Văn Xuôi
Phạm Ngũ Yên
Về Một Cuộc Đời
* Tặng Tím xưa…
Tôi từng có một lần ra đi để không bao giờ trở về Bảo Lộc. Những góc phố ướt mưa vẫn nằm im không cựa mình trong ký ức. Tháng giêng rét mướt khóm dã quỳ hai bên đường. Tôi đi qua chiếc quán cà phê của tôi và nàng đã từng có thời ngồi với nhau. Chiếc quán khuya có màu đèn thoi thóp trên những mặt bàn hai chỗ ngồi. Bó cúc trắng nghẹn ngào nhô mình trên hành lang hẹp. Ðêm Bảo Lộc mơ hồ tiếng máy xe và những cụm khói đàng sau ống bô, như vệt sương vừa xa rời một cánh rừng nghiệt ngã.
Ðêm giao thừa trống trải một giấc mơ. Tôi đi qua một mùa rét tháng giêng nghe hơi thở mùa xuân ngỡ ngàng lên tuổi thơ, như năm nào tôi vào đời vẫn vậy. Ðường phố mang một dáng vẻ quen thuộc. Nhưng nàng vừa rời khỏi tôi để mang trên vai một tình yêu khác. Người đàn bà nồng cháy một thời, như một vệt lửa trong lò, nhưng tình yêu vừa tắt ngúm.
Bên kia hồ Đồng Nai Thượng, ngôi nhà thủy tạ chìm trong sương. Những lan can vươn mình in bóng xuống mặt hồ, như níu kéo một lầm lỡ. Khu chợ Mới chưa kịp thức, còn ngái ngủ, nơi ghi xuống một quá khứ và tuổi thơ nàng ngày hai buổi đi học về. Màu áo len tím nhức nhối như sông buồn chảy trên hai nhánh đời nhân quả.
Quán cà phê đồng thời có bán cả kem, mang tên Anh Đào, nơi tôi ngồi đồng mỗi đêm, và con đường Tự Do bên ngoài chạy đụng tới trường học của nàng. Trường Nữ Trung Học. Ngày đó người ta mới vừa khánh thành bức tượng “Kinh Thượng Một Nhà” trước khuôn viên nhà Bưu Điện. Khu nhà tiền chế dùng làm trại gia binh trong chế độ cũ và hàng rào kẻm gai sơ sài, không nói lên một điều gì ngoại trừ nơi đó từng ẫn dấu một tấm lòng giản đơn của một người lính. Những trụ ăng teng cao vút tưởng chừng vói đụng những vì sao và hầm gác có tiếng ho khan của người lính già.
Khi những ly cà phê chờ được đem ra, những đôi tình nhân đang ngồi bỗng muốn sát vào nhau. Có nghĩa là mùa đông đã đến bên ngoài. Có những dòng xe đi về hối hả. Có những chiếc áo phong phanh không ủ hết tình yêu dại khờ. Có những ngọn lữa trong mắt nhau không cần phải thắp.
Bài hát cũ, nghe quen và sáo mòn chạy đuổi từ bàn ghế, chỗ ngồi và quấn quít trên những tường vách mù tối. Bài ĐOẠN TUYỆT ngày đó sến không thể tả, không biết của ai, nhưng nghe riết rồi nhập tâm và thuộc lòng: “Một mai em có đi lấy chồng/ vòng tay ân ái thay hình bóng/ xác pháo tươi hồng như trái tim/ êm ái trao lòng tôi vết thương/ em biết chăng em?…”
Mùa xuân này tôi trở về Đà lạt. Qua Bảo Lộc và con hồ mang tên Đồng Nai Thượng. Nhìn lui lại Chợ Mới theo quán tính. Nhưng không thấy kịp hết vì cảnh vật lạ lẫm. Nhà Thủy tạ nhỏ vẫn còn. Nhưng quán cà phê Anh Đào không thấy đâu. Buổi chiều mờ ảo những giá rét. Bốn mươi ba năm có một người xa Bảo Lộc trở về để thành khách lạ. Con tim muốn đào thoát ra khỏi lòng ngực để bay lại trên những nẽo đường, những góc phố. Hoa quỳ vẫn nở vàng nhưng sắc màu đã im nhạt và lời bài hát xưa nghe nghẹn từ lúc nào. Đàng sau những bão giông là một giấc mơ già nua. Đàng sau những lời hứa là bổn phận. Trong đó có gã thanh niên trượt chân ngã nhoài và người con gái sang sông không hề nhìn lại. Tiếng gió gõ nhịp và đuổi theo bánh xe như những lời thủy chung. Tháng hai hối hả một màu son trên môi. Giọt cà phê nghe đắng chát nụ cười.
Cho đến bây giờ tôi mời vừa nhận ra một điều giản đơn là năm tháng rất dài và khó hiểu. Vì tình yêu không khả năng để giải thích cũng như kịp đi hết một chặng đường…
*******
Nguyễn Đức Nhơn
Xuôi Theo Dòng Nước Ngược
Từ bến xe về nhà chú tôi phải băng ngang một cánh đồng hoang. Ở cuối cánh đồng, gần khu chợ chồm hổm Tân Mai có một căn nhà lá nằm trơ vơ với những bức vách xiêu vẹo te tua vì trải qua nhiều năm tháng không được tu sửa. Tôi ghé vào xin nước uống. Bà chủ nhà hé cửa, ló đầu ra hỏi anh cần gì? Tôi nói trời nóng quá chị cho xin miếng nước và đụt mát một chút được không? Bà chủ nhà vừa mở cửa vừa nói mời anh vào rồi bước đến cầm chiếc ấm rót nước vào cái ly làm bằng đất nung. Căn nhà, ngoài lối đi và cái sân nhỏ phía trước, chung quanh đều là cây dại và cỏ tranh. Bên trong nhà kê một chiếc giường tre và một cái bàn với bốn chiếc ghế đẩu làm bằng gỗ tạp. Ở bức vách phía sau, kê một bàn thờ, trên bàn thờ là ảnh một người lính trẻ, mặc đồ trận, không thấy mang cấp bậc. Trước ảnh là một lư hương bằng sành, trên lư hương, vài ba chân nhang cắm xiêu vẹo. Thấy tôi đứng nhìn trân tấm ảnh, bà chủ nhà thở dài nói mời anh ngồi. Đó là ảnh thằng con tôi. Nó chết hồi còn chiến tranh. Thằng nhỏ mới ra trường Bộ Binh Thủ Đức được mấy tháng thì đụng trận bị thương, trực thăng chở về chưa tới bệnh viện là nó đi rồi.
