ chuyện, nhưng cái hình ảnh Lượng đang âu yếm với một người đàn bà nào đó vẫn cứ chập chờn lẩn quẩn trong đầu.
Lượng cho xe chạy lòng vòng một hồi rồi tắp vào một quán cà phê nằm ở cạnh bờ hồ JP. Trời cuối thu, cảnh vật ở đây đượm một màu buồn tẻ thê lương. Ánh chiều tà xuyên qua cành lá chiếu vào khung cửa kính phía trước tạo thành những vệt lốm đốm, chấp chới như một chùm pháo bông. Cô gái chạy bàn khá xinh bước đến hỏi chú uống cà phê gì? Lượng nói cà phê đen, bỏ ít đường.
Lượng vừa nhâm nhi cà phê vừa hồi tưởng những ngày sống bơ vơ buồn chán trên cái xứ cách quê nhà xa lắc xa lơ này hồi năm 1975. Lượng vốn là một Sĩ quan Không quân ngành cơ khí, phục vụ tại phi trường Tân Sơn Nhất. Với vốn liếng sẵn có, Lượng được thu nhận vào làm cho một hãng máy bay. Tại đây Lượng quen với Trang, một nữ thư ký vốn cũng là người di tản hồi 75. Tôi và Trang quen nhau được vài năm thì tình yêu nảy nở và trở thành một cặp vợ chồng rất hạnh phúc trên cái xứ tạm dung này.
Như mọi người di tản khác, Lượng không nghĩ là sẽ có ngày gặp lại Linh. Cho đến một hôm Lượng biết được tin tức nàng qua một người vượt biên thuật lại. Thì ra Linh cùng gia đình bị đưa đi kinh tế mới, vì vậy mà suốt hai năm trời Lượng cố gắng liên lạc với Linh đều không có kết quả. Tuy đã lập gia đình khác, nhưng Lượng lúc nào cũng nhớ đến Linh. Kỷ niệm của một cặp vợ chồng son trẻ luôn là hồi ức không thể vơi đi trong tâm hồn chàng, nên khi biết được chỗ ở của Linh, Lượng liền tìm cách liên lạc và lập hồ sơ bảo lãnh nàng qua Mỹ.
Ly cà phê thứ 3 đã cạn. Cái gạt tàn cũng đầy ắp những đầu lọc màu nâu nhạt. Thành phố đã lên đèn từ lâu. Lượng trở về với một nỗi lo âu phiền muộn dâng ngập trong lòng. Trang vẫn còn chờ Lượng ở phòng khách. Nàng ân cần hỏi sao hôm nay anh về muộn vậy? Ừ, anh có chút việc nên phải về trễ. Vậy à! Thôi anh đi tắm rồi ra ăn cơm. Không cần đâu. Anh làm trễ thấy đói nên đã ăn mì gói ở văn phòng rồi. Lượng tắm xong liền vào phòng nằm vật ra ngủ thiếp. Trang kéo mền đắp cho chồng rồi ra phòng khách ngồi lau nước mắt…
***
Giấy xét nghiệm đã có kết quả. Lượng không tin vào tai mình. Nhưng đây là sự thật. Bác sĩ đã xác định như vậy. Để trấn an Lượng, Bác sĩ Joe nói thêm, anh đừng quá bi quan. Cũng may là phát hiện kịp thời. Cái bướu mới ở giai đoạn đầu. Khả năng di căn rất thấp. Tôi khuyên anh nên nhập viện vài hôm để tiện việc lập quy trình chữa trị. Hai ngày sau Lượng nhập viện. Cặp mắt Trang đỏ hoe vì khóc suốt ngày. Nàng đến thăm Lượng thường xuyên.
Vào một chiều thu ảm đạm, ngọn gió thu lay động những chiếc lá màu vàng nhạt trên mấy nhánh cây xào xạc buồn hiu… Lượng ngồi trên chiếc ghế băng phía trước bệnh viện hướng về cổng ra vào. Bất chợt Lượng thấy Linh với dáng điệu mệt mỏi lửng thửng từ cổng đi vào. Lượng đứng bật dậy cùng lúc Linh cũng vừa nhận ra chàng. Lượng hỏi dồn dập đủ thứ khiến Linh không biết phải trả lời thế nào. Cuối cùng Lượng lấy lại bình tĩnh hỏi ai nói cho em biết là anh đang ở đây? Linh trả lời, hồi sáng có một người đàn bà đến nói với em, anh đang điều trị ở bệnh viện này và khuyên em nên vào thăm anh. Em có hỏi bả là ai nhưng bà ta không trả lời và vội vã bỏ đi ngay. Em cũng không nhận được mặt mũi bà ấy vì đôi kính đen và mái tóc che khuất một phần khuôn mặt. Lượng nghe xong ngẫm nghĩ một chút rồi nói nho nhỏ như chỉ để mình nghe, chắc là Trang rồi. Linh hỏi Trang nào vậy anh? À! không lẽ là chị Trang? Mà sao chị ấy biết em? Vì quá đỗi ngạc nhiên nên Linh quên mất mục đích nàng đến đây là để thăm hỏi bệnh tình của chồng. Sau một vài phút bàng hoàng, Linh lấy lại bình tĩnh hỏi tình trạng sức khỏe anh thế nào? Bị bệnh gì vậy? Lượng suy nghĩ một hồi rồi nói thật cho Linh biết về căn bệnh của mình. Nghe xong Linh ôm chặt Lượng khóc nức nở. Lượng vuốt tóc Linh nói khẽ, không sao đâu. Bệnh mới ở giai đoạn đầu có thể trị dứt được. Em yên tâm. Linh nói anh phải cố gắng chữa trị. Em sẽ đến thăm anh thường.
Nghe Linh nói “em sẽ đến thăm anh thường” Lượng giật mình, nhưng lại nghĩ “đến nước này, còn giấu giếm làm gì, thôi cứ mặc chuyện gì đến cứ đến”. Về phần Linh, nàng đã quyết tâm thường xuyên đến chăm sóc an ủi cho chồng dù có chuyện gì xảy ra cũng mặc.
Hết giờ thăm bệnh, Linh ra về với nỗi đau buồn xé nát tâm can. Linh cúi thấp đầu thất thểu lê từng bước ra bãi đậu xe. Thành phố đã lên đèn. Ngoài đường tấp nập xe cộ ngược xuôi. Linh lái xe còn yếu lại thêm tâm thần bấn loạn, nên vượt đèn đỏ lúc nào không hay. Cũng may không xảy ra tai nạn. Chạy được một đoạn ngắn, bỗng có tiếng còi hú của cảnh sát phía sau. Linh quẹo vào bãi đậu xe của một tiệm ăn. Người cảnh sát đến hỏi bảo hiểm và bằng lái, Linh đứng ngớ người vì không biết cảnh sát hỏi gì. Vừa lúc đó, một người đàn bà trạc tuổi trung niên bước đến nói chuyện gì đó với cảnh sát rồi bảo Linh đưa bảo hiểm và bằng lái. Người cảnh sát biên giấy phạt rồi bỏ đi. Người đàn bà nói, chị Linh, em muốn nói chuyện với chị một chút được không? Linh chưa kịp trả lời thì bà ta nắm tay nàng dắt vào tiệm ăn. Linh như một cái máy bước theo người đàn bà vào ngồi ở một góc kín đáo trong tiệm.
Bây giờ Linh mới lấy lại bình tĩnh hỏi, xin lỗi chị là ai vậy? Người đàn bà với đôi mắt thật buồn nói em là Trang. Em cũng từ bệnh viện về. Thấy cảnh sát stop chị nên theo vào đây xem có giúp được gì không. Chị Linh à, việc anh Lượng bảo lãnh chị qua đây em đã biết từ lâu nhưng không dám nói ra vì sợ hai người khó xử. Linh chết điếng trong lòng, không biết phải nói gì trong trường hợp gay cấn này. Trang nói tiếp, chị yên lòng, em biết được nỗi khổ tâm của chị. Em cũng là đàn bà. Em cũng đau khổ như chị nhưng em không hề trách cứ chị. Em là người đến sau mà. Nhất là hiện giờ anh Lượng gặp phải căn bệnh hiểm nghèo, chúng ta còn lòng dạ nào làm những việc khiến cho anh ấy thêm đau khổ phải không chị?
Linh ngồi chết trân, không nói được lời nào. Linh vốn là người được sinh ra và lớn lên ở một vùng nông thôn hiền hòa nên tính tình nhút nhát, ít khi tranh chấp với đời. Thỉnh thoảng Linh ngước nhìn Trang với hai gò má đầm đìa nước mắt. Trang nói chị Linh đừng buồn, em xem chị như một người chị ruột và sẽ lo lắng cho chị về sau này. Thôi được, chúng ta về.
Nói xong Trang dìu Linh đứng dậy, đến quày trả tiền hai ly cam vắt rồi cùng nhau ra về. Linh nói cảm ơn chị rồi lên xe. Trang vừa quay lưng đi thì những giọt nước mắt tuôn ra không cách nào ngăn lại được. Thành phố vẫn thản nhiên trôi theo nhịp sống thường ngày của nó…
Bệnh tình của Lượng thuyên giảm rất nhiều sau một thời gian điều trị. Bác sĩ nói khả năng trị dứt hẵn căn bệnh rất cao. Lượng tin tưởng và phấn chấn trở lại. Chàng thường cùng Trang tản bộ vào những ngày đẹp trời. Một hôm Trang nói, anh Lượng à, em muốn hướng dẫn cho chị Linh công việc kinh doanh của mình để chị ấy giúp anh điều hành công việc. Anh cần nghỉ ngơi nhiều để căn bệnh mau chóng bình phục. Có một chuyện này em muốn xin anh, không biết anh có đồng ý không? Lượng nhìn chăm chăm vào mặt Trang hỏi sao hôm nay em kỳ cục vậy? Trang nói có gì mà kỳ cục. Việc em sắp nói với anh là niềm mơ ước của em từ lâu và bây giờ là lúc em muốn thực hiện nó. Anh ủng hộ em chứ? Mà chuyện gì vậy? Em muốn lập một quỹ từ thiện do em điều hành. Trời đất! Em nói gì vậy Trang? Thực đó anh. Em nghĩ là anh không từ chối em đâu, phải không? Lượng ngồi thừ người ra một hồi rồi với một giọng buồn buồn nói, Trang à, em biết anh không bao giờ từ chối em bất cứ một điều gì. Anh sẵn sàng ủng hộ em. Nhưng hình như em đang tính toán một điều gì đó mà nguyên nhân là sự hiện diện của Linh trong cuộc sống của chúng mình phải không? Anh Lượng đừng hiểu lầm mà đánh giá thấp con người em. Em đã từng nói với anh là em xem chị Linh như một người chị ruột cơ mà. Lượng nói, thôi được, em cứ làm việc mà em muốn. Anh thấy chúng ta cũng nên làm một điều gì đó để giúp những người thiếu may mắn. Trang nói cảm ơn anh rồi cùng Lượng trở về nhà.
***
Thời gian trôi mau. Linh đã đủ khả năng điều hành công việc và cũng từ đó Trang ít khi ở nhà. Nàng thường về Việt Nam tham gia vào các công tác từ thiện. Ngoài ra Trang cũng dành nhiều thì giờ đi du lịch dài hạn và đây là liều thuốc hữu hiệu nhất, làm vơi đi phần nào nỗi buồn mà nàng đã âm thầm chịu đựng. Thấy Trang ít khi ở nhà, Lượng đề nghị Linh dọn về ở chung. Linh một mực từ chối. Nàng nói em không thể làm như vậy. Dù anh nghĩ thế nào đi nữa, em vẫn thấy mình có lỗi rất nhiều với chị Trang. Em chỉ coi em như một cái bóng của vợ chồng anh, một cái bóng đúng nghĩa của nó. Chị Trang đối xử với em khác với người thường. Những gì mà chị ấy làm đã vượt ra ngoài sức tưởng tượng của em. Em quyết không làm bất cứ một điều gì gây thêm tổn thương cho chỉ. Em xem chị ấy như một thiên thần, một vị ân nhân đã cứu em ra khỏi vùng nước xoáy. Chắc anh cũng thấy được, chị Trang đang thả nổi cuộc sống của mình là vì sự hiện hữu của em, một mũi tên vô tình cắm sâu vào con tim của chỉ. Thực ra đây không phải là một trường hợp cá biệt gì. Sau 75 vô số người cũng lâm vào hoàn cảnh như anh nhưng họ vẫn một mực chờ đợi và cuối cùng họ được đoàn tụ với gia đình mà không gây ra bất cứ một tổn thương nào cho ai. Lượng cúi đầu ngồi nghe Linh nói giống như một tín đồ ngoan đạo đang lắng nghe những lời rao giảng thánh kinh. Linh ngừng nói. Sự im lặng tạo nên một bầu không khí nặng nề bao trùm căn chung cư. Sau một vài phút căng thẳng trôi qua. Lượng ngồi bật ngửa ra lưng ghế nói, Linh à! Em nói cũng đúng nhưng hoàn cảnh mỗi người đều khác nhau. Suốt hai năm trời anh cố liên lạc với em nhưng hoàn toàn vô vọng. Làm sao biết được những gì có thể xảy ra với em. Anh thoát được, nhưng em vẫn còn nằm trong vùng lửa đạn. Rồi những ngày sau đó thì sao? Anh không xem thường em, nhưng cũng có rất nhiều trường hợp…
Nói đến đây Lượng biết mình lỡ lời nên khựng lại. Linh nhìn đăm đăm vào mặt Lượng rồi thở dài nói, thôi bỏ đi, nhắc lại chỉ thêm buồn. Lượng cố giải thích, Linh à! Anh không phủ nhận là anh có lỗi. Anh chỉ xin em tha thứ cho anh…
Lượng ra về với cảm giác tội lỗi vì đã gây đau khổ cho hai người đàn bà vô tội. Chàng muốn ghé vào một quán nhậu nào đó uống cho thật say để quên đi những dằn vặt trong lòng, nhưng Lượng không thể làm vậy vì căn bệnh của chàng đang trong thời kỳ điều trị, không thể khinh xuất được.
Về đến nhà, Lượng nằm vật ra giường cố dỗ giấc ngủ… thì điện thoại bật reo. Chàng nhấc ống nghe. Trang hả? Em đang ở đâu vậy? Anh đến phi trường đón em được không? Lượng mừng húm, nói được… được anh sẽ đến ngay.
Ngày hôm sau Trang đến thăm và tặng rất nhiều quà cho Linh. Linh cảm động nói cảm ơn liền miệng. Linh hỏi chị Trang về ở luôn hay còn đi đâu nữa? Trang trả lời đi chứ. Chị Linh cũng biết làm việc từ thiện phải tốn rất nhiều thời gian.
Hai người chuyện vãn với nhau rất thân mật, tuyệt nhiên không hề đá động đến hoàn cảnh trái ngang mà cả hai người còn đang chịu đựng.
Thăm Linh xong Trang ghé thăm một vài người bạn khác. Suốt một tuần ở Mỹ, Trang chạy tới chạy lui nhiều cơ quan tư nhân và nhà nước để giải quyết một số vấn đề liên quan đến công trình xây dựng trại cô nhi mà nàng đang thực hiện lỡ dỡ ở quê nhà. Quỹ từ thiện Lượng dành cho Trang đầu tư vào các dịch vụ ở Việt Nam để kiếm tiền lời cho công việc từ thiện, đang gặp một vài trục trặc khiến cho công trình xây dựng này phải đình hoãn vô thời hạn. Trang rất lo lắng và trở về Mỹ để tìm cách xoay xở. Trang tuyệt nhiên không nói việc này cho Lượng và Linh nghe vì không muốn làm phiền đến họ. Với nỗ lực của mình, Trang đã thu hoạch một số kết quả đáng kể và quyết định trở về Việt Nam sớm để tái tục công trình đang dở dang. Trên đường ra phi trường Linh nhường ghế trước cho Trang. Lượng hỏi chừng nào em về? Trang trả lời còn tùy thuộc vào công việc anh à. Có lẽ lâu lắm mới về được. Lượng buồn xo không nói thêm một lời nào. Linh và Trang cũng ngồi yên nhìn ra bên ngoài. Cuộc chia tay khá mủi lòng.