Thấy bà chủ nhà có vẻ cởi mở nên tôi bắt chuyện làm quen, xin lỗi chị tên gì vậy? Tôi tên Trang. Cảm ơn chị Trang, tôi từ bến xe về nhà chú tôi nhưng nắng nóng quá đành ghé vào đây làm phiền chị. Có phiền gì đâu, nhưng nhà không có trà, anh dùng tạm nước lạnh vậy. Tôi hỏi Trang chị còn cháu nào không? Còn. còn một đứa con gái. Nó lấy chồng tuốt dưới miệt lục tỉnh. Năm, nửa năm mới về một lần. Chị ở nhà này một mình? Chớ sao giờ. Bà Trang ngừng một chút rồi nhìn tôi tò mò, anh có mấy cháu? Chị làm nghề gì vậy? Bà xã tôi lấy chồng khác rồi. Tôi cũng có một đứa con trai, nó nghịch ngọm lượm đầu đạn đập lấy chì bị nổ chết rồi. Ồ! Xin lỗi đã khơi lại chuyện buồn của anh. Mà lý do gì hai người thôi nhau vậy? Vợ tôi không chờ được, bà ấy lấy chồng khác vì cho rằng tôi không thể trở về. Anh ở tù cải tạo? Vâng, tôi ở sáu năm. Bà Trang thở dài sườn sượt nói ông xã tôi cũng ở tù. Tôi hỏi anh ấy về chưa? Ổng chết rồi. Chết khi còn ở trong tù. Có người cùng trại với ổng về nói với tôi như vậy. Tôi bán tín bán nghi nên có đến trại giam hỏi thăm tin tức. Người ta bảo là ổng đã chuyển trại. Tôi có hỏi chuyển đến trại nào thì họ không trả lời vì vậy mà tôi tin là ổng đã chết thật rồi. Chiến tranh cũng chết, hòa bình cũng chết. Biết sao giờ!
Bà Trang không nói gì thêm. Hình như bà đang hồi tưởng một điều gì đó. Nét mặt bà thoáng hiện một nỗi buồn xa xăm khó hiểu. Mặt trời đã ngã về phương tây. Khu đồng hoang trở nên vắng lặng buồn hiu sau một vài cơn gió mùa thoảng qua. Tôi đứng lên cảm ơn bà rồi bước ra cửa, một mình lần theo con đường mòn dẫn đến nhà chú tôi. Từ đó, năm ba ngày tôi đến thăm bà Trang một lần. Lúc đầu Trang có vẻ dè dặt nhưng dần dần bà ấy tỏ ra thân thiện và khi tôi ra về, lúc nào bà cũng mời tôi rảnh rỗi ghé nhà chơi.
Bầu trời đen nghịt, gió bắt đầu thổi mạnh. Tôi cố đi thật nhanh, nhưng vừa tới gần khu chợ chồm hổm thì cơn mưa đổ ụp xuống. Tôi đành tạt vào nhà bà Trang trú tạm. Cơn mưa giông đầu mùa thật dữ tợn, gió giật từng cơn. Một vài tấm lá trên nóc bị tróc. Nước đổ xuống đọng thành vũng nhỏ trên nền nhà. Bà Trang ngồi ở mép giường, nét mặt buồn buồn nói nhà không có đàn ông, mưa to gió lớn cũng sợ. Tôi nói chiến tranh qua rồi, nhưng hậu quả của nó thật ghê gớm. Kẻ mất vợ, người mất chồng. Tôi và chị gần như cùng cảnh ngộ, kiếp này chúng ta trả quá nhiều. Những ngày còn lại không biết rồi sẽ ra sao. Tôi buồn thật sự. Những lời tôi nói ra đều xuất phát tự đáy lòng. Bà Trang không nói gì và tôi cũng không biết bà đang nghĩ gì.
Cơn giông chấm dứt, nhưng trận mưa vẫn kéo dài. Trời đã tối hẳn, không còn nhìn rõ cảnh vật bên ngoài. Bà Trang bước đến đốt cây đèn trên bàn thờ. Ánh sáng từ ngọn đèn chao đảo, khi tỏ khi mờ, chiếu lên khuôn mặt đầy đặn, còn phảng phất nét diễm kiều của một thời con gái. Tôi nhìn bà đăm đăm… Cái cảm giác tự nhiên của một người đàn ông vắng vợ lâu ngày thôi thúc, khiến tôi không còn tự chủ được. Bà Trang cũng chỉ phản ứng lấy lệ… Ngoài trời, mưa vẫn còn nặng hột, thỉnh thoảng một vài ánh chớp lóe lên rồi tắt ngúm. Căn nhà bà Trang chìm trong một đêm mưa đầu mùa dai dẳng, cho đến khi bình minh ló dạng, bắt đầu cho một ngày mới và cũng bắt đầu cho một cuộc tình muộn màng nhưng đầy hạnh phúc.
Cuối cùng, chúng tôi cũng được định cư ở Hoa Kỳ sau một chuyến vượt biên đầy nguy hiểm. Trang suốt ngày buồn bã vì nhớ đứa con gái còn ở lại quê nhà. Chúng tôi sống ở New York một thời gian rồi chuyển về thành phố Garland, Tiểu bang Texas vì không chịu nổi khí hậu buốt giá ở miền bắc. Tại đây tôi và Trang dồn nỗ lực vào nghề may. Thời điểm đó nghề may khá thịnh hành và kiếm rất nhiều tiền. Từ công việc may thuê, chúng tôi mở được một cửa tiệm, rồi hai cửa tiệm vì vậy mà chúng tôi phải chia nhau mỗi người quản lý một tiệm. Hầu như chúng tôi chỉ gặp nhau về ban đêm và cuối tuần. Chúng tôi khá thành công trên xứ sở tạm dung này.