Về Việt Nam, Trang dồn hết tâm sức vào công việc từ thiện nên sự đi lại giữa Mỹ và Việt Nam ngày càng thưa dần. Thời gian trôi mau. Mái tóc của bà đã ngả màu sương. Nỗi buồn trong quá khứ cũng vơi dần theo năm tháng. Bà lấy công việc làm vui, tiếp tục theo đuổi lý tưởng của mình…
***
Này bà, lấy giùm tôi cái áo khoác. Bà Linh hỏi ông đi đâu vậy? Đi dạo một chút không được sao? Nhớ về sớm ăn cơm. Được rồi, cứ lải nhải hoài. Ông Lượng với tay lấy cây gậy rồi mở cửa bước ra ngoài. Cơn gió chiều thổi ngược mái tóc ông về phía sau, để lộ ra cái trán hói chỉ còn lưa thưa những sợi tóc trắng nhiều hơn đen. Đời người giống như một giấc mơ. Thoáng đó mà đã đến ngày gần đất xa trời… Ông Lượng nhìn lên những tàn cây trồng dọc theo hai bên đường. Từng chiếc lá màu vàng nhạt theo nhau rơi xuống nằm trơ vơ trên đám cỏ xanh…
Nguyễn Đức Nhơn
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Núi Rừng Quê Tôi
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Chiều ngồi trên đỉnh Đèo Bay
Ngó về Phan Thiết lòng ray rức buồn
(nđn)
1. Đỉnh Đèo Bay
Không biết cái tên “Đỉnh Đèo Bay” có từ bao giờ, nhưng tôi biết chắc nó không thể có trước năm 1975, vì lúc đó cây gỗ còn nhiều, ít ai lên đến nơi này. Đây là đỉnh cao nhất trên cụm núi phụ nằm về phía đông dãy Trường Sơn. Dân làm rừng chỉ có những người bạo gan mới dám lên nơi này. Tôi không gan dạ gì, nhưng có chút liều lĩnh nên cũng từng mò lên tới đây. Ngày đầu tiên đặt chân lên Đỉnh Đèo Bay, đứng trên một mô đá nhô cao, đưa mắt nhìn về biển đông, tự nhiên tôi cảm thấy thương quê hương mình quá đỗi.
“Trông lên núi ngả đầu chào
Trông ra ngoài biển, biển nào cũng sâu!”
(Khuyết danh)
Hai câu thơ này không biết của ai và cũng không biết đọc nó ở đâu, nhưng khi đứng trên Đỉnh Đèo Bay, tự nhiên tôi chợt nhớ ra và nhớ mãi đến bây giờ. Đứng trên Đỉnh Đèo Bay nhìn về hướng Tây là núi rừng trùng điệp, nhìn về hướng Đông là biển cả bao la. Ngày xưa ông Thái Thượng Lão Quân vẽ ra bản Thạnh Thế Hồng Đồ để phân chia Trời Đất, chắc ông ta có một chút cảm hứng nào đó để “phết” lên quê tôi những nét đẹp lạ lùng.
Trải tấm nylon trên phiến đá bằng phẳng. Một xị rượu, vài con cá khô. Quá đủ. Thật tình quá đủ, tôi cảm thấy như vậy. Và, chính nhờ cái đạm bạc này mà tôi mới thấy hết được cái đẹp đơn sơ, giản dị của núi rừng quê tôi; Cái đẹp vừa uy nghi, kỳ bí vừa phảng phất một chút đa tình, nên thơ, lãng mạn.
Ngồi trên Đỉnh Đèo Bay, hớp một ngụm rượu, khà lên một tiếng thật kêu rồi đưa mắt nhìn ra tám hướng, thả hồn đi khắp bốn phương mới thấy hết cái thú vị của đời người.
Chiều ở đây thật buồn
Mây đùn quanh tám hướng
Thung lũng dày sương mù
Tôi ngồi nghe gió hú
Lão tiều phu đốn rừng
Nghe đau từng nhát búa
Có con chim lạc đàn
Xoải cánh chiều qua núi
Rừng ngàn năm vẫn buồn
Chôn sâu niềm u uẩn
Người ngàn năm vẫn còn
Đi trong vòng lẩn quẩn
Rừng ngàn năm còn đó
Tôi trăm năm còn đây
Rừng lắc lay theo gió
Tôi nhìn mưa thu bay
Mưa thì thầm trên lá
Tôi thì thầm với ai!?
(Thơ NĐN)
Từ làng tôi, dân làm rừng đi lên núi Ông (1) bằng nhiều ngã khác nhau. Tất cả những ngã đường này đều phải băng qua con đường sắt xuyên Việt, đoạn từ ga Mường Mán đến ga Ma Lâm. Mỗi giao điểm của lối mòn xe bò và con đường sắt đều được giới khai thác lâm sản đặt cho mỗi nơi một cái tên nghe rất là “địa phương”: Đồi mồi bàu lon, đồi mồi bàu đá, đầu mồi giếng cỏ v.v… Đầu mồi (2) là nơi xe bò bắt buộc phải đi qua. Thời chiến tranh Việt – Pháp, lính Tây thường phục kích ở các nơi này và gây chết chóc rất nhiều người. Đoạn đường sắt này, hai đầu nối liền với Mường Mán và Ma Lâm, lập thành một khu vực địa dư mà thời chiến tranh được mệnh danh là “chiến trường tam giác”. Sau khi ra tù, tôi trở về sinh sống ở một ngôi làng nhỏ nằm trong khu vực này. Ngoài việc làm cho hợp tác xã nông nghiệp, tôi thường lên rừng đốt củi, hầm than để kiếm sống. Tôi chọn lộ trình “đồi mồi giếng cỏ” để qua con đường sắt. Khi ấy tôi dành dụm được một ít tiền, sắm đươc một chiếc xe bò bánh sắt (3) và, cứ mỗi tuần tôi cùng thằng con trai tý tẹo của tôi lên núi một lần.
Thong dong một chiếc xe bò
Nhạc khua lóc cóc giữa bờ truông sâu
Ngoảnh nhìn phận số ta đâu
Bóng hình xưa đã nhạt vào xa xăm
Ở đâu còn một chỗ nằm
Cho người thua cuộc về thăm núi này!…
(Thơ Trần Yên Thảo)
2. Đèo Vòng Xoay
Trên lộ trình đến Đèo Vòng Xoay, đường núi cheo leo, xe bò bắt buộc phải qua một vài địa thế vô cùng hiểm trở, thường xẩy ra những tai nạn chết người.
“Không đi thì đói thì nghèo
Mà đi thì sợ cái Đèo Vòng Xoay”
Hai câu lục bát dân gian này không biết có từ lúc nào, nhưng cái Đèo Vòng Xoay thì đã có từ lâu đời. Nếu cái tên “Đỉnh Đèo Bay” gợi lên một cảm giác chơi vơi trên một đỉnh núi cao chót vót, thì cái tên “Đèo Vòng Xoay” lại cho ta một cảm giác quay mòng mòng như con vụ. Thực ra thì cũng không đến nỗi như vậy. Đèo Vòng Xoay chỉ là một khúc quanh rất ngặt, nhưng khổ nỗi là khúc quanh này lại nằm giữa hai bờ con sông hẹp nhưng rất sâu. Khi chiếc xe lao xuống dốc, người đánh xe không thể điều khiển được hai con bò. Mà trời sanh cũng ngộ, hai con vật tự nó cũng biết phải làm thế nào để bảo đảm an toàn cho chiếc xe (!). Khi gần tới đáy sông thì có một gôn đá lớn nằm chắn ngang. Chao ơi! nếu đâm đầu vào đó thì… “tía tôi cũng lìa!”. Nhưng an tâm, chỉ vài phút sau người đánh xe sẽ tỉnh hồn, kịp điều khiển hai con bò quay một vòng rất ư là đẹp mắt. Khi qua được bờ bên kia, người đánh xe cảm thấy mình vừa thoát qua một tai nạn ! Hú hồn…
3. Đèo Thằng Cuội
Qua khỏi Đèo Vòng Xoay một đỗi thì tới “Đèo Thằng Cuội”. Cái đèo này mới thật “ê ám”. Chiếc xe qua khúc đèo này, gần như chỉ lăn có một bánh, còn cái bánh kia thì nhảy “cà tưng, cà tưng” trên những phiến đá lồi lõm như người ta nhảy đầm (!). Chiếc xe nghiêng hẳn về một bên. Người ngồi trên xe lại thêm một phen “thả hồn theo mây gió”. Tại sao lại có cái tên “Đèo Thằng Cuội” nhỉ? Ông Sáu Lầu, người cao tuổi nhất trong làng kể lại:
– Chú Tám à! Cạn hết cái chén đó đi rồi tôi sẽ kể cho chú nghe.
– Dạ được.
– Thực ra, chuyện này tôi cũng nghe tía tôi kể lại, còn sự thật thế nào thì tôi cũng không rõ.
Ông Sáu ngừng lại vài giây, nhấm thêm một ngụm rượu, khà ra một tiếng rồi kể tiếp.
– Nghe nói hồi mới khai thông khúc đèo này, chiếc xe đầu tiên qua đèo bị lật đè chết một người. Người ta không rõ danh tánh người xấu số. Chỉ biết người này dùng sức phụ đỡ chiếc xe cho khỏi lật nên bị chiếc xe đè chết. Những người dùng sức chống đỡ một vật nặng, giúp cho một việc gì đó, người làng mình gọi là “cuội”. Nên vì vậy mà mới có cái tên “Đèo Thằng Cuội” đó chú Tám.
– Thưa bác, còn tại sao mỗi chiếc xe qua đây đều phải ném vào cái mô đất một nhánh cây hay một hòn đá vậy bác?
– Ừ, chuyện này kể ra cũng lạ. Nghe nói sau cái tai nạn đó, đêm đêm thằng Cuội hiện về bảo là ai đi ngang qua đèo phải ném vào mô đất một vật gì đó, coi như vun bồi cho ngôi mộ, nếu không thì lần sau ngang qua đây sẽ bị lật xe. Chuyện đó hư thực thế nào thì không ai rõ, nhưng mọi người đều có một ý nghĩ giống nhau “thà tin có còn hơn không!” và, vì vậy mà cái mô đất mỗi ngày một cao thêm.
4. Râm Tiếng
Qua khỏi đường sắt một đoạn thì phải chui vào một khu rừng dày đặc, dài chừng vài ba cây số. Ban đêm đi vào khu rừng này, người đánh xe không thể nào quan sát được mọi vật chung quanh, nên chỉ nhịp roi “chừng chừng” vào lưng bò, để tự nó theo lối mòn mà đi. Đây cũng là một kinh nghiệm của những người đánh xe. Vì quá rậm rạp, nên nhiều loại thú dữ thường trú ẩn trong khu rừng này, nhất là cọp. Ban đêm chúng thường ra đường chận xe. Chúng dọa trâu bò nhảy tán loạn, người trên xe không may bị té xuống đất là chúng vồ đi ngay. Cũng tại khu rừng này có một con cọp hung tợn vô cùng. Người hay súc vật không may gặp phải nó là vô phương sống sót. Người ta đặt cho nó một cái tên nghe cũng giang hồ hảo hán lắm: “cọp ba dấu”. Nghe nói, một đêm nọ, con cọp này phóng đại vào chiếc xe, chân trước thọc vào bánh xe để kéo lại, không may bị bánh xe nghiền nát, nên từ đó nó chỉ còn ba chân. Người làm rừng thường hay quan sát dấu chân cọp để biết chừng mà tránh, nên mới phát hiện ra con cọp ba dấu này. Nghe nói từ ngày mất một chân, con cọp lại càng hung dữ hơn. Nó “hoành hành bá đạo” ở khu rừng này, nên vì vậy mà khu rừng đâm ra nổi tiếng, rồi dần dà người ta lượt bỏ đi một vài chữ trong cụm từ “khu rừng nổi tiếng” để đặt luôn cho nó cái tên là “Râm Tiếng”.
Một điểm đặc biệt nữa là khu rừng này có một loài chim mà trong tác phẩm “Đất Rừng Phương Nam”, Đoàn Giỏi gọi là “chim lệnh” (4). Loài chim này có một giọng kêu nghe the thé giống như tiếng trẻ con khóc. Ban đêm mà nghe tiếng kêu của nó, ắt có người “són” ra quần. Đặc biệt hơn nữa là loài chim này thường “ở chung với cọp” bởi vì cọp là loài ăn thịt sống, nên thịt thối ở kẻ răng làm cho nó đau nhức. Chim lệnh biết “khai thác” nhược điểm này, nó cà rà theo cọp để mổ thịt thối ăn. Đang khi răng bị ngứa nhức khó chịu vô cùng mà có kẻ chịu khó “xỉa răng” giùm thì làm sao mà không biết ơn cho được! Vì vậy mà vô hình trung cọp và chim lệnh trở thành đôi bạn thân, sát cánh bên nhau, nương tựa nhau mà sống (!). Thiên nhiên quả thật có nhiều điều kỳ diệu. Có lẽ người làm rừng mộc mạc không hiểu gì về khoa học tự nhiên, cho chim lệnh là một loài chim linh, muốn giúp người, nên bám sát theo cọp để lên tiếng báo động kịp thời cho người lẩn tránh. Vì vậy người làm rừng mới truyền kinh nghiệm cho nhau bằng một câu nói mà mới nghe qua giống như một câu châm ngôn nhật tụng: “Nơi nào chim lệnh kêu, nơi đó có cọp!”
5. Giếng Tiên
Đến Giếng Tiên thì phải đi bằng một ngã khác, thực ra tôi rất ít đến nơi này, vì không thuận đường. Câu chuyện dưới đây, tôi cũng chỉ nghe người ta kể lại, không biết đúng sai và cũng không biết còn có câu chuyện nào nữa nói về cái huyền thoại “Giếng Tiên” hay không?. Hai chữ “Giếng Tiên” gợi lên cho người đọc một hình ảnh nên thơ thoát tục. Thực ra nó cũng chỉ là một khu rừng bình thường, chỉ khác một điểm là ở đây có một giếng nước rất trong, nhúng tay vào người ta có cảm giác như đang ngâm bàn tay trong nước đá.
Người ta thường lên núi đốn củi, hầm than vào mùa nắng, nên nước uống là một vấn đề vô cùng phiền toái cho người làm rừng. Thường thì người ta phải mang nước theo để xử dụng, nếu rủi ro bị đổ thì chỉ còn cách quay trở về. Cái nắng nóng hừng hực của núi rừng giữa trưa mà xối lên người một ca nước “Giếng Tiên” lạnh ngắt thì cho dù người phàm cũng biến thành tiên. Tôi có nghe lõm bõm một câu chuyện thần bí về khu rừng này:
Ngày xưa, có một lão tiều phu đầu tóc bạc phơ, mùa nắng thường hay lảng vảng ở khu rừng Giếng Tiên. Người ta không biết ông ở đâu và cũng không biết ông làm gì. Không ai tới gần ông được. Ông thường ẩn hiện, thấp thoáng trong rừng như một bóng ma. Một hôm có một cô gái làm rừng bị ngất xỉu vì cơ thể thiếu nước, ông già xuất hiện mang cô gái vào một hốc núi rồi hú vang một tiếng. Cô gái giật mình tỉnh lại, nhìn chung quanh không thấy ai, nhưng phát hiện ngay bên chỗ mình nằm là một cái giếng nước trong. Cô gái vì quá khát, nên múc nước lên uống mà không e dè chút nào. Không ngờ vừa uống xong, cô gái thấy toàn thân lạnh như băng và rùng mình một cái, biến thành một nàng tiên xinh đẹp bay bỗng lên trời.
Nghe tiếng hú kỳ lạ, có một người tiều phu tò mò lần theo vách núi đến nơi thì phát hiện ra nơi này có một bộ quần áo của phái nữ. Người tiều phu tò mò mở ra xem thì thấy trong túi có một bức tượng hình thù quái dị, lớn bằng nắm tay. Người làng biết được chuyện, bèn rủ nhau lên xây một bức tượng cao chừng ba thước, hình dáng giống như bức tượng trong túi áo. Bức tượng đó lâu ngày biến thành một hòn đá thiên nhiên, trông từa tựa như một cố gái đang đứng dựa vào vách núi. Hòn đá đó ngày nay vẫn còn. Truyền thuyết còn cho rằng ông lão kỳ bí ở rừng Giếng Tiên chính là vị thần năm xưa được Thượng Đế sai gánh hai hòn núi từ Bắc vào Nam. Khi bay ngang qua Phan Thiết, không may bị đứt dây, nên hai hòn núi rớt xuống nằm ngay bên cạnh quốc lộ 1 ở hai đầu Nam – Bắc thị xã Phan Thiết (5). Có người còn nói hai hòn núi này là hai ông “tà”, cho nên người xưa mới đặt tên là “Tà Dôn” và “Tà Cú”. Hai ông tà này rất ác ôn, “đì” dân Phan Thiết ngóc đầu không nổi, nên chẳng có ai được làm Vua hoăc làm Tổng Thống (!). Còn ông thần gánh hai hòn núi thì bị Thương đế giáng xuống làm “Giám đốc sở kiểm lâm” canh gác hai ông “Tà”. Ông thần này thích “chạy nhảy lung tung” hết rừng này tới núi nọ và cứ mỗi năm đến mùa nắng nóng thì mò lên Giếng Tiên để tắm. Nghe sao kể vậy, còn đúng sai thế nào thì thật tình tôi đây cũng “bù”.
6. Đồng Cá Sấu
Qua khỏi Râm Tiếng chừng một đỗi, có một ngã rẽ về bên phải. Đi thêm vài cây số nữa thì đến một cánh đồng hoang nằm gọn lỏn giữa một khu rừng già mênh mông. Giữa cánh đồng có một đầm nước sâu. Người làm rừng gọi cánh đồng này là “Đồng Cá Sấu”. Địa danh thường thường được người ta dựa vào một biểu tượng nào đó để đặt ra. Đồng cá sấu cũng vậy, vì ngay trên mé rừng dọc theo cánh đồng có một hòn đá nổi, hình thù giống hệt một con cá sấu đang nằm. Chiều dài khoảng chừng ba thước, bề ngang khoảng năm tấc. Trên lưng có một vết sẹo dài vắt chéo từ chân trái ở trước đến chân phải phía sau. Ngoài ra bên hông còn có ba dấu chân lõm sâu vào khoảng một lóng tay. Trong một buổi trà dư tửu hậu, tôi nghe người ta kể rằng, khi xưa có một gã nông phu đang cày ruộng, bất chợt có một con cá sấu thật lớn bò đến. Người nông phu này dùng roi cày và đôi chân giết chết con sấu. Con sấu nằm đó lâu năm, biến thành hòn đá với vết tích còn hằn rõ trên lưng. Chuyện thật đấy. Nếu độc giả nào không tin, chịu khó “bao” tôi về Việt Nam một chuyến, tôi bảo đảm sẽ đưa đến tận nơi để xem cho biết (!).
Núi rừng quê tôi còn nhiều chuyện để kể lắm. Nhưng già rồi trí nhớ không còn như xưa, nên nhớ đâu kể đó vài chuyện cho vui, và cũng xin nói rõ đây không phải là một tài liệu biên khảo.
Nguyễn Đức Nhơn
———
(1) Núi Ông nằm phía tây thành phố Phan Thiết,
trong hệ thống dãy Trường Sơn.
(2) Đầu mồi là giao điểm của lối mòn xe bò và con
đường sắt.
(3) Bánh gỗ bọc niền sắt.
(4) Có người nói ngoài Bắc gọi là “chim linh”, còn
ở quê tôi thì gọi là “chim chuông”.
(5) Núi Tà Dôn nằm phía bắc, cách Phan Thiết
chừng vài chục cây số. Núi Tà Cú nằm phía
nam, cách Phan Thiết chừng 30 chục cây số.
[/read]
Nguyễn Đưc Nhơn
Cánh Đồng Bao La
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Long và Quỳnh dìu nhau đến ngồi trên chiếc cầu gỗ bắt ngang con mương nhỏ ở khu vườn phía sau. Con mương với dòng chảy hiền hòa, êm ả cung cấp nước quanh năm cho hai vụ mùa ở khu vực này. Hai bên bờ mương, lau lách mọc đầy. Những chú cá đủ loại, thỉnh thoảng trồi lên mặt nước đớp mồi tạo nên những gợn sóng lăn tăn trông rất đẹp. Đây là lần sau cùng họ gặp nhau vì ngày mai Quỳnh phải theo Bác Sĩ Tân về Sài Gòn sau khi lễ cưới hoàn tất. Dưới ánh trăng thu vằng vặc, hai người ngồi sát vào nhau trông giống như một pho tượng đôi. Ba má Quỳnh là một đôi vợ chồng nông dân nghèo, suốt đời lam lũ trên hai thửa ruộng và một miếng vườn nhỏ bao bọc quanh nhà. Họ luôn ước mơ có một ngày nào đó, đời sống của họ khá giả hơn. Niềm mơ ước đó kéo dài lê thê cho đến một hôm có người mai mối Quỳnh cho Tân, một Bác Sĩ góa vợ, con của một gia đình giàu có ở Sài Gòn. Ông bà Trần mừng húm. Niềm ước mơ của ông bà giờ đây được gởi thác trên người Quỳnh. Ông bà dùng đủ mọi cách thuyết phục nàng. Cuối cùng Quỳnh cũng phải khuất phục trước quyết tâm sắt đá của ông bà. Nàng đem hết mọi việc kể cho Long nghe. Với bản chất hiền hòa đôn hậu của một chàng trai miệt vườn, Long chỉ biết chấp nhận sự tan vỡ của mối tình đầu như một việc tất nhiên vì gia đình chàng quá nghèo. Sau đêm gặp Quỳnh, Long bỏ lên Sài Gòn vì chàng không đủ can đảm nhìn người yêu của mình lên xe hoa. Long sống lang bạt ở Sài Gòn một thời gian rồi tình nguyện vào quân đội, phục vụ ở một đơn vị tận ngoài Vùng 1 Chiến Thuật.
Cưới nhau gần 2 năm mà Quỳnh và Tân vẫn chưa có mặt con nào. Tân suốt ngày ở bệnh viện. Khi tan sở lại đi đâu đó cho đến gần nửa đêm mới về. Quỳnh thui thủi ở nhà một mình. Nguồn vui duy nhất của nàng là đọc sách. Thỉnh thoảng Tân cũng có đưa Quỳnh đi ăn hoặc dạo chơi ở một vài nơi nào đó, nhưng Quỳnh thừa biết đây chỉ là việc làm bất đắc dĩ của Tân để lấp vào cái khoảng trống giữa hai người.
Ngồi một mình ở phòng khách. Cái vắng lặng về đêm trong căn nhà rộng lớn làm Quỳnh rùng mình. Nàng vói tay lấy tờ tạp chí mở ra đọc. Những hàng chữ nhảy múa nhòe nhoẹt truớc mắt Quỳnh. Nàng đưa tay lau nước mắt định trở về phòng thì Tân bước vào:
“Em chưa ngủ à?”
“Em đang chờ anh”
Tân không nói gì thêm, vói tay cầm tờ báo, nhìn thoáng qua rồi lặng lẽ về phòng. Thái độ lạnh lùng, im lặng của Tân càng kéo dài càng làm cho Quỳnh bồn chồn, lo lắng. Quỳnh đang chờ đợi một cái gì đó sẽ xẩy ra sau lần Tân vô tình bắt gặp lá thư của Long gởi cho nàng hồi hai người vừa mới yêu nhau, nhưng đã nửa năm rồi mà chưa thấy Tân tỏ ra một thái độ nào rõ rệt. Cũng với cái vẻ lầm lì cố hữu. Cũng đêm đêm lầm lũi hiện về như một bóng ma.
Ông bà Trần dưới quê lên thăm, đang trò chuyện với Quỳnh ở phòng khách thì Tân bước vào. Nhìn thấy ông bà Trần, Tân chào lấy lệ rồi quay ra cửa đi luôn. Ông bà Trần ngẩn người nhìn Quỳnh. Nàng cúi đầu nói khẽ:
“Ba má về đi”
Ông Trần nhìn Quỳnh với đôi mắt đầy ngạc nhiên, lo lắng:
“Vợ chồng phải hòa thuận với nhau”
Trên chiếc taxi, ông Trần ngồi ở ghế trước đăm chiêu nhìn ra bên ngoài. Bà Trần ngồi ghế sau với Quỳnh:
“Hai người xẩy ra chuyện gì vậy?”
Quỳnh nói khẽ vào tai bà Trần:
“Chuyện dài dòng. Vài bữa nữa về thăm nhà, con sẽ nói cho ba má biết”.
Bà Trần biết có hạch hỏi thêm cũng chẳng được gì, nên ngồi yên, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn ra bên ngoài. Cảnh phồn hoa đô hội của Sài Gòn làm bà choáng mắt. Bà thở dài sườn sượt…
Đưa ông bà Trần về xong, Quỳnh ghé qua nhà Loan, một người bạn chí thân từ thời còn đi học. Nhìn vẻ mặt buồn buồn của Quỳnh, Loan ái ngại:
“Có chuyện không vui à? Độ này anh Tân ra sao rồi?”
“Cũng vậy thôi”
Loan nhìn thẳng vào mặt Quỳnh không nháy mắt. Quỳnh bối rối trước cái nhìn quái gở của bạn:
“Làm gì mà mày nhìn tao như muốn ăn tươi nuốt sống vậy?”
“Quỳnh à! Có việc này muốn nói với mày từ lâu, nhưng tao cứ ngần ngại mãi”
“Có gì cứ nói. Bộ mày quên hai đứa mình là cặp bài trùng rồi sao?”
“Anh Tân đã… đã…”
Quỳnh đoán biết Loan muốn nói gì, nhưng nàng tỏ ra vẻ tò mò:
“Nói đi. Sao cứ ấp úng hoài vậy”
“Anh Tân có bồ bên ngoài”
Quỳnh tỉnh bơ như chẳng có gì quan trọng:
“Thì có sao đâu”
“Hả? Chuyện như sét đánh mà mày tỉnh queo. Tao phục mày sát đất rồi đó Quỳnh”
“Thực ra tao cũng biết việc này từ lâu rồi. Có điều tao không muốn làm lớn chuyện. Cứ xuôi theo tự nhiên thì hơn”
Loan giương cặp mắt tròn xoe nhìn Quỳnh:
“Bộ mày điên rồi sao?”
“Thôi tao về”
Quỳnh vừa nói vừa đứng lên bước ra cửa. Loan ngã người trên ghế salon “lẩm bẩm có thiệt không vậy, chồng có bồ khác mà tỉnh queo!…”
Về đến nhà, bước lên lầu, Quỳnh thấy Tân đang ngồi với một người đàn bà trẻ đẹp. Quỳnh khựng lại. Tân vừa dìu người đàn bà đứng lên vừa ném xuống bàn một xấp giấy rồi cả hai cùng bỏ xuống lầu. Quỳnh mở xấp giấy ra xem, thì ra đây là bản sao tập hồ sơ xin ly dị của Tân. Quỳnh lẩm bẩm:
“Việc phải đến cuối cùng rồi cũng đến”
Hồ sơ xin ly dị của Tân được giải quyết êm thắm tại Tòa, vì cả hai đương sự đều không có một khiếu nại nào. Sau phiên tòa vài ngày Quỳnh từ giã Tân về quê sống với ông bà Trần. Ông bà Trần cảm thấy hối hận về chuyện ép hôn nên cư xử rất thân thiện hòa nhã với Quỳnh. Ngược lại Quỳnh cũng tỏ ra vui vẻ cho an lòng cha mẹ trong lúc tuổi già.
Cuối năm 1968, Tân bị động viên vào trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Sau khi học xong chương trình huấn luyện quân sự cơ bản, Tân được chuyển về ngành quân y, phục vụ tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, nhưng mới được 6 tháng thì bị thuyên chuyển ra Vùng I Chiến Thuật, phục vụ tại một bệnh viện dã chiến của Trung Đoàn 51 bộ binh.
Từ những năm 70 trở đi, tình hình chiến sự tại Vùng I Chiến Thuật vô cùng sôi động. Trung Đoàn tổ chức hành quân liên miên. Hàng ngày Tân phải tiếp nhận và chữa trị rất nhiều thương binh từ mặt trận chuyển về. Trong số đó, Tân đặc biệt tận tâm chửa trị cho một Thiếu Úy mà chàng đã quen khá thân từ những ngày đầu đáo nhận đơn vị. Tấm thẻ bài khắc tên Phạm Long còn dính đầy máu. Sau một thời gian điều trị, Tân quyết định chuyển Long ra Tổng Y Viện Duy Tân, nơi có đầy đủ phương tiện để điều trị tốt hơn. Một tháng sau Tân ra Đà Nẵng thăm Long.
“Sao ông bạn thấy đỡ phần nào chưa?”
“Đã bớt nhiều rồi. À này Tân. Mày giúp tao một việc được không?”
“Được chứ. Chuyện gì vậy?”
“Nhờ mày viết một lá thư gửi về cho ba má tao. Bàn tay phải của tao bị đơ cứng, không cử động được”
“Yên chí. Nhưng phải viết như thế nào?”
“Tao đọc cho mày viết”
“Đọc đi”
Kính ba má,
Độ này ba má có khỏe không? Ba má nhớ giữ gìn sức khỏe. Phần con vẫn bình thường. Ba má đừng lo gì cả. Ít hôm nữa con sẽ xin phép về thăm ba má. À, Quỳnh độ này ra sao rồi má? Thằng Lượng viết thư cho con bảo là Quỳnh đã ly dị với Bác sỉ Tân, có đúng vậy không má?
Nghe Long đọc đến đây, Tân chợt nhớ đến lá thư Long gởi cho Quỳnh. Chàng thắc mắc tại sao lại có sự trùng hợp lạ lùng thế này? Tân ngừng viết hỏi:
“Này Long. Có phải quê mày ở xã Tân Hoài, Huyện Mỹ Sơn, tỉnh Kiến Hòa không vậy?”
“Sao mày biết?”
“Ờ, hồi nãy tao hỏi Bác Sĩ mày nằm phòng nào, ông ấy có hỏi lại tao quê quán của mày ở đâu”
“Thì ra là vậy”
Tân nhanh trí bịa chuyện thật tài tình khiến Long không còn thắc mắc gì cả. Tân với giọng buồn buồn nói:
“Đọc tiếp đi”
“Tao đọc đến đâu rồi Tân?”
“Ờ… ờ mầy hỏi má mầy, Quỳnh đã ly dị với Bác Sĩ Tân rồi phải không”
“Thôi Tân. Tao thấy hơi mệt. Như vậy cũng được rồi. Mầy ghi địa chỉ này rồi ghé bưu điện gởi đi giùm tao được không?”
“Được. Thôi tao về. Chúc mày mau lành”
Tân nói xong bỏ đi ngay. Bầu trời Đà Nẵng âm u lất phất mưa phùn. Tân lên xe bảo tài xế ghé bưu điện bỏ thư rồi lên đường trở về đơn vị. Đêm đó Tân trằn trọc mãi, không làm sao chợp mắt được. Không lẽ mình còn thương Quỳnh chăng? Không lẽ mình ghen với Long chăng? Tân tự mâu thuẩn với mình. Tân nghĩ về người đàn bà đã xúi chàng ly dị Quỳnh để làm lại cuộc đời, nhưng khi chàng vào quân đội không bao lâu thì bà ta lại cặp bồ với một Bác Sĩ khác cùng làm chung bệnh viện với chàng lúc trước.