Một hôm, có một người đàn ông trạc tuổi trung niên vào tiệm tôi xin việc. Ông ấy nói tôi qua diện HO, mới được nửa năm. Tôi vốn là một sĩ quan ở tù cải tạo nhiều năm nên rất thông cảm với những người cùng cảnh ngộ. Tôi xem xong tờ đơn xin việc rồi nói được anh đến đây làm cho vui. Ngày mai anh có thể đi làm. Anh Tân cứ yên tâm, ở đây không có việc gì nặng đâu. Tân đứng lên nói cảm ơn rồi ra về. Tân làm được vài tháng, công việc đã thành thạo nhưng lúc nào cũng buồn bã đăm chiêu, ít trò chuyện và thố lộ việc riêng tư của mình. Lúc đầu tôi không để ý nhưng dần dà tôi thấy ở anh hình như có một nỗi buồn gì đó đang giữ kín trong lòng. Một hôm nhân công việc rảnh rỗi, tôi mời Tân đi nhậu. Tân có vẻ do dự nhưng rồi cũng đồng ý. Trong một nhà hàng khá sang ở Garland, tôi và Tân vừa uống bia vừa nói chuyện bao đồng. Khi cả hai ngà ngà say tôi tò mò hỏi Tân về hoàn cảnh gia đình anh. Tân buồn buồn trả lời, tôi qua đây một mình! Vợ tôi đã lấy chồng khác khi tôi còn ở trong tù, nghe nói bà ấy cũng qua Mỹ rồi. Tôi hỏi anh về năm nào. Tân trả lời về hồi năm tám lăm. Tôi gật gù nói như vậy là anh về sau tôi tới bốn năm. Tôi dặn Tân một vài công việc cho ngày hôm sau rồi lên xe ra về.
Mùa đông năm nay lạnh hơn những năm trước rất nhiều. Nhất là vào dịp tết ta, gió từ miền Bắc thổi về lạnh thấu xương. Tuyết cũng bắt đầu rơi càng lúc càng nhiều. Sân sau nhà tôi và những mái nhà nằm bên kia hàng rào phủ lên một màu trắng xóa. Những chú sóc thường ngày nghịch ngợm chạy nhảy tùm lum, giờ nằm co ro ở một góc nhà kho trông thật thảm hại. Ngày hôm sau tuyết ngừng rơi. Tôi mở cửa nhà xe bước ra bên ngoài. Mặt trời chói chang phủ lên mặt tuyết một màu trắng lung linh rực rỡ trông giống như một cảnh thần tiên nào đó. Con đường trước nhà hằn lên những vết xe trên mặt tuyết. Những đứa trẻ ở mấy ngôi nhà đối diện túa ra sân lấy tuyết đắp thành những hình người trông thật ngộ nghĩnh. Tôi cũng thấy vui lay với các cô cậu nhóc con nghịch ngợm này. Tôi trở vào nhà thì chuông điện thoại bật reo. Tôi nghe đầu giây bên kia tiếng Tân nói sẽ đến nhà thăm vợ chồng tôi. Tôi nói đường đông đá lái xe nguy hiểm lắm, Tân nói xe cộ chạy nhiều rồi, không sao đâu. Tôi đoán được Tân đến với mục đích tặng quà tết cho tôi nên không tiện từ chối. Trang hỏi anh cần đồ nhậu không. Tôi trả lời Tân có lòng đến nhà, mình cũng nên đối đãi tử tế với anh ấy. Vả lại thời tiết này mà có người cùng nhậu thật là tuyệt.
Khoảng một tiếng sau thì Tân đến nhà. Tôi mời Tân ngồi và nói hôm nay mình lai rai một chút chơi. Tân nói lời từ chối. Tôi gạt ngang và nói vợ tôi đang làm đồ nhậu. Chắc một chút nữa là xong. Trong lúc chờ đợi tôi hỏi Tân có ý lập gia đình với một người đàn bà khác không. Tân trả lời tôi chưa có ý định này. Tôi nói ở cái xứ này sống một mình bất tiện lắm. Dù sao cũng nên lập gia đình để nương tựa nhau thì tốt hơn. Tôi vừa dứt lời thì Trang từ trong bếp bước ra với một dĩa đồ nhậu trên tay. Trang khựng lại khi nhận ra Tân. Nàng đứng sững như trời trồng. Dĩa đồ nhậu vuột khỏi tay nàng rơi xuống nền gạch vỡ toang, thức ăn văng tung tóe. Tân đứng bật dậy như một cái máy bước nhanh ra cửa, không nói một lời nào. Tôi vô cùng kinh ngạc khi chứng kiến sự việc ngoài sức tưởng tượng này. Trang vẫn đứng lặng người tại chỗ. Nét mặt thất thần tái mét. Tôi đứng lên nắm tay nàng dìu đến ngồi trên ghế sofa hỏi sao hai người có cử chỉ kỳ cục như vậy. Trang ồ lên khóc nức nở. Bây giờ thì tôi đã đoán được phần nào sự việc rồi. Tôi nhỏ nhẹ hỏi Trang có phải anh Tân là người chồng cũ mà em tưởng đã chết trong tù đó không? Trang gật đầu rồi ù té chạy vào phòng ôm gối khóc. Tôi nói việc đâu còn có đó. Em đừng quá xúc động. Trang thôi khóc nhưng vẫn nằm trên giường quay mặt vào trong. Tôi an ủi nàng vài lời nữa rồi ra ngồi ở phòng khách. Tâm trạng tôi lúc này rối như tơ vò. Tôi không hề trách cứ Trang và tôi cũng không hiểu được phản ứng của nàng xuất phát từ một cảm xúc nào trước sự việc vừa mới xảy ra. Tôi nghĩ ngợi lung tung về một tương lai mà tôi phải đối mặt trong những ngày sắp tới. Suốt ngày hôm đó tôi luôn ở bên Trang vì sợ nàng không chịu nổi nghịch cảnh rồi làm chuyện điên rồ. Ngoài trời tuyết bắt đầu tan nhưng cái lạnh trong hồn tôi dường như mới bắt đầu. Những chai bia thay nhau cạn, dĩa đồ nhậu vỡ tung vẫn còn nằm nguyên đó. Căn nhà trở nên trống vắng đến rợn người. Tôi vói tay lấy xách quà Tân vừa mang đến mở ra xem. Trong đó có hai đòn bánh tét, một hộp mứt và một gói trà. Tôi buộc lại gói quà rồi vào phòng thăm chừng Trang. Nàng vẫn nằm yên đó. Tóc nàng xỏa ra che khuất một phần khuôn mặt còn đọng một vài giọt nước mắt…