Long xuất viện với đề nghị giải ngũ vì bàn tay phải bị đơ không thể cầm súng được. Long ghé đơn vị để từ giã bạn bè trước khi trở về quê nhà chờ ngày ra Hội Đồng Y Khoa. Long rủ Tân về Hội An uống cà phê. Tân vui vẻ nhận lời. Tân cho tài xế nghỉ phép và chàng tự lái xe cùng Long về Hội An. Thời tiết Quảng Nam Đà Nẵng vào mùa này lúc nào cũng mưa lâm râm, gió thổi nhè nhẹ tạo thành một không gian u ám, buồn tẻ. Ngồi trên xe, Long nói luôn miệng còn Tân thì chỉ ậm ờ cho qua chuyện. Thành phố Hội An chìm trong lớp mưa phùn dày đặc. Tân cho xe đậu lại trước một quán cà phê. Chủ quán là một góa phụ tuổi chừng ba mươi, khá đẹp. Nghe nói chồng bà ta đã chết trong trận Mậu Thân, để lại cho bà cái quán cà phê này.
“Cô em cho ly cà phê đen”
Cô chủ quán trề môi. Vành môi đỏ hồng trông rất khiêu gợi.
“Ê! Gọi chị đàng hoàng nghe cưng?”
“Nhưng em lỡ yêu chị rồi làm sao đây?”
Thì ra Long thường “chuồn” về Hội An ghé quán cà phê này tán gẫu. Khác với bản tính đôn hậu thư sinh khi còn ở quê nhà, Long có vẻ sỏi đời hơn nhiều. Long hỏi Tân uống cà phê gì. Tân trả lời lập lờ cà phê gì cũng được. Tân thả khói thuốc thành những vòng tròn trông rất đẹp. Bà chủ quán bưng hai ly cà phê đặt trước mặt hai người rồi nhìn Long nguýt một cái. Đây là cách câu khách của những bà chủ quán dày dạn trong nghề. Long vừa nhâm nhi cà phê vừa kể cho Tân nghe về mối tình đầu của mình ở quê nhà:
“Mày biết không. Tao và Quỳnh yêu nhau thắm thiết. Cứ tưởng sẽ ăn đời ở kiếp với nhau. Nào ngờ có thằng Bác Sĩ mắc dịch ở Sài Gòn cướp mất”
“Vậy mày có hận ông ta không?”
“Hận làm mẹ gì. Đời là vậy đó. Con chim trong lồng, con cá trong chậu có khi còn bị vuột mất, huống chi…”
Long nói đến đây bỗng khựng lại. Nét mặt chàng biến đổi thật nhanh. Ngoài trời cơn mưa phùn vẫn bay lất phất trong gió. Long nhìn ra ngoài thở dài sườn sượt.
Long không nói gì thêm. Nét mặt chàng u ám như cơn mưa phùn đang bay lả tả bên ngoài song cửa. Long nhớ đến Quỳnh. Những kỷ niệm của mối tình đầu luôn ám ảnh đến tâm tư tình cảm chàng. Long nhìn Tân với giọng buồn buồn:
“Ngày mốt tao lên máy bay. Không biết bao giờ mới gặp lại mày. Súng đạn vô tình, mày nhớ cẩn thận đấy”
“Rất tiếc tao không thể đưa mày ra Đà Nẵng được. Mày biết mà, không có phép làm sao vắng mặt qua đêm được. Hơn nữa dạo này các đơn vị đụng độ thường xuyên nên tao phải có mặt ở đơn vị để chăm sóc thương binh. Tao nghĩ nếu mình có duyên thì sẽ gặp lại nhau thôi”
Long gọi bà chủ tính tiền rồi cùng Tân ra xe. Tân cho nổ máy, bắt tay Long lần cuối rồi nhấn ga, chiếc xe trườn lên phía trước, bỏ lại một nhụm khói từ từ tan đi trong lớp bụi mưa phùn.
Quỳnh đang lui cui quét dọn ở sân trước, bất chợt thấy Loan từ ngoài cổng đi vào. Quỳnh vừa ngạc nhiên vừa mừng. Nàng ném cây chổi trên tay, chạy vội ra ôm lấy Loan. Hai người mừng mừng tủi tủi sau bao tháng trời xa cách. Hai người nắm tay nhau đi vào nhà. Ông bà Trần cũng rất vui, hỏi Loan đủ thứ chuyện. Thăm hỏi ông bà Trần xong, Loan kéo Quỳnh ra vườn sau, lục bóp lấy ra một phong thư đưa cho Quỳnh nói mày đọc đi. Tao dạo vườn mày một chút. Quỳnh ngồi xuống chiếc sạp gỗ kê dưới tàn cây, chậm rãi đưa phong bì lên xem. Nàng ngẩn người khi thấy ba chữ Huỳnh Quang Tân hiện ra trước mắt. Nàng do dự một chút rồi mở phong bì ra xem. Bức thư chỉ võn vẹn mấy dòng:
“Quỳnh ơi, Anh không dám nghĩ đến việc nối lại nhịp cầu đã gẫy. Anh chỉ cầu xin em tha thứ sự lỗi lầm của anh. Long, bạn anh sắp được giải ngũ và sẽ trở về quê nhà trong nay mai. Hy vọng hai người sẽ nối lại duyên xưa… Tân”
Đọc xong thư, một quá khứ đau buồn trổi dậy phủ kín tâm hồn Quỳnh. Nàng uể oải đứng lên, từng bước đến đưa bức thư cho Loan xem. Loan hỏi:
“Mày nghĩ thế nào?”
“Chuyện đã thành quá khứ rồi”.
Từ ngày trở về sống ở quê nhà, chiều nào Quỳnh cũng thả bộ trên con đường mòn râm mát xuyên qua mấy khu vườn dẫn ra cánh đồng phía trước. Cỏ cây, hoa lá, chim muông hai bên đường quyện lấy nhau hài hòa dưới ánh nắng chiều dìu dịu khiến Quỳnh vơi đi phần nào nỗi buồn trong quá khứ. Quỳnh đang thả nhẹ từng bước, chợt nghe tiếng chân người phía sau. Nàng quay lại, sững sờ khi nhận ra người đối diện mình là Long. Cũng với nụ cười nửa vui nửa buồn cố hữu, Long khẽ hỏi:
“Em khỏe không?”
“Dạ cũng được”
“Anh sắp được giải ngũ và sẽ về đây ở luôn”
“Em có nghe lờ mờ về việc anh bị thương. À, chắc anh biết em và Tân đã ly dị?”
“Nghe ba má anh nói”
“Thời gian trôi mau quá. Mới đó mà đã gần ba năm!”
“Ừ, gần ba năm rồi em nhỉ?”
Buổi chiều ở thôn quê thật êm ả. Hai người tiếp tục hướng về phía trước, sánh vai bên nhau trên con đường nhỏ xuyên qua cánh đồng lúa non xanh rờn bao la bát ngát.
“… Tình ngỡ đã phôi pha
Nhưng tình vẫn còn đầy
Người ngỡ đã đi xa
Nhưng người vẫn quanh đây…”
Trịnh Công Sơn
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Con Quỷ Cái Ở Hồ JP
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Lão mê câu cá còn hơn người ta mê đánh bài. Mùa hè, hầu như ngày nào lão cũng ngồi dưới hồ cho đến chạng vạng tối mới chịu trở về. Thường thì lão rất ít đi câu đêm, bởi lẽ đôi mắt lão rất kém. Lái xe đường xa ban đêm lão thường hay lạng quạng, đã mấy lần xuýt xảy ra tai nạn. Thỉnh thoảng lão cũng có theo người ta đi câu đêm ở một vài nơi nào đó, nhưng hôm nay lão quyết định một mình lái xe đi câu ở hồ J.P. lake. Lão tìm một nơi thật vắng vẻ để cắm cần. Hai bên chỗ lão ngồi là những tàn cây lớn. Dưới mấy tàn cây là những lùm bụi rậm rạp. Lão đang say sưa, hồi hộp chờ cá dính câu thì một tiếng động lạ phát ra từ một lùm bụi cách chỗ lão ngồi chừng vài chục thước. Lão dớn dác nhìn về phía đó nhưng chẳng thấy được gì. Ngọn gió đêm không mạnh lắm, thổi đến từng chập, đong đưa mấy cái nhánh là sà trên mặt nước, tạo nên những âm thanh vừa êm ái vừa rờn rợn. Dưới ánh sáng lờ mờ của mấy ngọn đèn câu từ ngoài hồ chiếu vào, lão thấy một bóng người, hình như là bóng của một người đàn bà, mặc đồ trắng, nhỏ con, từa tựa như một người lùn, bò tới bò lui, chập chờn trên mé nước rồi biến mất. Lão đưa tay lên dụi dụi cặp mắt để nhìn cho kỷ hơn, nhưng lão chẳng còn thấy gì nữa.
Vì để hết tâm trí nhìn về phía lùm bụi mà lão quên mất việc trông chừng mấy cái cần. Khi lão sực nhớ, quay lại thì cái cần cắm gần bên lão biến mất. Lão vò đầu, bứt tóc, vừa tiếc con cá vừa tiếc cái cần. Lão đang lớ ngớ không biết phải làm gì thì một loạt âm thanh kỳ quái như tiếng người rên rỉ lại từ lùm bụi phát ra. Lão dồn hết thính lực vào hai lỗ tai, nhưng chẳng còn nghe được gì. Mặt hồ im phăng phắc. Lão nghe lành lạnh ở sống lưng. Lão đưa tay lên xoa xoa trên mí mắt cho thần trí tỉnh táo lại.
Thực ra suốt cuộc đời lão, lão chưa hề tin ma quỷ bao giờ. Từ lúc bước chân vào quân đội, lão luôn luôn phục vụ ở các đơn vị tác chiến. Rừng rú, bụi bờ, mồ mả, không một nơi nào mà lão chưa từng ngủ qua. Lão gặp vô số những chuyện ly kỳ quái đản, nhưng bao giờ lão cũng cho đó là những nhầm lẫn về quang học, hoặc là những sự trùng hợp ngẫu nhiên gì đó thôi.
Lão đang nhìn đăm đăm vào cái bụi chết tiệt kia thì một luồng nước gợn dài ngoài mé hồ từ từ trườn về phía lão, trông giống như một con cá sấu đang tiến vào bờ đớp mồi. Lão lùi lại mấy bước, sẵn sàng tư thế phóng chạy, nhưng không còn kịp. Cái gợn nước đột nhiên nổi lên ào ào, nước bắn lên tung tóe, vụt nhanh về phía lão. Lão bật ngửa về phía sau. Mấy luồng nước mát lạnh trượt qua người lão, mang theo mấy tiếng cạp… cạp… rồi biến mất vào hàng bụi rậm. Lão định hồn, vừa lồm cồm ngồi dậy vừa chủi thề: “Đ.m… nó… mấy con vịt cà chớn”
***
Vợ lão đang loay hoay trong bếp thì có tiếng cửa garage. Bà ra bật đèn lên thì thấy lão uể oải từ ngoài xe lững thững đi vào. Bà hơi ngạc nhiên vì bà rất hiểu tính lão, đi câu ít khi lão chịu về sớm, dù có cá hay không lão cũng mịn riết dưới hồ. Nhưng hôm nay không biết sao, mới mười giờ tối mà lão đã lọt tọt trở về. Nhìn bộ mặt của lão, bà biết ngay lão chẳng câu được con nào. Thực ra bữa nào mà lão trở về tay không là bà mừng thầm trong bụng. Bởi không những bà mà cả đám con cháu trong nhà, chẳng có đứa nào chịu ăn cá hồ. Mỗi khi lão xách cá về là bà phải len lén đem bỏ thùng rác, hoặc đem cho người ta. Hôm nào rủi ro bị lão bắt gặp là lão cằn nhằn suốt ngày. Lão nói: “Cái gì mà dùng tiền để mua thì mới quý, còn cái gì mà mình tự kiếm được là đồ bỏ, đồ vô giá trị, phải biết vậy tôi cho người ta dưới hồ cho rồi”. Lão nói thì nói vậy, nhưng nếu hôm nào vợ lão lấy cá lão câu, nấu nướng đàng hoàng dọn lên bàn thì lão chỉ gắp qua loa một vài miếng, khen lấy khen để mấy câu rồi vừa cười hề hề vừa chìa đũa qua mấy món ăn khác của bà. Sau bữa ăn, bà ngang nhiên lấy mấy con cá lão câu đem bỏ thùng rác mà lão chẳng hề tiếc rẻ chút nào.
Bà bấm cửa garage xuống rồi bước theo lão vào trong. Nhìn bộ mặt tiu nghỉu của lão, bà vừa buồn cười vừa thương hại:
“Ụa, sao hôm nay ông về sớm vậy?”
“Thôi đừng hỏi nữa bà ơi! Tôi không ngờ ở cái xứ văn minh nhất thiên hạ này lại có nhiều ma quỷ đến như vậy, báo hại làm tôi xuýt bỏ mạng, về đến nhà là mừng rồi đó bà”.
“Ông nói cái gì vậy? Ma quỷ ở đâu mà ông gặp?”
“Thì ở dưới hồ J.P chớ ở đâu”
“Mà chuyện thế nào ông nói tôi nghe thử coi”
“Có đứa nào ở nhà không?”
“Không”
“Vậy thì được. Tụi nó còn nhỏ nghe chuyện ma quỷ không tốt, vả lại chuyện này là có thật, chính mắt tôi thấy, không phải nghe người ta kể lại đâu”
Lão vừa nói vừa làm ra vẻ bí mật, cứ vòng vo tam quốc mãi. Bà thì nôn nóng muốn nghe, hối thúc lão liền miệng. Thì ra lão gãi đúng chỗ ngứa của bà. Thật ra không phải đến bây giờ lão mới biết cái tật sợ ma lại thích nghe chuyện ma của vợ lão, mà ngay hồi mới cưới nhau, lão đã phát hiện cái điều này rồi. Khi ấy trong ngăn kéo của bà, lão thấy toàn là những cuốn sách kể về chuyện ma. Rồi sau khi qua Mỹ, mỗi lần bật TV lên mà thấy chiếu phim ma, thì coi như bà đã mở trúng đài, mọi người đành đi chỗ khác chơi!
Lão cà kê dê ngõng một hồi cho đã rồi mới lên giọng tằng hắng:
“Bữa nay tôi gặp một con quỷ cái, nó mặc bộ đồ trắng toát”
Bà vợ lão há hốc mồm:
“Cái gì? Ông gặp quỷ? Nó có làm gì ông không?”
Lão làm ra vẻ quan trọng, nhìn trước nhìn sau, hạ giọng nói:
“Sau khi ngâm mồi xong đâu đấy, tôi ngồi dựa trên ghế chờ đợi, thì một con quỷ cái mặc đồ trắng, để tóc xỏa, cặp mắt đỏ như hai hòn lửa, nhìn tôi rồi thè cái lưỡi dài lòng thòng xuống tới mặt đất. Nó chờn vờn trên nhánh cây, chìa hai hàm răng nhọn hoắc, cười rít rít như người ta dũa răng cưa. Bà ơi! Từ nhỏ đến giờ tôi chưa hề thấy con quỷ cái nào dữ dằn như vậy. Mấy hôm trước tôi còn nghe người ta nói nhiều chuyện về nó nữa nhưng mà tôi không tin…”
“Người ta nói cái gì vậy ông?”
“Ngồi xích ra một chút coi nào. Làm cái gì mà nép nép vào người tôi vậy?”
“Cái ông này, được rồi, nói đi”
“Người ta nói con quỷ này rất thích làm đẹp”
“Cái gì? Quỷ mà cũng thích làm đẹp?”
“Chớ sao. Người ta nói con quỷ cái này mới xuất hiện gần đây thôi. Nó rất thần thông quảng đại, không sợ ánh sáng mặt trời nên ngày đêm gì nó cũng lảng vảng trước mấy cái “mo” hay trước mấy cửa tiệm bán hàng mỹ phẩm, hễ thấy ai mua quần áo hàng hiệu, hoặc loại mỹ phẩm đắc tiền là nó kè theo liền…Nó nhập vào những người đó để dùng chung những thứ đắt tiền, còn những người mua đồ bình thường thì nó không thèm ngó tới đâu”
“Trời ơi con quỷ cái này dễ sợ quá! Để tôi nói với mấy bà bạn đừng mua hàng hiệu nữa”
“Không được. Con quỷ cái này rất ghét những người nhiều chuyện. Nó mà biết được thì không tha đâu”
“Thôi được, tôi không dám nói đâu. Ông à! Tối nay ông cho tôi ngủ trong phòng ông với nghe?”
“Được rồi, muốn ngủ đâu thì ngủ”
Hù vợ lão một hồi cho chừa cái tật phung phí tiền bạc rồi bỏ ra ngoài vừa hút thuốc vừa bụm miệng cười khúc khích: để coi bà còn dám mua hàng hiệu nữa không?
Suốt cả buổi sáng lão cứ thắc mắc mãi về con quỷ cái ở hồ J.P. Bây giờ hồi tưởng lại, lão còn nhớ rất rõ những gì đã xẩy ra vào đêm vừa rồi, một cái bóng trắng toát, lùn chủn, bò qua bò lại trên mé nước rồi biến mất. Lão còn nghe những tiếng động lạ, những tiếng rên è è như người ta bị thắt cổ. Thế rồi cái tính tò mò lại thôi thúc lão. Lão quyết định hôm nay, vào ban ngày, lão phải khám phá cho bằng được cái điều bí mật trong cái lùm bụi kia. Lão chỉ xách theo một cái sô và một cây cần nhỏ, loại dùng để câu mồi giả. Sau khi cẩn thận kiếm một đoạn cây rắn chắc, dài chừng một thước. Lão rón rén tiến đến lùm bụi. Lão vừa đưa tay vén mấy cái nhánh là sà trên mặt nước thì một cái bóng trắng từ trong lùm bụi phóng vút vào người lão, lão ngã bật về phía sau, hồn bay phách tán…
Vợ lão loay hoay trong bếp một hồi rồi bưng ra cho lão một đĩa trứng ngõng, cái nào cái nấy to gần bằng nắm tay. Lão vừa ăn vừa khen ngon rồi lẩm bẩm: Mẹ, con quỷ cái này đẻ trứng to thật…
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Mắc Cạn
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Gần một tháng nay, chiều nào ông cũng ra ngồi trên chiếc sạp nhỏ ghép bằng gỗ thong, kê ở gốc me sau nhà. Ông ngồi bất động. Nét mặt buồn hiu. Đôi mắt đăm đăm nhìn về hướng núi Ông, cho đến khi những đám mây đen trên đỉnh núi tan hết ông mới lủi thủi trở vào nhà. Nơi ông ở là một vùng nước trời nằm về phía tây tỉnh lộ 8. Những năm gần đây thường xẩy ra hạn hán, mất mùa. Con suối sau nhà, nguồn nước duy nhất có thể dùng để cứu những thửa ruộng của ông cũng đã khô cạn, chỉ còn đọng lại những vũng nước đã ngả màu vàng sậm. Những con cá lòng tong mắc cạn ngoi ngóp trên mặt nước trông thật thảm hại. Đám bắp trồng ở miếng đất trước nhà, nguồn hy vọng duy nhất giúp gia đình ông giải quyết lương thực cho đến ngày giáp hột cũng quíu cờ héo rụi. Ngày ra tù, ông đưa vợ con từ vùng kinh tế mới trở về sinh sống ở cái làng nhỏ bé này, vì đây là quê quán ông, nơi mà chính quyền bắt buộc ông phải cư ngụ trong thời gian còn “quản chế”. Trong số những người bà con thân thuộc, cũng có người muốn giúp ông nhưng một phần vì ái ngại, không muốn thân cận với một người tù “cải tạo” mới về. Một phần vì chính gia đình họ cũng đang lâm vào hoàn cảnh khốn khó bởi những năm hạn hán mất mùa. Trước những khó khăn chồng chất không còn lối thoát, ông phải thực hiện một quyết định táo bạo là đùm túm cả gia đình chạy vào Long Khánh, nhưng cuộc “di dân” bất thành vì bị bức tường “hộ khẩu” chắn ngang, đành phải dội ngược trở về với hai bàn tay trắng. Để rồi từ đó, chiều nào ông cũng ra ngồi trên tấm sạp kê dưới gốc me, ngó về hướng núi Ông. Những đám mây đen chợt tụ chợt tan như một trò chơi trêu người quái ác. Loài người tàn nhẫn với ông. Thiên nhiên cũng tàn nhẫn với ông…
Nhà ông cách thị xã Phan Thiết không xa, chỉ hơn 6 cây số, nên ông thường đạp xe đạp xuống thăm mấy người bạn tù đang sống trong cái thị trấn nhỏ bé, buồn hiu này. Trong số bạn ông, có những người rất thiết tha với tình nghĩa bạn bè. Nhưng cũng có người thì lại thờ ơ lãng đạm cho dù ông chưa hề mở miệng nhờ cậy họ bất cứ một điều gì. Từ đó ông thường làm bạn với núi rừng. Ông theo những người trong làng lên núi phụ họ đốn củi hầm than (như một hình thức vần công) để nhờ họ chở về, khi thì năm bảy cây tre, khi thì vài ba bó củi. Cũng may, trong lúc sống dở chết dở thì một người cháu ruột ở Sài Gòn giúp ông một số tiền đủ để mua hai con bò và một chiếc xe bánh cây cũ kỹ. Từ đó ông thường lên núi một mình với một xị rượu, một ít gạo và năm ba con cá khô. Cuộc sống đơn điệu buồn chán ấy tiếp tục hành hạ ông sau những năm tù nghiệt ngã.
Chỗ ông ở cách núi Ông khá xa nên thường bắt đầu những chuyến đi vào lúc xế chiều, khi mà ngọn gió mùa đông bắc từ biển đông thổi vào mạnh nhất, dấy lên một vùng khói bụi mịt mù. Nhà thơ Huỳnh Hữu Võ tả cảnh này chỉ bằng một câu thơ mà mỗi lần đọc lên ông cảm thấy buồn da diết “…tháng giêng gió thổi mù như khói…”
Chiếc xe thong dong lăn bánh dưới ánh nắng chiều chói chang gay gắt. Ông ngồi tựa vào hông xe, ung dung thoải mái như một khách nhàn du, mặc cho hai con bò già an phận kéo chiếc xe qua từng thước đường như một nghĩa vụ thiêng liêng mà loài người đã áp đặt lên nó từ cái thời xa lắc xa lơ nào đó. Hai bên đường lác đác năm ba căn nhà lợp tôn cửa đóng kín mít. Những con bò thả rong, đi lang thang trên cánh đồng còn trơ gốc rạ. Ngọn gió mùa đông bắc mang theo mùi khói đốt đồng quét vào người ông rát rạt. Nhìn cảnh vật xác xơ nơi đồng khô cỏ cháy dưới ánh nắng chiều chói chang khiến ông nhớ lại căn nhà nhỏ bé ấm cúng của ông bây giờ đã lột vào tay kẻ khác. Trong thời gian đi lính, dù số lương ít ỏi, vợ chồng ông cũng dành dụm tạo được một căn nhà nằm trong thị xã, tuy nhỏ bé nhưng cũng xây gạch đàng hoàng. Trước nhà cũng có những chậu hoa mai hoa sứ. Mỗi lần nghỉ phép ông thường dắt mấy đứa con ra sân đùa giỡn. Đùng một cái, ngôi nhà tự nhiên đổi chủ. Khi ở tù về, mỗi lần ngang qua căn nhà, đứng ngoài đường nhìn vào, ông cảm thấy xót xa đau đớn nhưng rồi cũng đành ôm mối hận lòng lủi thủi bỏ đi. Rồi ngày tháng qua mau. Rồi niềm đau vơi dần. Nhưng cái cảnh nghèo đói vẫn bám sát theo ông, đè nặng lên người ông, khiến ông như một con cá lòng tong mắc cạn, thả nổi cuộc đời, mặc cho định mệnh đẩy đưa…
Càng vào sâu. Địa hình càng phức tạp. Đường núi chông chênh quanh co khúc khỉu. Hai con bò già hì hục kéo chiếc xe qua từng thước đường gập ghềnh sỏi đá dẫn vào chân núi.
Rừng ngàn năm vẫn buồn.
Chôn sâu niềm u uẩn.
Người ngàn năm vẫn còn
đi trong vòng lẩn quẩn…
nđn
Ông đọc lầm thầm trong miệng mấy câu thơ vừa mới làm rồi cầm xị rượu lên mở nắp. Mùi rượu mía bốc lên hăng hắc khiến ông nhớ quá cái mùi hennessy mà trong đời lính tráng ông đã nhiều lần thưởng thức qua. Ông thở dài sườn sượt, đưa mắt ngó về phương tây. Những đám mây tụ về đỉnh núi bàng bạc mông lung. Cánh rừng cũng trở nên yên ả mơ màng sau một ngày gió mùa lồng lộng thổi. Một vài chiếc lá vàng nhạt lững lờ rơi xuống đầu xe. Một tiếng hú đơn điệu phát ra từ một hóc hiểm nào đó của núi rừng. Ông nghiêng tai lắng nghe, bất chợt nhớ lại lúc còn trẻ ông đã từng đọc qua tác phẩm The forest call của Jack London. “Tiếng gọi của rừng thẳm” là tiếng gọi gì vậy nhỉ? Ông quên mất nội dung câu chuyện. Có thể là tiếng gọi của bày lang sói. Cũng ó thể là tiếng gọi của một gã tiều phu… Quả thật ông không còn nhớ được gì, nhưng ông quả quyết đó là tiếng gọi của núi rừng, tiếng gọi vọng đi từ núi rừng!…
Tiếng hú im bặt. Núi rừng cũng trở nên lạnh lùng khó hiểu. Chiếc xe vẫn lầm lủi vượt qua những triền núi cheo leo, bánh xe nghiến lên những phiến đá lồi lõm tạo ra một thứ âm thanh cộc cằn khô khốc. Ông vẫn ung dung tự tại ngồi tựa vào hông xe như một vị hoàng đế đang chễm chệ trên chiếc ngai vàng… (!)
Mặt trời ngã xuống thật nhanh. Bóng tối tràn về bao trùm vạn vật. Bóng tối luôn là thủ phạm tạo ra muôn vàn hiểm nguy bất trắc. Cái vẻ hiền hòa an phận của núi rừng phút chốc cũng trở nên hung hiểm dị thường. Ông điều khiển cặp bò rẽ vào một láng trống nằm cạnh một con sông nhỏ với dòng chảy hiền hòa trong mùa nước cạn. Cho bò uống nước xong, ông nhặt một mớ củi khô nhóm lửa nấu cháo. Ông đổ nửa chén gạo vào cái soong nhỏ với hai chén nước rồi bắc lên cái bếp dã chiến kê bằng ba cục đá. Tiếng sôi ùng ục từ soong cháo phát ra nghe buồn đứt ruột. Ông bê soong cháo trút hết vào cái tô rồi gắp hai con cá bỏ vào. Mùi cháo và mùi cá khô nướng quyện vào nhau bốc lên thơm phức. Ông nhai ngấu nghiến cái đầu cá rồi từ từ để cho chất mặn, chất béo, chất ngọt thắm vào đầu lưỡi như một vị đế vương đang thưởng thức một món sơn hào hải vị gì đó. Bữa ăn tối của ông là vậy! Một chút lương hồ lỏng bỏng trút vào cái bao tử rổng tếch chẳng thấm thía vào đâu. Ông thu dọn bát đũa bỏ vào bao cát rồi chui vào gầm xe.
Nằm co ro trên tấm nylon với một cảm giác cồn cào khó chịu, giấc ngủ khó lòng tìm đến với ông. Ngủ không được, ông lại chui ra ngồi bên đống lửa. Đêm càng về khuya, núi rừng càng lộ rõ cái vẻ hung hiểm kỳ bí của nó. Một vài tiếng kêu rời rạc của một con chim ăn đêm vọng lại từ khu rừng bên cạnh làm ông thấm buồn. Ông lại lan man nghĩ ngợi về thân phận con người. Mới ngày nào còn là một học sinh với bao niềm ước mơ, hy vọng. Mới ngày nào còn là một sinh viên sỹ quan với bộ quân phục ủi hồ láng bóng đi bên cạnh người yêu trên đường phố Sài Gòn. Mới ngày nào còn quấn quýt bên vợ con trong ngôi nhà thân yêu vào những ngày nghỉ phép. Rồi giờ đây một mình ngồi giữa núi rừng thâm u trùng điệp, bóng tối vây quanh. Nỗi cô đơn lại hiện về phủ kín hồn ông…
Mặt trời đã lên cao. Những giọt nắng quái ác xuyên qua cành lá đậu lên tấm thân gầy gò héo hắt của ông. Một con chim đứng nhìn dáo dác rồi bay vút vào khu rừng phía trước. Một con sóc chuyền nhanh qua trước mặt. Một chiếc lá còn xanh yểu mệnh nhẹ nhàng rơi xuống nằm trơ vơ trên đám lá khô. Nhịp sống quanh ông diễn ra đơn điệu đến rợn người. Ông dụi tắt điếu thuốc rồi uể oải đứng lên tiếp tục đi tìm những khúc củi nằm rải rác trong khu rừng giữa trưa hừng hực nóng. Mồ hôi trên lưng áo bà ba đen của ông bị sức nóng hong khô tạo thành những vết loang lỗ trắng đen trông giống như một bức tranh trừu tượng.
Loay hoay cả ngày với những khúc củi oằn vai khiến ông cảm thấy toàn thân rời rã. Màn đêm núi rừng buông xuống thật nhanh. Ông ngồi vắt vẻo trên chiếc xe chở đầy than củi xuyên qua những khu rừng chồi nối tiếp nhau trải dài hàng chục cây số dẫn về ngôi làng bé nhỏ của ông, nơi có những vũng nước ngả màu và những con cá lòng tong mắc cạn…
Nguyễn Đức Nhơn
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Quỳnh
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Đến Mỹ gần sáu tháng rồi mà tôi vẫn chưa tìm được việc làm. Lan, người yêu cũ của tôi hồi còn ở Đà Lạt, tình cờ, nay lại ở cùng một khu chung cư. Chồng Lan, một Sĩ quan Không quân đã chết trong trại cải tạo, Lan cùng hai con đến định cư ở Hoa Kỳ theo diện tỵ nạn HO. Tuy là tình cũ gặp lại nhưng chúng tôi vẫn coi nhau như tình đồng hương, bè bạn mặc dù cả hai đã là người độc thân sau biến cố 1975.
Thực ra mối tình giữa tôi và Lan chỉ là mối tình hời hợt của tuổi học trò. Lan khuyên tôi nên xin viêc ở khách sạn Dalat do một người Việt làm chủ. Lan cũng là người giúp việc cho bà chủ tại một nhà riêng ở đường Houston. Nhờ có sự giúp đỡ của Lan nên tôi được thu nhận một cách dễ dàng. Ngày đầu tiên nhận việc, bà quản lý giao cho tôi công việc lau chùi các lối ra vào trong khách sạn. Công việc này kể ra cũng khá thích hợp cho tôi lúc bấy giờ.
Ở hành lan khách sạn, tôi vừa quét dọn vừa để ý đến một người đàn bà có khuôn mặt quen quen đang tiến về phía tôi. Khi đến gần, người đàn bà chợt dừng lại nhìn tôi đăm đăm và cả hai đều sững sờ vì đã nhận ra nhau. Cái phản ứng đầu tiên của chúng tôi dường như được phát ra đồng loạt bằng một câu hỏi lấp lửng đầy ngạc nhiên.
“Anh Thành…”
“Quỳnh…”
Nhưng cái nét tươi vui, hớn hở của Quỳnh khi gặp lại tôi bất chợt tối sầm lại, nàng nói:
“Không ngờ gặp lại anh”
“Ừ, không ngờ, Quỳnh làm ở đây à?”
“Vâng, có thể coi như vậy”
Tôi chưa kịp nói gì thêm thì Quỳnh tiếp:
“Ở đây bất tiện, chút nữa gặp lại”
Quỳnh nói xong bỏ đi ngay.