Trang à! Bây giờ em định thế nào? Trang trả lời để em được yên tĩnh một vài ngày nữa rồi chúng ta sẽ nói chuyện sau. Vậy cũng được. Anh chỉ muốn em thật bình tĩnh để có một quyết định sáng suốt, đừng để cho sự việc trở nên rắc rối hơn. Chúng ta nên giải quyết vấn đề một cách êm thắm. Anh sẵn sàng chấp nhận những gì em muốn và tôn trọng mọi quyết định của em. Nói xong tôi bỏ ra ngoài với một tâm trạng đầy mâu thuẫn. Hai ngày sau tôi bảo Trang em ở nhà nghỉ ngơi. Anh ra tiệm coi công việc thế nào rồi về ngay. Trang nói dù gì anh cũng nên có mặt ở tiệm để công việc khỏi bị tồn đọng. Tôi nói em yên tâm. Anh sẽ lo mọi việc.
Đến tiệm, việc đầu tiên của tôi là muốn nói chuyện với Tân về sự việc đã xảy ra nhưng cô thư ký bảo mấy ngày nay không thấy ông Tân đến tiệm. Tôi hỏi anh ấy có nói đi đâu không. Cô thư ký trả lời mấy hôm trước ông Tân nói đến tìm ông có việc rồi không thấy ông ta đến tiệm nữa. Tôi nói thôi được cô làm việc đi. Trở về nhà tôi đem chuyện Tân bỏ việc nói cho Trang nghe. Nàng tỏ ra một chút ngạc nhiên rồi nhìn tôi nói anh không cần quan tâm nhiều về vấn đề này. Tân bỏ làm là một việc tất nhiên vì dù gì anh ấy cũng bị một cú xóc khá nặng, nhưng thế nào anh ấy cũng sẽ tìm em để tỏ bày một điều gì đó. Anh cũng nghĩ như vậy, nhưng em đã chuẩn bị phải trả lời như thế nào chưa? Em sẽ trả lời dứt khoát với anh ấy là mọi việc đã được an bài không còn một chọn lựa nào khác ngoài việc phải chấp nhận nó. Em nghĩ là anh ấy sẽ phản ứng thế nào? Phản ứng thế nào cũng mặc vì em cảm thấy mình không hoàn toàn có lỗi trong vấn đề này và em tin là anh ấy cũng nghĩ như thế. Theo anh thì mọi việc phải được giải quyết một cách ổn thỏa, rõ ràng hơn là biến mình thành một cỗ máy không người lái muốn đâm đầu vào đâu cũng được. Anh muốn chúng ta, cả ba người phải đối mặt nhau để giải quyết vấn đề. Trang nói không được. Anh có nghĩ khi cả ba người gặp nhau thì sự việc sẽ càng phức tạp và tồi tệ hơn không? Thôi được, anh tôn trọng quyết định của em. Nói xong tôi bỏ qua phòng làm việc vùi đầu vào những chồng hồ sơ dày cộm cho đến nửa đêm mới lăn ra ngủ. Đã nhiều đêm thức trắng, nên vừa nằm xuống là chìm vào giấc ngủ như một đứa trẻ vô tư lự.
Hai tuần trôi qua trong sự chờ đợi nhưng chúng tôi vẫn không thấy một phản ứng nào từ Tân. Trang cố làm ra vẻ bình thản nhưng tôi biết nàng đang chịu một áp lực rất lớn trước sự im lặng khó hiểu này. Tôi không còn đủ kiên nhẫn nên đã nhờ Lượng đến nhà Tân để thăm dò thái độ của anh. Lượng cho tôi biết Tân đã trả căn chung cư và đi đâu không rõ. Tôi đem chuyện này nói với Trang. Nàng không nói gì và cũng không biểu lộ một cử chỉ đặc biệt nào. Sự chờ đợi của chúng tôi lại tiếp tục đến tuần thứ tư thì tôi nhận được thư của Tân gởi từ Cali (theo dấu bưu điên). Ngoài phong bì không đề địa chỉ người gởi. Tôi mở thư ra xem, anh viết:
“Kính gởi anh chị Hưng,
Lời đầu tiên của tôi là chúc anh chị luôn vui khỏe và may mắn trong công việc làm ăn. Tôi cũng xin lỗi anh chị về chuyện bỏ việc ra đi mà không báo trước, mong anh chị thông cảm. Tôi không biết anh chị có nảy sinh vấn đề gì khó xử khi sự việc ngoài ý muốn xảy ra hay không? Nhưng tôi luôn cầu mong anh chị tha thứ trước phản ứng không mấy tốt đẹp xảy ra ngoài vòng kiểm soát của tôi. Tôi cũng xin cảm ơn anh Hưng đã cư xử tốt với tôi trong những ngày tôi còn ở Garland. Kính thư, Tân”
Đọc xong, tôi đưa lá thư cho Trang. Nàng xem qua rồi nói cũng may chúng ta là những người hiểu biết và rộng lượng. Mọi việc coi như đã giải quyết xong.