Đang ngồi hút thuốc bên ngoài khách sạn thì cô thư ký bước đến bảo:
“Mời ông theo tôi lên gặp bà chủ”
“Cô à, bà chủ gặp tôi có việc gì vậy cô?”
“Ai biết”
Nghe cô thư ký trả lời cộc lốc nên tôi không muốn hỏi gì thêm mà chỉ lẳng lặng theo cô ta lên tầng lầu hai:
“Thưa Bà, ông Thành đã đến”
“Mời vào”
Cô thư ký nói:
“Ông vào đi, tôi có chút việc”
Tôi đẩy cửa bước vào và đứng chết trân khi nhận ra người đàn bà ngồi phía sau bàn làm việc chính là Quỳnh. Tôi hơi lung túng một chút nhưng lấy lại bình tỉnh:
“Chào Quỳnh”
Quỳnh chỉ chiếc ghế nói:
“Mời Anh ngồi”
Quỳnh vừa nói vừa đưa tay chỉ chiếc ghế trước bàn làm việc:
“Anh qua Mỹ lâu chưa?”
“Gần sáu tháng rồi”
“Qua cả gia đình chứ?”
“Vâng”
Quỳnh ngồi yên lặng một hồi rồi với một giọng nghiêm nghị lạnh lùng, nàng nói:
“Anh thấy công việc ở đây thế nào?”
“Cũng được”
Quỳnh lại ngồi đăm chiêu tư lự một hồi nữa rồi tiếp:
“Thôi được, anh Thành đến phụ chị Lan trông coi nhà cửa dùm em.
***
Ngôi nhà còn mới, vườn tược được chăm sóc khá chu đáo. Hoa cỏ rất đẹp. Vườn sau trồng nhiều loại cây ăn trái. Tất cả những công việc bên ngoài nhà, Quỳnh đã khoán cho một tổ hợp người Mễ chăm sóc thường xuyên. Quỳnh ít khi ở nhà. Việc trông coi nhà cửa đều do một mình Lan đảm nhận. Lan nói như vậy.
“Bà chủ này cũng kỳ thật, ở đây đâu có việc gì cho anh làm”
“Tôi đâu biết, bả bảo sao thì tôi nghe vậy”
“Bả bảo thế nào?”
“Bả bảo tôi đến phụ Lan trông coi nhà cửa”
“Thôi được, anh nhắc ghế ra sân ngồi trông coi cho đã đi”
Lan vừa trêu tôi vừa rót nước ra hai cái tách làm bằng thủy tinh. Ngôi nhà rộng thênh thang, bài trí khá trang nhã. Tôi và Lan ngồi ở phòng khách vừa uống trà vừa ôn lại những ngày còn sinh sống ở Đà Lạt. Những kỷ niệm vui buồn của một thời trai trẻ lần lượt hiện ra trong đầu tôi…
***
Vườn hồng của bác Hiền nằm ngay dưới chân một ngọn đồi. Ở lưng chừng ngọn đồi có một khe nước ngầm từ trong lòng đất chảy ra. Bác Hiền lợi dụng nguồn nước này để làm hệ thống tưới cho khu vườn. Khu vườn bác Hiền nằm không xa thành phố bao nhiêu, một khu vực tương đối khá an toàn, nên tôi thường đến đây chơi vào những ngày cuối tuần. Bác Hiền rất vui khi có tôi đến chơi. Bác kể cho tôi nghe nhiều chuyện thật lý thú. Về phần tôi, tôi cũng phụ Bác làm một vài công việc lặt vặt. Chúng tôi một già một trẻ, xem ra khá tương đắc.
Vào một chiều Chúa Nhật, tôi mang theo chiếc máy ảnh định chụp mấy cánh hoa hồng làm kỷ niệm. Vừa vào khu vườn, tôi thấy một cô gái đang làm gì đó ở phía sau căn chòi. Tôi rón rén lại gần. Cô gái giật mình quay lại nhìn tôi trân trân. Để trấn an cô, tôi vội lên tiếng.
“Cô đừng sợ, tôi là người quen của bác Bảy”
Cô gái lấy lại bình tĩnh:
“Ông vào đây làm gì?”
“Tôi đến thăm bác Bảy”
Tôi vừa dứt lời thì bác Bảy cũng vừa bước tới.
“Chào cậu Thành”
“Dạ chào bác”
Bác Bảy chỉ tay về phía cô gái:
“Con nhỏ này là con gái đầu lòng của tôi. Thỉnh thoảng nó mới ra đây phụ tôi làm một vài công việc lặt vặt”
Tôi chưa kịp nói gì, thì bác Bảy tiếp.
“Quỳnh, con vào chòi pha bình trà cho ba và cậu Thành giải khát”
Cô gái dạ một tiếng rồi bước vội vào căn chòi. Tôi và bác Bảy cũng theo vào. Cô gái tên Quỳnh vừa đặt khay trà lên bàn vừa nói:
“Thưa ba, con về trước”
Cô gái nói xong bỏ đi ngay, chẳng thèm đếm xỉa gì đến tôi. Với cái vẻ khinh khỉnh, bất cần này, tôi cứ đinh ninh là cô ta không có một chút ấn tượng gì về tôi. Nhưng không biết vì lý do gì mà những ngày sau đó, cô gái kiêu kỳ rất mực này lại thường xuyên xuất hiện trong khu vườn hồng. Lúc đầu chúng tôi rất “ghét” nhau nhưng dần dà chúng tôi quen nhau, mến nhau rồi yêu nhau từ lúc nào không hay.
Thành phố Đà Lạt với những cảnh đẹp thiên nhiên, với những buổi chiều mây trời lãng đãng, với những đêm sương mù dưới ánh đèn lung linh mờ ảo, chúng tôi kề cận bên nhau trong những ngày tràn đầy hạnh phúc. Nhưng cuộc tình của chúng tôi bị đứt đoạn một cách tức tưởi vì tôi được lệnh động viên vào trường Thủ Đức.
Hôm tiễn tôi lên đường, Quỳnh khóc nức nở. Chúng tôi quyến luyến nhau không rời, nhưng không hề cho nhau một lời ước hẹn nào vì cả hai đều biết rõ cái giá phải trả cho chiến trường như thế nào khi mà người lính phải đối diện với cuộc chiến đã đến hồi khốc liệt.
***
Khi đặt chân xuống thành phố Đà Nẵng, việc đầu tiên của tôi là viết thư cho Quỳnh, và từ đó chúng tôi trao đổi thư từ thường xuyên cho nhau. Nhưng khoảng vài năm sau thì thư hồi âm của Quỳnh cho tôi thưa dần rồi dứt hẳn. Bức thư sau cùng gởi tôi, Quỳnh cho biết gia đình nàng sẽ dời lên sinh sống ở Ban Mê Thuột và từ đó tôi không còn liên lạc với Quỳnh được nữa.
Sau bốn năm phục vụ trong Quân Đội, tôi được trả về Bộ Giáo Dục. Trong thời gian nghỉ phép và chờ bổ nhiệm, tôi lên Ban Mê Thuột vừa để thăm Hoàng, một người bạn cùng khóa ở Thủ Đức vừa để dò tìm tin tức Quỳnh.
Những cơn gió lạnh thường bất chợt ập tới vào buổi chiều ở cái thành phố đèo heo hút gió này. Tôi đang thả bộ trên con đường Ma Ha Trang Long, định đến rạp Lodo xem phim cho đỡ buồn thì gặp Hoàng. Anh ta vừa đi vừa xoa xoa hai bàn tay vì lúc chiều ra đường quên mang theo áo ấm. Tôi rủ Hoàng cùng đi xem phim nhưng hắn lắc đầu lia lịa.
“Địt mẹ, muốn hiến máu cho rệp à? Địt mẹ cái thành phố gì mà muốn nóng là nóng, muốn lạnh là lạnh liền”
Với giọng Bắc Kỳ đặc sệt, hắn vừa chửi thề vừa lôi đại tôi vào một quán “BAR” cửa đóng im ỉm. Tôi giẫy nẩy:
“Ê, tao không tiền”
“Địt mẹ, đừng lo. Con chủ quán này là bồ của tao”
Tôi bị hắn lôi vào “cái chỗ” mà thực tình tôi không muốn vào chút nào. Bên trong cánh cửa có vẻ hiền lành an phận kia là một thế giới hoàn toàn khác hẳn. Chúng tôi đến ngồi ở chiếc bàn gần quày rượu. Vừa mới đặt đít xuống ghế, một cô gái trẻ đẹp, ăn mặc hở hang, mặt mày diêm dúa bước đến ngồi trên đùi Hoàng:
“Cục cưng cả tháng nay đi đâu mà bây giờ mới đến?”
“Bận hành quân”
“Hành quân gì. Muốn trốn em thì có”
Tôi nhìn kỹ cô gái rồi bất chợt ồ lên một tiếng. Cô gái bây giờ mới để ý đến tôi. Mặc dù nét mặt được che lấp dưới lớp phấn son dày cộm, nhưng tôi cũng nhận ra cái vẻ lúng túng ngượng ngùng của cô gái bán BAR mà đã một thời cùng tôi thề non hẹn biển: Quỳnh.
“Anh lên Ban Mê Thuột có chuyện gì vậy?”
Hoàng ngạc nhiên hỏi:
“Hai người quen nhau à?”
Bỏ mặc Hoàng, tôi nhìn đăm đăm vào mặt Quỳnh, cay đắng:
“Hân hạnh được biết bà chủ”
Quỳnh không nói gì thêm, đứng dậy bỏ vào trong. Nhìn những bóng đèn xanh đỏ nhấp nháy, những cô gái mời rượu lả lơi, những người đàn ông ăn nói tục tĩu, thô lỗ, những tiếng nhạc rè rè từ một giàn âm thanh loại “dỏm” phát ra, rồi nhớ lại những ngày cùng Quỳnh quấn quýt bên nhau ở Đà Lạt, tôi nghe lòng nhói đau như một mũi dao đâm vào lồng ngực. Một cô gái ăn mặc hở hang đến ngồi bên cạnh tôi:
“Anh à, em thương anh quá chừng, cưới em làm vợ đi”
Cô ta vừa nói vừa rót bia vào ly. Thấy tôi ngồi bất động như pho tượng, cô ta nói tiếp:
“Uống đi anh, uống chậm quá coi chừng bia nguội đó”
Rồi với một giọng nhừa nhựa vì uống nhiều rượu, cô ta hát nho nhỏ vào tai tôi “đường… thương đau… đầy ải nhân gian… Ai chưa qua… chưa phải là người…”
Tôi cảm thấy choáng váng và nói khẽ vào tai Hoàng:
“Về”
Hoàng chưng hửng, ngơ ngác nhìn tôi.
“Địt mẹ, về thì về. Con vợ tao, nó trốn đâu mất rồi”
***
“Anh Thành, làm gì mà ngồi thừ người ra vậy?”
“Ờ, không tôi…”
Tôi nói chưa hết câu thì điện thoại trên bàn bật reo. Lan nhắc lên nghe. Tôi không biết ở đầu dây bên kia là ai, chỉ nghe Lan dạ… dạ… liền miệng rồi đưa điện thoại cho tôi. Từ đầu dây bên kia, một giọng nói lạnh lùng xa lạ chảy vào tai tôi như một cấp chỉ huy truyền đi một mệnh lệnh.
“Vâng… vâng… vâng…. tôi sẽ đến”
Ngồi ở quán Thiên Kim chừng mười phút thì Quỳnh bước vào:
“Anh chờ lâu không?”
“Không, cũng vừa mới đến”
Quỳnh gọi mấy món ăn và hai chai heineken. Uống vài ngụm bia và liếm láp qua loa vài miếng nem nướng, Quỳnh bắt đầu câu chuyện:
“Chắc anh hận em và muốn biết tại sao em chấm dứt liên lạc với anh vào những năm đó phải không?”
Tôi ngồi im lặng. Đầu cúi thấp. Hai tay mân mê chiếc ly bia đầy bọt. Quỳnh chờ vài giây rồi nói tiếp:
“Thôi được. Em sẽ kể cho anh nghe vì sao em không muốn tiếp tục cuộc tình của chúng ta. Năm đó, sau khi anh ra Đà Nẵng được vài tháng thì má em ngã bệnh. Ba em bán hết tài sản để chạy chữa thuốc thang, nhưng cuối cùng má em cũng qua đời. Ba em thấy ở Đà Lạt không còn gì lưu luyến nữa, nên dồn hết số tiền còn lại lên Ban Mê Thuột mua một miếng đất cất nhà và trồng cà phê. Mặc dù đã rời xa nơi xẩy ra chuyện đau lòng nhưng Ba em không làm cách nào nguôi ngoai được, nên cuối cùng rồi cũng sanh bệnh. Căn bệnh của Ba em mỗi ngày một trầm trọng, em phải bán miếng đất và căn nhà để lấy tiền lo việc thuốc thang. Lúc ấy em đưa Ba và mấy đứa em vào thị xã mướn một căn nhà nhỏ trú tạm. Sau đó không lâu Ba em cũng qua đời. Tiền bạc trong nhà không còn bao nhiêu mà em phải vừa lo trả tiền nhà vừa lo cho mấy đứa em đi học, rồi việc ăn uống tiêu xài lặt vặt…”
Nói đến đây, Quỳnh không ngăn được nỗi cảm xúc đang dâng tràn. Những giọt nước mắt bị dồn nén từ lâu bây giờ mới được dịp tuôn ra, lăn dài trên hai gò má. Quỳnh khóc tức tưởi như một đứa trẻ. Cũng may, quán ăn lúc này không có khách. Cô chủ quán ngồi ở quày tính tiền nhìn sững chúng tôi.
“Quỳnh, đừng khóc nữa. Nỗi khổ tâm của em anh đã hiểu”
“Và đó chính là lý do mà em không muốn liên lạc với anh nữa, nhất là khi em đã quyết định làm cái nghề mà hồi còn ở Ban Mê Thuột anh đã từng chứng kiến. Em đã trở thành một cô gái bán BAR”.
Nói đến đây Quỳnh lại ôm mặt khóc:
“Còn một điều nữa có lẽ anh cũng muốn biết tại sao em được đi Mỹ và trở thành một người giàu có trên cái xứ sở tạm dung này. Như anh đã biết, hồi năm 1969 em là một người chủ BAR, quán của em đủ loại khách ra vào, trong số đó có một người lính Mỹ. Không biết sao người lính Mỹ này lại thích em và hứa với em nếu chịu lấy ổng, ổng sẽ đưa cả gia đình em sang Mỹ. Ông ta còn cho biết thời gian phục vụ ở chiến trường Việt Nam cũng sắp mãn hạn. Hoàn cảnh gia đình em lúc bấy giờ vô cùng bi đát nên em quyết định đánh liều một phen, không ngờ người lính Mỹ này rất mực yêu em và thực hiện đúng lời hứa. Khi đến Mỹ em mới biết được chồng em là con của một gia đình giàu có, thuộc vào hàng triệu phú ở New York”.