Hội trường trang hoàng khá đẹp. Thân hữu khắp nơi tụ về tham dự đại hội rất đông. Tôi đang loay hoay chào hỏi mọi người. Trang cũng lăng xăng với các bạn học cũ ở một góc hội trường. Bất chợt tôi nhìn thấy Tân cùng lúc anh cũng vừa nhận ra tôi. Chúng tôi vừa đưa tay chào vừa tiến về phía nhau. Chúng tôi bắt tay với một cử chỉ niềm nở thân thiện. Tôi chỉ tay về phía Trang nói bà ấy rất vui khi gặp lại bạn bè. Tân nói bà xã mình cũng vậy. Anh đã lập gia đình? Vâng. Đã được vài năm. Mừng anh. Tân nói anh chờ chút. Tôi tìm bà xã đưa đến chào anh chị. Tôi gật đầu rồi hướng về phía Trang ra dấu gọi nàng đến. Trang nói gì đó với mấy bà bạn rồi đến với tôi. Trang hỏi có việc gì vậy? Tôi trả lời em chờ một chút. Anh sẽ dành cho em một việc rất bất ngờ. Trang định gặng hỏi tôi việc gì nhưng nàng khựng lại vì nhận ra nét mặt tôi biến đổi một cách kỳ lạ. Trang tò mò nhìn theo hướng mắt tôi và nhận ra Tân đang nắm tay một người đàn bà xinh đẹp tiến về phía chúng tôi. Tôi kịp lấy lại bình tĩnh khi Tân vui vẻ giới thiệu đây là Lệ bà xã mình. Tôi cố kiềm chế cho giọng không bị run nói chào chị Lệ. Tân cũng chào hỏi Trang trong khi Lệ đứng yên như trời trồng. Tôi nhận ra sự giao động kịch liệt từ đôi mắt Lệ nhưng cố làm ra vẻ tự nhiên hỏi chị Lệ qua Mỹ lâu chưa. Lệ biết tôi không muốn gây ra rắc rối trước sự tao ngộ oái oăm đầy kịch tính này nên nàng giả vờ vui vẻ trả lời dạ em qua được bốn năm rồi. Tôi nói thôi chào anh chị, tôi còn chút việc phải làm. Hẹn khi khác gặp lại. Tôi nói xong liền nắm tay Trang rời khỏi hội trường. Trang không thắc mắc gì cả vì nàng nghĩ là tôi không muốn trò chuyện với Tân nhiều. Nàng nghĩ tôi đang trốn chạy sự thật, nhưng nàng đâu hiểu tâm trạng của tôi khi gặp lại Lệ, người vợ cũ đã lấy chồng khác khi tôi còn ở trong tù. Tôi băn khoăn không biết nên nói với Trang việc này không và tôi cũng thắc mắc không biết hoàn cảnh nào đưa đẩy Tân và Lệ gặp nhau trên xứ sở tạm dung này. Lệ đã chia tay với người chồng mới khi còn ở quê nhà hay cả hai qua Mỹ rồi mới thôi nhau? Tôi tự nhủ mình không nên để ý đến vấn đề này làm gì và không cần biết Trang nghĩ thế nào về mình. Tôi quyết định không tham dự đại hội nữa và cùng Trang biến chuyến đi thành một chuyến du lịch ở miền Nam Cali…
*******
Mang Viên Long
Cúc Mãi Vàng Tươi Nơi Cửa Thiền
Thiền sư Huyền Quang (1254 – 1334) là vị tổ thứ ba dòng Trúc Lâm Yên Tử; Ngài còn được sử sách ghi nhận là “một nhà thơ lớn”, được hai học giả Lê Quí Đôn và Phan Huy Chú khen ngợi là một nhà thơ có “ý tinh tế cao siêu” và “lời bay bướm phóng khoáng”. Sinh thời, Ngài Huyền Quang đã trước tác được 4 tác phẩm (Ngọc Tiên Tập, Chư Phẩm Kinh, Công Văn Tập, và Phổ Huệ Ngữ Lục) nhưng cho đến nay đều không còn. Hiện nay, chỉ còn 23 bài thơ chữ Hán, và một bài phú nôm vịnh chùa Hoa Yên (Yên Tử) được ghi trong “Việt Âm Thi Tập” và “Trích Diễm Thi Tập”.
Trong số những bài thơ còn lưu lại, đặc biệt Huyền Quang đã viết riêng về “Cúc Hoa” đến 6 bài. trong cùng một không gian Xuân, nhưng mỗi bài là một bức tranh Xuân thiền sâu kín, đằm thắm, ẩn chứa nhiều tâm sự, nhiều tri kiến về Đạo. Sáu bài thơ đã toát lên được nét đẹp miên viễn của “Cúc Hoa” nơi cửa Thiền, cũng như trong tâm hồn Ngài đã an nhiên, giải thoát. “Cúc Hoa” chỉ là một hình ảnh tượng trưng, như bao hình ảnh khác; nhưng hình ảnh hoa cúc trong thơ Ngài có nét đẹp sâu khuất, lung linh ánh Đạo của nhiều tháng năm được chiêm nghiệm bởi một tâm hồn nhạy cảm và giác ngộ…
Chúng ta tự hỏi: Huyền Quang đã từng vịnh về hoa Mai, nhưng với “Cúc Hoa”, tại sao Ngài lại dành cho loại hoa mộc mạc chơn chất ấy những tình cảm sâu đặm thiết tha đến vậy?