Ngừng một chút, rồi cũng với cái giọng đều đều như trước, Quỳnh kể tiếp:
“Vào năm 1981, cha chồng em qua đời để lại cho anh ấy một gia tài hàng triệu mỹ kim. Tụi em sống với nhau thật hạnh phúc. Nhưng rồi một biến cố bất ngờ xẩy ra, chồng em cũng qua đời một cách tức tưởi trong một tai nạn xe hơi khi anh ấy đang hình thành cho mình một kế hoạch làm ăn vô cùng thuận lợi. Từ đó em quyết tâm sống một cuộc đời khép kín cho đến bây giờ. Anh Thành, câu chuyện em kể cho anh nghe hôm nay không có một dụng ý gì khác ngoài việc muốn tháo gỡ một phần cái gút mắc mà anh đã ấp ủ trong lòng từ bấy lâu nay. Chắc anh đã hiểu ý em rồi chứ gì. Thôi chúng ta về”
Quỳnh nói xong đứng dậy ngay, không cần biết tôi có phản ứng gì hay không. Dĩ nhiên là tôi hiểu rất rõ những gì mà Quỳnh muốn nhắc nhở tôi bằng những câu nói khéo léo trước khi ra về. Tôi thầm trách Quỳnh đã đánh giá tôi quá thấp. Thực ra nàng không cần phải lo xa, hấp tấp chặn đầu chặn đuôi như vây vì ngay từ lúc biết được nàng là chủ nhân khách sạn, tôi đã có một quyết định dứt khoát là sẽ không tiếp tục làm việc ở đây nữa. Với một nụ cười chua chát còn đọng trên môi, tôi thong thả bước lên xe, mở máy, chiếc xe cũ kỹ của tôi từ từ tiến về phía trước…
Nguyễn Đức Nhơn
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Vợ Chồng Ông Hộ
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
“Ông ơi …ơi…”
Tiếng ơi của bà kéo dài sườn sượt, nhão nhoẹt, lòng thòng như một thứ âm thanh kỳ quái nào đó từ xa vọng lại rồi tan biến trong cái không gian tịch mịch oi bức của một buổi trưa hè ở miền quê. Ông đứng cách đó không xa. Đang cặm cụi tỉa mấy nhánh khô và những chiếc lá úa vàng trên cây mai. Ông nghe rất rõ tiếng bà gọi, nhưng làm ra vẻ dửng dưng, không trả lời cũng không thèm quay lại.
“Ông à…”
Lần này thì tiếng gọi của bà có vẻ ngắn gọn hơn, nhưng nó vẫn còn nhừa nhựa, nghèn nghẹn như tiếng của một con tắc kè đang kêu đâu đó. Bà vẫn tiếp tục ngoáy trầu, nhưng đôi mắt của bà nhương nhướng, nhìn qua nhìn lại như cố chọc thủng cái màn trăng trắng, đùng đục đang chắn ngang trước mặt. Ông dừng tay quay lại nhìn bà, nheo nheo đôi mắt, nét mặt hiện lên một niềm vui vô hạn.
“Ông ơi, ông đâu rồi hè?”
Bà dừng ngoáy trầu. Đưa tay lên che đôi mắt. Thực ra đây cũng chỉ là cái thói quen của bà. Đôi mắt của bà đã bị mờ từ lâu. Không hề bị ánh sáng ảnh hưởng. Bà hơi chồm người về phía trước, lo lắng, bồn chồn:
“Ông ơi!”
“Cái gì đó bà?”
“Ủa, ông ở đó mà sao tôi gọi “quài” không chịu lên tiếng?”
“Chớ bà gọi làm cái gì dzậy?”
“Thì thấy dzắng ông nên gọi chừng dzậy mà”
Cái hoạt cảnh của vợ chồng ông Hộ hầu như diễn ra hàng ngày như một điệp khúc, nhưng chưa bao giờ ông thấy nhàm chán, trái lại còn coi đó là một cái gì rất trân quý, không thể thiếu vắng trong suốt cuộc đời còn lại của ông. Bà Hộ thì lúc nào cũng muốn ông kề cận bên bà, quấn quýt như một cặp vợ chồng mới cưới. Hễ thấy vắng ông một chút là bà gọi ngay. Ông Hộ thì cứ đợi cho bà gọi năm lần bảy lượt mới chịu lên tiếng. Những khi như vậy ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng.
Vợ chồng ông Hộ sống trong một ngôi nhà tranh nhỏ, được dựng trên một miếng đất cũng nhỏ chỉ chừng năm trăm mét vuông. Nghe nói vợ chồng ông lưu lạc đến sinh sống ở cái làng nhỏ bé này từ hồi ông còn rất trẻ. Ông không có con cái và cũng chẳng thấy có họ hàng thân thuộc gì. Mảnh đất mà ông đang ở là do ba tôi cho và ông đã trở thành người làm cho gia đình tôi từ đó. Nghe nói vợ chồng ông Hộ rất hiền lành và siêng năng. Nên không bao lâu, ba tôi giao hết mọi việc trong nhà cho ông trông coi và xem ông như một thành viên trong gia đình. Ngoài việc đong lúa hàng năm cho ông, ba tôi còn cho ông một miếng đất hoang nằm cạnh bên một dòng suối. Miếng đất rộng chừng năm sào, có nhiều gò mối và những lùm bụi nhỏ. Trong những lúc rỗi rảnh, vợ chồng ông ra sức khai phá và biến nó thành một miếng ruộng khá màu mỡ, và chính miếng ruộng này đã nuôi sống vợ chồng ông trong lúc tuổi già.
Nghe đâu, hồi năm mươi năm lăm gì đó, ông không còn làm trai hành canh cho gia đình tôi nữa. Ông dành hết thì giờ vào việc chăm bón miếng ruộng riêng của mình. Ngoài ra, ông còn làm thêm một nghề tay trái: thiến heo. Nhờ vậy mà cuộc sống của hai ông bà tương đối khá nhàn nhã. Không lo lắng gì nhiều. Vả lại chỉ có hai vợ chồng. Có người lắm mồm lắm miệng nói là vợ chồng ông Hộ coi vậy mà giàu lắm, tiền ông đút trong ống tre chôn đầy dưới gầm giường. Việc đó đúng sai thì không ai biết, nhưng chắc chắn một điều là vợ chồng ông Hộ đã dành dụm được một số tiền khá lớn, đủ để lo việc hậu sự cho hai ông bà sau này.
Nghe nói một hôm, hai ông bà đến nhà thăm ba má tôi. Sau một vài câu chuyện vặt vãnh không đâu vào đâu, ông Hộ sửa lại thế ngồi, nét mặt nghiêm nghị, pha lẫn một chút lo lắng bồn chồn:
“Cậu Mười à, có cái dziệc này, nói ra dzới cậu mợ thật là không phải, nhưng dzợ chồng tôi suy đi tính lại chỉ còn cách đến đây xin cậu mợ niệm tình giúp đỡ”
“Chớ cái gì mà quan trọng dữ dzậy chú?”
“Cậu Mười à, cậu mợ cũng biết dzợ chồng tôi không có con cái mà cũng chẳng có họ hàng thân thuộc gì. Sau khi qua đời đâu có ai trông coi mồ mả. Ngày này qua tháng khác, con trâu con bò cứ ủi tới ủi lui, thì dzợ chồng tôi lấy chỗ đâu mà che mưa che nắng. Bởi dzậy, dzợ chồng tôi mới đến đây xin cậu mợ dzui lòng cho tôi xây một cái mộ đá trên miếng ruộng mà cậu mợ đã cho, không biết cậu mợ nghĩ thế nào?”
“Ối! Tưởng cái gì quan trọng. Miếng ruộng đó là của chú, chú muốn làm gì thì làm, hà tất phải đến đây hỏi tôi cho lắm chuyện”
“Không phải dzậy đâu cậu Mười à! Mặc dầu miếng ruộng đó cậu mợ đã cho dzợ chồng tôi khai khẩn làm ăn mấy chục năm trời. Nhưng trong lòng dzợ chồng tôi đâu có coi đó là miếng ruộng riêng của mình. Nếu không được cậu mợ ừ cho một tiếng thì dzợ chồng tôi đâu dám làm càn”
“Thôi được, chú nói dzậy thì tôi nghe dzậy, chú cứ dziệc làm đi. Nhưng chú định chừng nào thì khởi công?”
Vợ chồng ông Hộ mừng húm, cám ơn rối rít, nói là tháng sau sẽ bắt đầu, rồi cáo từ ba má tôi ra về.
Ngôi mộ hoàn thành sau đó không lâu. Đây là một ngôi mộ lớn nhất và đẹp nhất trong làng. Ngoài hai nắm mộ nhỏ, xây bằng gạch, nằm kế cận nhau, ngôi mộ còn được bao bọc chung quanh bởi một bức tường cao hai mét, xây bằng đá chẻ, rộng chừng vài trăm mét vuông, phía sau có cổng ra vào. Mặt tiền ngôi mộ, xây một vòng cung, cao chừng một mét rưỡi. Chính giữa khắc một chữ thọ lớn, nạm bằng những loại đá hoa đủ màu sắc. Khoảng giữa bức tường và hai nắm mộ nhỏ được lát bằng gạch bông. Vợ chồng ông Hộ trân quý ngôi mộ còn hơn ngôi nhà của mình gấp trăm ngàn lần. Có thể nói ngôi mộ mới thật sự là cái nhà của vợ chồng ông.
Khi bọn nhỏ chúng tôi lớn lên thì vợ chồng ông Hộ cũng đã đến cái tuổi gần đất xa trời. Vợ chồng ông vẫn sống trong cái nhà tranh lụp xụp như hồi ông mới đến. Không hề thay đổi. Nhưng tính tình của hai ông bà thì thay đổi khá nhiều. Ba tôi nói như vậy. Ông ít khi lui tới với mọi người. Thỉnh thoảng ông có ghé thăm ba tôi. Uống một vài ngụm trà. Trao đổi một vài câu chuyện lặt vặt về đồng áng rồi ra về. Riêng bà Hộ thì tuyệt nhiên không hề rời khỏi nhà nửa bước. Ngôi mộ của ông bà qua bao năm tháng giãi nắng dầm mưa cũng biến thành một ngôi mộ cổ. Bên trong lẫn bên ngoài bức tường cây cỏ phủ đầy, bởi lẽ vợ chồng ông đã già không còn chăm sóc được nữa. Bọn nhỏ chúng tôi mỗi lần đi ngang ngôi mộ tự nhiên thấy lành lạnh ở sống lưng, rồi cùng nhau ùn té chạy. Có đứa còn la hoảng: “vợ chồng ông Hộ rượt theo đó tụi bay ơi” mặc dù hai ông bà vẫn còn sống sờ sờ ra đó.
Ngôi nhà ông Hộ nằm chắn ngang con đường mòn nối liền hai khu xóm mà người trong làng gọi là Xóm Trong và Xóm Ngoài. Chính cái điều này đã làm cho các cô gái trong làng phiền hà không ít. Khi đó vợ chồng ông Hộ vẫn còn khỏe mạnh. Đôi mắt của bà Hộ cũng chưa bị mờ. Các cô gái thì đang ở cái tuổi choai choai, khi ra đường thì vừa đi vừa uốn éo như một cô đào hát. Bà Hộ thì lúc nào cũng ngồi ở bộ ván kê trước hiên nhà. Hễ thấy cô nào đi ngang qua mà hơi “rượn” một chút là bà chửi túi bụi. Ngôi nhà ông Hộ vô hình trung biến thành một cái trạm canh mà bà Hộ là một viên cảnh sát luôn luôn tận tụy với nhiệm vụ, đôi khi cũng có hơi quá đáng. Các cô gái trong làng, hết lớp này đi lấy chồng thì lớp khác lớn lên, lại phải đi trên con đường này. Hình như rút được kinh nghiệm từ các bậc đàn chị, các cô bao giờ cũng chuẩn bị tư thế đàng hoàn trước khi “vượt trạm”. Thật tội nghiệp cho các cô, không biết phải đi đứng thế nào cho bà Hộ coi được đây!? Nhưng tựu trung cũng chỉ là cái dáng đi phải thật thong thả, chậm rãi từng bước, mắt ngó về phía trước, đôi tay không được quơ tới quơ lui, thân hình phải giữ thăng bằng, không được ẹo qua ẹo lại. Chao ơi! Chỉ có chừng đó thôi mà các cô cảm thấy khó chịu vô cùng, chỉ mong sao thoát được cái trạm là tha hồ mà “cà trững”, đất trời như được mở ra.
Cuộc sống yên vui trong thời bình kéo dài không được bao lâu thì chiến tranh lại bộc phát. Người trong làng, một số bỏ chạy về thành. Một số khác trốn lên rừng. Còn tuyệt đại đa số thì bị dồn vào trong ấp chiến lược, nằm trên tỉnh lộ 8, cách làng tôi chừng ba cây số. Riêng vợ chồng ông Hộ thì vẫn ở lại chỗ cũ, nhất quyết không chịu dời đi. Chính quyền địa phương cũng không làm khó dễ gì, bởi lẽ hai ông bà đã quá già, việc di dời cũng có nhiều khó khăn. Vợ chồng ông Hộ vẫn sống trong ngôi nhà tranh lụp xụp, dột nát đó như hai bóng ma, chìm lỉm trong cái không gian tịch mịch, hoang vắng của một ngôi làng đã bị chiến tranh tàn phá.
Đầu năm 1969, vào những ngày giáp Tết, tình hình chiến sự mỗi ngày một gia tăng. Du kích thường đột nhập vào các ấp chiến lược đóng thuế, thu mua lương thực. Đắp mô, chôn mìn trên tỉnh lộ. Ban ngày, họ ẩn núp vào các khu chồi rậm rạp, bắn tỉa vào các toán quân mở đường. Vì vậy bà con trong ấp ít khi về làng. Một hôm, thím Bảy lẻn về làng để làm một việc gì đó, ghé vào nhà thăm vợ chồng ông Hộ. Khi bước vào sân, thím Bảy thấy ông Hộ ngồi ở bộ ván kê trước hiên nhà, lưng tựa vào vách, hai tay buông thỏng, khuôn mặt đờ đẫn, không còn một chút sinh khí, thân hình chỉ còn da bọc lấy xương. Bộ quần áo ông măc, những miếng vá chằn chịt, lớn nhỏ, đủ màu sắc, phủ lên gần hết nền vải cũ, trông ông giống như một con tắc kè khổng lồ. Khi thấy thím Bảy bước vào, hai giọt nước mắt của ông từ từ lăn xuống hai gò má nhăn nheo, mà tuyệt nhiên không thấy một dấu hiệu nào chứng tỏ là ông đang khóc:
“Bà mầy đi rồi”
Thím Bảy bước vào bên trong. Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc. Thì ra bà Hộ đã chết từ ba hôm trước, nhưng ông Hộ không làm cách nào báo cho bà con trong ấp được, bởi lẽ ông đã quá yếu, chỉ còn đủ sức lê từng bước quanh quẩn trong nhà. Trên đầu nằm bà Hộ chỉ có vỏn vẹn một chiếc đèn hột vịt, vặn thấp ngọn, ánh sáng lờ mờ từ ngọn đèn chiếu ra trong căn phòng tối om, tựa hồ như một nơi âm tào địa phủ nào đó. Thím Bảy nổi tiếng là người dạn gan cũng phải thối lùi từng bước, nghe hơi lạnh chạy tràn xuống sóng lưng.
Hơn một năm sau, ông Hộ vẫn sống thui thủi một mình trong ngôi nhà vốn đã bị dột nát từ lâu. Ngoài chỗ ông nằm, những nơi khác đều bị ẩm ướt. Cuộc chiến mỗi ngày một thêm ác liệt. Bà con trong ấp ít ai dám về làng ngoại trừ có những công việc thật sự cần thiết. Vì vậy, mọi người phải họp nhau mua sắm một số lương thực, thực phẩm dự trử cho ông Hộ. Tuy ông đã yếu, nhưng cũng phải tự lo lấy miếng ăn thức uống cho mình, cũng may là ông không bị đau ốm gì.
Mùa hè năm 1970. Một trận đánh lớn xảy ra ngay trên ngôi làng cũ của tôi. Trận đánh bắt đầu từ lúc nửa đêm cho đến gần giữa trưa hôm sau, phía bên kia mới chịu rút đi. Nhiều phi vụ khu trục được gọi đến yểm trợ cho trận đánh. Hầu như không một địa điểm tình nghi nào mà không bị dội bom. Tỉnh lộ 8 phải mất hai ngày mới khai thông được. Cư dân trong các ấp chiến lược nằm dọc theo tỉnh lộ, ai cũng nơm nớp lo sợ. Một số bỏ chạy về thành, nhưng tuyệt đại đa số vẫn phải bám vào ruộng đất làm ăn, mặc cho bom đạn đe dọa mạng sống từng ngày.
Ba ngày sau trận đánh, bà con trong ấp nhờ ông Năm Dinh về làng xem tình hình ông Hộ ra sao? Khi vào đến làng, ông Năm Dinh chưng hửng. Ngôi nhà ông Hộ không còn thấy đâu nữa. Thay vào đó, một đóng đất cao nghều nghệu nằm choán gần hết miếng đất của ông. Ông Năm Dinh đến gần xem có vết tích gì của ông Hộ còn sót lại hay không? Nhưng tất cả đều bị chôn vùi trong đóng đất khổng lồ do một quả bom xuyên phá hàng trăm cân tạo thành. Mùi hôi thối từ trong đóng đất bốc ra nồng nặc, khiến ông Năm Dinh phải giật lùi bỏ đi.
Cái chết thảm của ông Hộ khiến mọi người trong làng vô cùng thương cảm. Vậy mà cũng có một vài người ác mồm, ác miệng bảo tại ông Hộ lúc sinh tiền làm nghề thiến heo, cái nghề không có đức, nên mới chịu cái quả báo làm vậy. Có người lại bảo chắc vợ chồng ông Hộ hồi còn nhỏ làm nhiều điều thất đức, bị cha mẹ ông bà đuổi đi, nên bây giờ mới ra nông nỗi. Nhưng ai nói gì thì nói, hầu hết bà con trong làng, ai ai cũng thương tiếc ông Hộ, bảo là trong thời buổi chiến tranh thì việc gì mà chẳng xảy ra, chuyện bom đạn banh thay xé thịt con người cũng là chuyện thường, đâu có gì là lạ!
Sau năm 1975, cái hố bom đã biến thành cái ao nước. Một con ểnh ương không biết từ đâu lạc đến đó, đêm đêm gọi tình nghe buồn não nuột. Có người giàu tưởng tượng, bảo là hồn ông Hộ đã nhập vào con ểnh ương, nhớ thương bà Hộ, nên những đêm mưa gió sấm sét đầy trời thì ông hiện hồn về gọi bà.
Không biết linh hồn của hai ông bà còn gặp được nhau ở một nơi nào đó hay không, nhưng chắc chắn một điều là thân xác của ông không bao giờ được nằm bên cạnh bà trong cái mộ mà suốt cả đời hai ông bà dành dụm tạo nên.
Nguyễn Đức Nhơn
[/read]
THƠ
Nguyễn Đức Nhơn
Điền Gia Lạc
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
“bạch đầu nhân túy
bạch đầu phò, điền gia lạc”*
cái thú điền viên
hai thằng đầu bạc
bê rượu ra sân
chén tạc, chén thù
ngửa mặt lên trời
cười đến ngất ngư
coi thế sự như trò chơi con trẻ
cạn chén đi anh
bọn mình say một bữa
để thấy đời còn đẹp biết bao !
mái tóc hai thằng
bạc trắng như nhau
như những đám mây chiều trôi lãng đãng
đàn vịt rỉa lông trên bờ ao cạn
đàn gà con bươi rác sau hè
chạy quanh sân
đàn trẻ nô đùa
giàn bầu, mướp
cũng đơm hoa, nở nhụy
cạn đi anh
bọn mình say túy lúy
để nghe đất trời
thở nhịp thiên nhiên
hãy quên đi
những chuyện não phiền
mà uống cạn chén đời trong mộng tưởng
tôi đâu phải là kẻ hằng tâm, hằng sản
mà chỉ là thằng khố rách, áo ôm
mượn chiếc cần
ngồi câu áo, câu cơm
đâu có ôm mộng lớn
chờ thời như Lã Vọng
đâu có chí lớn làm con cá kình
vượt trùng dương
cỡi sóng…
tôi chỉ là thằng con nít sống lâu năm
còn anh ?
thì cũng là thằng lạc chợ, trôi sông
giả hiền sĩ gạt đời kiếm bữa
dựng lều chõng
hai thằng nương tựa
bê rượu ra sân
hai đứa khề khà…
“bạch đầu nhân túy
bạch đầu phò, điền gia lạc”
cạn chén đi anh
bọn mình
chén thù
chén tạc
đời vui như mở hội đầu xuân
chếnh choáng men say
rượu ngọt lạ lùng
chiều xuống thấp
đẹp vô cùng anh nhỉ ?
gặp bạn hiền
rượu ngàn ly chưa phỉ
ngất ngưởng bên nhau
nói chuyện bao đồng…
khi trở về
có lội suối, qua sông
nhớ chống gậy mà dò sâu, cạn !
“bạch đầu nhân túy
bạch đầu phò, điền gia lạc !”
* Cổ thi.
(Nhớ buổi nhậu với
Trần Yên Thảo ở Bình An)
Nguyễn Đức Nhơn
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Khách Lạ
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
khách về đây trời đất thênh thang
gió mùa bấc tháng giêng lồng lộng thổi
hàng dương liễu đón chào khách mới
khách đường xa rũ áo phong trần
khách về đây sông nước ngại ngùng
con thuyền nhỏ chở đầy sóng gió
trở về neo trên bờ bến lạ
thuyền bập bềnh giữa bến chiều hoang
trên bờ kia ai mất ai còn?
con phố cũng vắng người qua lại
khách bỗng thấy cõi lòng tê dại
đường trăm năm lề đá xanh rêu
khói vàng ươm nắng ngả màu chiều
con gió bấc cũng ngập ngừng lịm tắt
bóng chiều đỗ trên bờ vai áo bạc
khách mân mê râu tóc, ngại ngùng…
kìa nhà ai cửa khép lạnh lùng?!
khách ngờ ngợ bước lần qua lối nhỏ
con chó già ngủ vùi trước ngõ
đàn gà con quấn quýt sau lưng!
khách băn khoăn chân bước ngập ngừng
từng nhịp thở gõ đều trên nỗi nhớ
kìa ai lạ? khách sửng sờ hỏi nhỏ
ai ngồi kia cúi mặt im lìm?
khách bàng hoàng, nghe máu ứa về tim
hàng dương liễu cũng gục đầu thổn thức
khách lặng lẽ quay về sông nước
bến chiều xa khói cũng mơ hồ!
ghềnh đá ôm nhau ngọn sóng xô đùa
con nhạn trắng bay đi lặng lẽ
mùi hương lạ bỗng dưng lại nhớ
bến bờ xưa đâu còn chút dư âm!
khách trở về nơi bến đỗ trăm năm
chống sào đợi tuổi già qua mái tóc
đêm lạnh ngắt bến sông vàng trăng mọc
thuyền lênh đênh trên nỗi nhớ bập bềnh.
bến sông vắng lòng người cũng vắng
sương giăng mờ bến cũ bóng đò xưa
trăng đêm nay trăng mờ đêm nguyệt tận
gió đông về lạnh lẽo ngọn đèn khuya.
Nguyễn Đức Nhơn
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Tráng Sĩ
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Cát bụi biên cương mòn vó ngựa
Tóc râu một bóng nhuốm tà huy
Tráng sĩ chỉ trời vung kiếm báu
Hùng tâm tráng khí mờ chân mây
Biên cương hề ! Đêm sâu hun hút
Sa trường gió lộng thổi cuồng sa
Tráng sĩ giật mình khua kiếm trận
Nghe trong gươm giáo khúc tình ca
Trời Nam một dải mù sương khói
Chiến trường mong da ngựa bọc thây
Tráng sĩ trời Nam hề ! Tráng sĩ
Hồn thiêng sông núi vẫn còn đây
Tráng sĩ mơ về con phố nhỏ
Có người thiếu phụ bồng con thơ
Tựa cửa chờ chồng nơi chiến địa
Tháng ngày qua như chiếc thoi đưa
Cát bụi sa trường mù mịt bay
Vang vọng đất trời vó ngựa phi
Tráng sĩ Trời Nam hề ! Tráng sĩ
Ngàn năm sông núi vẫn còn đây.
Nguyễn Đức Nhơn
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Bến Đợi
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Sông nước chiều thu gợn sóng buồn
Mây trời bảng lảng, bóng chiều buông
Thuyền em đỗ bến phương nào nhỉ?
Có nhớ quay về thăm cố hương?
Lầu nước buồn hiu đứng đợi em
Bến xưa chiều xuống phố lên đèn
Thuyền đi bỏ lại dòng sông vắng
Bỏ lại bao mùa trăng ấm êm
Chiều xuống Mường giang nước lững lờ
Mấy mùa sương khói dệt thành thơ
Màu hoa phượng thắm đâu rồi nhỉ?
Chỉ thấy hoa tàn rơi xác xơ
Thuyền đi, đi mãi không về bến
Cốc rượu giang hồ cũng ngấm say
Có biết bao mùa hoa phượng nở?
Và biết bao mùa hoa trắng bay?
Tượng đá đìu hiu đứng đợi ai
Bến xưa ngày ngắn nhớ đêm dài
Người đi – Đi mãi – Người đi biệt
Có biết trên đầu tóc lén phai?
Nguyễn Đức Nhơn
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Biển, Em Và Tôi
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Biển quê tôi muôn đời ôm bóng nắng
Cồn cát nằm phơi ngực trắng quanh năm
Cũng có lúc biển vô tình dậy sóng
Mây bốn mùa theo gió núi về thăm
Em xa vắng có nhớ mùa hạ biển
Thành phố buồn vẫn đợi bước chân em
Biển Cali mỗi lần nghe sóng vỗ
Có làm em nhức nhối buồng tim?
Nhớ những lúc xôn xao mùa biển động
Lũ học trò vắng bóng những chiều hôm
Tôi và em vẫn thì thầm trong gió
Đợi đêm về nghe sóng vỗ triền miên
Em yêu dấu có bao giờ em khóc
Khi cuộc đời là hai ngả chia ly
Tôi và em xa nửa vòng trái đất
Biển mủi lòng thương kẻ ở người đi
Thôi em nhé vốn là loài chim biển
Chim vô tình cánh bạc vỗ bờ xa
Biển và tôi đã mấy lần bật khóc
Biển muôn đời vẫn dạo khúc tình ca…
Nguyễn Đức Nhơn
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Nhớ Y Uyên
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
rừng chồi im phăng phắc
ta một bóng xiêu xiêu
vai trần chân bám đất
nặng một gánh đìu hiu
kẽo kịt trên đường mòn
ngõ về xa hun hút
bóng của buổi chiều tà
đuổi theo ta bén gót
ngang qua đồi Nora
ngậm ngùi bao ký ức
một sáng nào năm xưa
anh giã từ chiến cuộc
một dặm đường anh qua
bỏ sau lưng một kiếp
chiều nay ngồi trên đồi
ta nghe buồn da diết
tựa lưng gốc cây già
ngủ vùi trong mộng mị
chợt bóng anh hiện về
cùng ta ngồi uống rượu
ta cựa mình ngơ ngác
nhìn quang gánh hững hờ
con dốc dài trở giấc
thở khói chiều lưa thưa
ta lặng lẽ lên đường
mấy mùa phơi râu tóc
nhuộm trắng cả mái đầu
trong nỗi buồn se sắt
ta ngó về phương xa
từ một nơi vô định
con chim trời bay qua
ta rùng mình ớn lạnh.
Nguyễn Đức Nhơn
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Một Thoáng Mong Manh
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Lòng tróng vắng như một chiều tắt gió
Nghe trong lòng một thoáng nhớ mông manh
Mình xa nhau bao lâu rồi em nhỉ ?
Đôi mắt buồn còn gợn sóng long lanh ?
Đêm không ngủ nằm vắt tay lên trán
Nghĩ vu vơ đủ thứ trên đời
Nghĩ về em bao năm trời xa cách
Có còn vui như cái thuở ban đầu ?
Giọt nước mắt ngày xưa còn sót lại
Cũng rơi theo số phận con người
Trên trái đất còn bao nhiêu nước mắt ?
Để rót vào lòng trong khoảnh khắc suy tư
Tôi với em còn nhiều điều chưa nói
Nhưng nói làm gì khi gió chuyển mùa thương
Ta và em chỉ là hai cơn gió
Thổi ngược chiều nên xé nát buồng tim…
Nguyễn Đức Nhơn
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Bóng Thời Gian
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Hưng phế ngàn năm giấu mặt
Cổ kim luận tội anh hùng
Trái đất ngàn năm què quặt
Sao khuya rớt giữa muôn trùng
Hình nộm mặc áo long bào
Xua tay đuổi bầy ngạ quỷ
Mặt nạ ngàn năm giấu kỹ
Bùa mê rải khắp tinh cầu
Mặt đất khép kín hà đồ
Lạc hồn bùa mê thuốc lú
Ngậm ngải đi tìm quá khứ
Rừng xanh áo vải khăn sô
Tượng đá cúi mặt ngủ vùi
Hình như một lần mở mắt
Cát sỏi bầm gan tím mật
Giật mình khép vội con ngươi
Trống đồng phù điêu bỏ phế
Hưng vong tuổi đất dạy thì
Nhật nguyệt ô đề bạch thố
Lần tay tính tuổi sao Vi
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Đường Vắng
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Ta ngồi trên lưng ngựa
Mang kiếm sét giầy cùn
Gõ nhịp trên đường vắng
Bóng chiều bay mông lung
Lũ quạ xòe cánh mỏng
Lượn quanh bờ chiến hào
Quạ kêu vang rừng núi
Còn tanh mùi binh đao
Rừng giáp rừng hiu quạnh
Ta hát bài sơn ca
Núi rừng vang tiếng vọng
Chim giật mình bay xa
Cũng bày trò chiến quốc
Cũng hợp tung liên hoành
Bủa vây trùm trời đất
Trò chơi còn mới toanh
Con ngựa già đuối sức
Ta thấy lòng quặn đau
Con ngựa già ngã gục
Ta nát cả tâm bào
Ta lột giầy vứt kiếm
Ném mũ cởi chiến bào
Một mình trên đường vắng
Ta và ta dìu nhau
Ta cười vang cười ngất
Bầu rượu cạn từ lâu
Bỗng dưng ta muốn khóc
Khóc đến tận ngàn sau
Nguyễn Đức Nhơn
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Ông Lão
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Lọm khọm bước lần theo lối nhỏ
Ra ngồi trước cửa nớt sinh hôm
Ông lão nhớ một thời trai trẻ
Mộng đời ươm kín bờ môi thơm
Có những đêm chợp chờn trong mộng
Ông lão mơ về một chốn xa
Nơi những chiều ngồi bên quán cóc
Giữa phố phường đông đúc người qua
Ông lão nhớ Sài Gòn mưa rào
Nhớ cô gái xẩm che dù màu
Nhớ hàng cây che nghiêng bóng nắng
Nhớ nụ hôn đầu lặng lẽ cho nhau
Ông lão buồn sờ râu sờ tóc
Mân mê vạt áo chùng xanh lơ
Một chút lệ buồn trên khóe mắt
Âm thầm lăn xuống bờ môi khô
Ông lão biết đời là bể khổ
Nên thấy buồn mà chẳng chút bâng khuâng
Ông nhớ quá Sài Gòn một thuở
Đôi mắt buồn rướm lệ ngó phương Đông…
Nguyễn Đức Nhơn
[/read]
Nguyễn Đức Nhơn
Nỗi Buồn Thiên Thu
[read more=”Click here to Read More” less=”Read Less”]
Em ngồi, tôi đứng nhìn nhau
Buồn vui lẫn lộn lần tao ngộ này
Em ngồi, tôi đứng nhìn mây
Tóc em xõa, tóc tôi bay ngược trời
Gió mùa khói lộng mù khơi
Nhấp nhô bờ mộng chiều rơi giọt buồn
Bên bờ liễu phủ mờ sương
Bóng em khuất, bóng tà dương nhạt màu
Ngồi nhìn con nước trôi mau
Trái tim rỉ máu còn đau trong mình
Mấy mùa sương khói qua nhanh
Cuộc từ ly ắt sẽ thành thiên thu!
Tóc mây đen, trắng hai màu
Tôi ôm mộng thuở ban đầu mà vui
Chiều nay tháng Chín mùa vơi
Se se ngọn bấc à ơi giọng hò…
Dòng sông, bến nước, con đò
Tiếng ai còn vọng bên bờ liễu buông
Ráng trời nhuộm đỏ chiều hôm
Trắng hoa bờ giậu cánh chuồn chuồn bay
Mịt mùng bóng nhạn chân mây
Nghìn thu ắt nỗi buồn này khôn nguôi!
Nguyễn Đức Nhơn
[/read]