Trong bài thơ cuối về “Cúc Hoa”, Ngài đã trả lời: “Biến giới phồn hoa toàn trụy địa/ Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly” (Khi mọi loài hoa rơi chật đất/ Dậu đông hoa cúc vẫn chưa tàn). Trong bài “Cúc Hoa” thứ 2, Huyền Quang cũng đã hé mở cho người đọc thấy được lý do vì sao Ngài yêu chuộng hoa cúc hơn hoa mai đài các hương sắc:
“Đại giang vô mộng cán khô tràng
Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang
Lão khứ sầu thu ngâm vịnh ổn
Thi biếu thực vị cúc hoa mang”
(Ngàn sông không dủ thấm lòng già/Bách vinh Mai Hoa vẫn kém xa/Đầu bạc ngâm hoài vẫn chưa ổn/Mỗi khi cúc nở rộn lòng ta)
Thì ra cái đẹp bề ngoài của Mai – như cái vỏ phù du, giả tạm; trong lúc hoa Cúc tuy đơn sơ, mộc mạc là vậy mà là cái đẹp chân chính, lâu bền: “Biến giới phồn hoa toàn trụy địa/ Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly” (Khi mọi loài hoa rơi chật đất/ Dậu đông hoa cúc vẫn chưa tàn).
Cái đẹp hào nhoáng, rực rỡ, hương sắc của hoa Mai chưa phải là cái đẹp mà tâm hồn Ngài đang mong ước, vì thế đã bao thu qua, tâm hồn Ngài vẫn còn bao trăn trở không nguôi: “Lão khứ sầu thu ngâm vịnh ổn” (Đầu bạc ngâm hoài vẫn chưa ổn).
Trong nhiều năm tháng kiếm tìm cái đẹp chân lý, Huyền Quang đã phát hiện ra: “Thi biếu thực vị cúc hoa mang”( Mỗi khi cúc nở rộn lòng ta). Đây rồi, hoa Cúc:
“Hoa tại trung đình nhân tại lâu
Phần hương độc tọa tự vong ưu
Chủ nhan dữ vật hồn vô cạnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu”
(Người ở trên lầu, hoa dưới sân/ Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông/Hồn nhiên người với hoa là một/ Giữa vùng hương sắc lộ hình dung).
Huyền Quang đã tinh tế ngầm cho biết “tác giả và hoa cúc” chỉ là một mà thôi! Đó là lẽ huyền vi của Đạo. Khi không còn là hai, thì chân lý về “cái đẹp” đã là một sự miên viễn tuyệt vời hiển hiện rồi, đâu cần kiếm tìm?
Qua sự hòa nhập, thấu đạt cùng “Cúc Hoa”, chân lý đã lộ rõ: “Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu” (Giữa vùng hương sắc lộ hình dung). Ở khoảng không giữa hương / sắc và ta, đó là hình tướng chân thật của con người! Đó phải chăng cũng là Chân Tánh của tất cả? Huyền Quang đã khuyến thị:
“Vương thân vương thế dĩ đô vương
Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương
Tuế vãn sơn trung vô tịch nhật
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương”
(Buông thân buông thế, thảy đều buông/Thiền tọa giờ lâu lạnh thấm giường/ Trong núi năm tàn không có lịch/ Thấy hoa cúc nở biết trùng dương)
Đã đạt được cái đẹp vĩnh cửu (ví như hoa cúc), thì đâu cần gì thêm – cả cái thân thế này, và cả núi sông/ ngày tháng (…) đều hãy buông bỏ hết, để chỉ nhìn “Cúc hoa khai xứ” là biết Xuân về…Tâm an nhiên tịnh lặng là Xuân, là Đạo!
Cúc Hoa đã mãi vàng tươi nơi cửa thiền, từ dạo ấy…
Mang Viên Long
********
Nguyễn Thị Khánh Minh
Lần Theo Mộng Ảo Mà Về…
Về, là về lại một nơi mình đã chia xa, một chốn cũ, nơi mình được ngồi yên lặng để bầu thân thuộc chuyền lại cho mình những dưỡng chất đã tiêu hao theo những dặm dài, để được nhìn thấy mình cùng không khí ấy mới mẻ thế nào, cũ kỹ ra sao. Hẳn sẽ là bước về nôn nao hối hả.
Về, là về cõi thời gian, một dòng chảy mơ không bờ bến, nếu không dành tâm tới lui với nó, khuấy lên hiện tiền một tiếng gọi, vén chút mù sương của ký ức, dợm một bước những phút giây sẽ tới, thì dòng chảy ấy sẽ hư vô. Nên bước về như thước phim quay chậm.
Và sẽ chập chùng trên đó những bước chân của xác phàm lẫn bước chân của cảm xúc.
Nơi chốn ấy là Sài Gòn, thời gian ấy là Sài Gòn. Vâng, Sài Gòn.
Dạo tôi còn học lớp ESL tại Santa Ana College, thầy Lewis cho viết một bài luận văn tự do, tôi đã viết về Sài Gòn, với những quán ăn khuya và mưa đêm, nhân lúc nói chuyện ngoài giờ học, thầy nói một ngày nào ông sẽ đi Sài Gòn để thưởng thức trời mưa trong không khí ăn đêm. Tôi đã phải nói rõ thêm với ông rằng, Sài Gòn đã là tên xưa, và tại sao nó trở thành tên xưa. Điều này làm tôi xót như động phải vết thương, vì cái tên ấy nó đã là một phần của thân thể ký ức tôi, là một dòng chảy cảm xúc trong huyết quản tôi.
Những nốt nhạc ký ức tôi gảy lên hôm nay, ước sao là một tiếng đàn hòa trong bản giao hưởng hồi ức của những tâm hồn đồng điệu, một thời, như tôi, lớn lên từ lòng con phố mang một tên đã thành xưa này. Đó là âm những con chữ cho tôi lần về, và bạn thân ơi, dường như tôi chỉ đang quyến luyến nơi này qua đường tơ kỷ niệm.
…Tôi bước lên những bậc thềm mịn rêu, bước chậm, sợ mình sẽ bị trượt ra sau, cái ngã ngửa chẳng khác nào cái rớt xuống trần gian đầy ngỡ ngàng của hai chàng Lưu Nguyễn. Tôi chưa muốn thế, tôi đang muốn sống cõi phi thực kia với từng rung động e dè chậm chậm, để nghe chạm vào cánh cổng đã hoen rỉ tháng năm, và dù nhẹ nhàng đến thế nào cũng sẽ ghê răng bởi tiếng rít của một cánh cửa lâu ngày không mở. Hồi hộp, nên tim tôi đập khác thường.
Ngôi nhà ba mẹ tôi ngày trước, có hàng tràm bông vàng bên vệ đường, tới mùa hoa gieo phấn thì bụi vàng xác hoa li ti đầy trước ngõ, nếu tôi bắt chước thiền sư Cảnh Sầm theo cánh hoa rụng mà về (Hựu trục lạc hoa hồi) thì hẳn không thể nào tới được nhà, vì hàng cây giờ đã không còn. Đây là nơi tôi đã mong mỏi bao năm để trở về. Thật ra, tôi đã biết ngôi nhà đã khác hẳn ngày xưa lúc còn là biệt thự nhỏ, tường sần sùi màu tím hồng ẩn hiện sau rặng trúc, tàng mận và hoa hồng tầm xuân lòa xòa trước cổng, nhưng sao lòng vẫn nhói lên khi nhìn nó bây giờ, lồ lộ phô những cửa kiếng ra mặt đường, và cũng chỉ còn non một nửa căn. Tôi đứng yên trước cổng, nếu có bấm chuông thì cũng sẽ không còn ai mở cửa, tần ngần cầm chiếc chìa khóa, tôi mở, tiếng lách cách nghe lạ như lâu lắm chưa từng. Từ ngày ba tôi mất, từ ngày mẹ tôi rời khỏi đây, nhà không ai ở, tôi nhìn những đốm sáng chập chờn trên chiếc ghế dài, lòng bỗng như một vạt nắng xa vắng, cũng may là Hương, cô em dâu, đã qua lau chùi trước chứ nếu bây giờ tôi nhìn thấy lớp bụi đóng trên bàn ghế nữa thì chắc tâm hồn tôi sẽ bị niêm phong luôn với nỗi cô quạnh. Tôi đi thẳng lên lầu hai nơi có bàn thờ ba tôi, mùi gỗ của cầu thang như có mùi mưa, tôi nhìn ba tôi, một chút sờ sợ, không biết vì sao, có lẽ tại âm dương nghìn trùng trong căn phòng thờ im lặng, tôi đặt tay lên hình ba tôi, ba ơi, con về với ba đây. Anh Khải dặn tôi phải thắp nhang, nhưng chắc gì đường đi của khói lay động được ba tôi hơn hơi ấm của bàn tay?
Phất phơ màu áo lụa mỡ gà bộ bà ba xô dạt tôi, A, tôi biết rồi, tôi đã theo màu áo này mà về.
Màu áo tôi không quên ba tôi mặc tối hôm ấy. Buổi tối, như vậy thôi, đừng nhớ thêm gì nữa về thời gian, một toán lính xông vào nhà tôi như một trận bão, túa lên những phòng và dồn 8 người gia đình tôi xuống phòng khách. Một tờ giấy được dơ lên, một lời được đọc, đêm đóng lại theo từng bước chân của mỗi người được gọi lên phòng của mình. Tôi không biết ba mẹ và các em của tôi ra sao, riêng tôi khi lên phòng mình, có hai người lính, tôi thấy sách vở, đồ đạc, những lá thư của người yêu tôi trộn nháo nhào trên sàn. Tội tôi bị buộc nơi phòng mình những là Tagore, Mozart, Khánh Ly, Lệ Thu… tất cả bị tóm lại trong một cái bao lớn, cùng với những lời rất lạ tai, phản động, đồi trụy… Tôi phản xạ giựt lại băng nhạc Mozart, vì tôi chợt nghĩ sao Mozart lại là điều có thể bị tịch thu, người lính hất tôi ra, mất thăng bằng tôi ngã đập vào thành giường, cú đau điếng khiến tôi biết rằng phải im lặng.Tất cả phòng đều bị niêm phong, tôi đã vội lấy được một lá thư của người yêu nhét vào ngực áo như muốn tìm một sức mạnh, nhưng nó lại làm tôi ứa lệ. Có ai nghe tiếng một chùm chìa khóa quăng mạnh xuống mặt bàn gỗ như thế nào không, có thể không là gì nhưng đêm đó âm thanh ấy đã làm cả nhà tôi giật nẩy người. Đó là chùm khóa nhà. Và sau đó là tiếng cách cách của những chiếc còng tay. Ba tôi đi, hai em trai tôi đi, bước lên một cái xe bít bùng. Họ đang bước vào bóng tối. Cùng đi là tất cả sách vở trong nhà. Còn lại mẹ và chị em tôi, 5 người, co cụm nơi phòng khách, nơi có để hai cái chiếu và một cái màn. Ở ngoài cổng có hai người lính gác. Mẹ và tôi nắm tay nhau, tôi còn nhớ rất đậm cái run lẩy bẩy, bần bật của hai bàn tay nắm lại với nhau, vai mẹ rung nhưng mắt mẹ khô lạnh, cô em nhỏ thút thít khóc, cậu em kế thì đanh mặt lại ngồi cúi đầu, cậu bé út thì giương hai con mắt trẻ thơ rất buồn, ngơ ngác, nó không khóc, chỉ nhìn mẹ và chị rồi nằm xuống cong cả người lại. Mẹ tôi nói thầm, Khánh ạ, mẹ con mình phải chết thôi. Nhà mình còn hai bình gaz. Tôi giật thót mình, nhưng má ơi, hai bình có đủ chết không hay là chỉ làm mình ngắc ngoải thì có nước chết với họ – Mình sẽ vào bếp đóng kín cửa lại. Mẹ bỗng quay sang em gái tôi, 17 tuổi, giọng bà nhỏ, quyết liệt, Chết không con, Khanh- Chết! con bé gật phăng cái đầu dập dềnh mái tóc mây. Mẹ lại hỏi cậu em 16 tuổi, giọng có vẻ như bà đã quyết định, Chết nhé Khiết- Dạ, Chết! Thằng bé nói với vẻ lì cố hữu của nó. Rồi tới cậu em út,11 tuổi, giọng mẹ nhẹ nhàng, Chết không con, Khiêm?- Chết! Tôi rúng động cả hồn phách, nó nói chết nhanh như thể mẹ hỏi ăn không con- Ăn! Mẹ không hỏi tôi, vì bà biết tôi sẽ là đứa nói không. Tôi kéo mẹ nằm xuống chiếu, thì thầm, má không nghĩ là sẽ làm vậy, đúng không. Mình phải sống má ạ, anh Khải còn mất tích, 3 người vừa bị bắt đi, mình còn những 5 người, mình dư sức sống mà, má. Chúng tôi đã dư sức sống để lội qua những tháng ngày nước ngược ấy, có cả những tiễn đưa âm thầm trong tâm trạng một đi là có thể vĩnh viễn không gặp lại. Ba tôi trở về sau đó 7 năm, gầy guộc, ốm đau, ngày qua ngày, lặng lẽ làm tiếp cuốn tự điển đang làm dở. Lần sau ba tôi lại rời nhà ra đi một lần nữa, lần này thì không có ngày trở lại để làm tiếp cuốn sách vẫn chưa xong. Tôi quên chưa hỏi mẹ lúc mất ba có đang mặc bộ bà ba lụa màu mỡ gà không.Tôi nhìn những cây viết và sách để trên bàn thờ mà thấy cô liêu quá, cuộc sống, tôi nhớ ba tôi còn lở dở một vở kịch có tên là Cây Cô Độc, ông đúng là một cây cô độc trên con đường ông đi. Hình ba tôi mờ như có hơi nước, dường như vừa sóng sánh trên vô chung thời gian, tôi tin thêm một lần này, dòng chảy buồn ấy sẽ không gợn sóng nữa, nó sẽ yên, chảy tận lòng sâu.
Tắp vào bến nhà ba mẹ tôi chuyến này còn có vợ chồng cậu em út ở Úc về, cậu em năm nào gật đầu đồng ý chết một cách vô tư bây giờ đã là một người đàn ông đang mon men tới gần cái tuổi tri thiên mệnh. Về cùng là một anh bạn thân của em, Quỳnh, người đã nấu những bữa cơm rất ngon cho 6 người, và mỗi sáng vẫn làm cho tôi một ly cà phê thật đậm tình bè bạn. Còn có vợ chồng con trai lớn của tôi cùng bé gái 8 tháng tuổi nữa. Khánh Chi. A, tôi biết rồi, tiếng gọi tôi về chính là âm thanh ban sơ của tiếng khóc con người những năm tháng đầu đời, là mùi sữa thơm từ khóe miệng bé cháu, và khanh khách tiếng cười đang rù quến mọi cảm xúc tôi. Nếu tôi không về để mà hít hà cái mùi da thịt thơm non này thì hẳn là tôi cứ ngồi đó mà nói về mùi lavender…
Buổi sáng, tôi đón ly cà phê từ tay Quỳnh, lòng thấy ấm áp, ra cổng lại thấy một gói na treo toòng teng, chắc chị Liên đã đến đây từ sớm, cắn một miếng na như thấy tan trong miệng chút lòng chắt chiu. Tôi đứng trước hiên phòng nhỏ bé của mẹ, nắng sáng mà nóng ướt da, đang tưới cây, bỗng nghe vọng lên từ cổng dưới nhà, “có thư đây”, trái tim tôi như nhảy ra ngoài, cây sứ như có con gió nào tới khua tàng lá và hương hoa tan ra,…tôi nhẹ như mây, hóa thành cô gái nhỏ lướt qua những bậc thang gỗ mầu nhiệm,… lung linh cổng nhà cũ, người đưa thư năm xưa, con gái có thư con đây, tôi thì vội vàng, không mở cửa, thò tay qua cổng, rối rít, đưa con mau lên, và khi những lá thư với những sọc xanh đỏ trắng viền quanh phong bì nằm gọn trong tay thì tôi lại thưởng cho bác ít tiền, bác đi chiếc xe Honda Dame màu xanh lá chuối, hằng tuần đem đến cho tôi những lá thư thơm mùi biển xa, nỗi nhớ nhung theo nửa vòng trái đất buộc thành lời hò hẹn dài, sẽ một đời người, hay hơn, hỡi người yêu dấu?
A, tôi biết rồi, chính sợi tơ hẹn ước lênh đênh trên đường mộng ảo này dẫn tôi về, thành phố mang tên Sài Gòn, nơi tôi đã lớn lên, chỉ nơi này tôi mới lọt được vào nếp gấp xô lệch của thời gian, trở lại mọi thứ, như cũ, thời hai mươi vàng mười, lời tình tự mưa đêm thơm mùi hoa sứ, mùa hạ nồng những cơn mưa mà cho dù bao nhiêu lần được làm người nữa, nếu còn là mình, tôi còn nghe tiếng rất trong của nó rơi trước hiên nhà che chắn cho tôi một giấc mơ. Một nhịp chẩy diễm ảo đang đồng hóa tôi, tôi có đang trôi đi hay mãi mộng mơ đứng bên cổng cổ tích nhìn cánh bồ câu ngậm thư đưa tin yêu về?
Một buổi sáng, tôi gọi một chiếc taxi lên phố. Cô đi đâu? – Cho tôi tới trường Luật, đường Duy Tân- Dạ đâu cô? Tôi mỉm cười thích thú, vậy là mình đã nói ra được câu như lúc nào đó trong quá khứ. À quên, cho tôi tới trường Kinh Tế đường Phạm Ngọc Thạch. Đấy vật đổi sao dời như thế đấy. Tới đây thì tôi tự thắc mắc, Duy Tân là tên một vì vua yêu nước, tại sao phải bị thay tên, mà hẳn ông bác sĩ Phạm Ngọc Thạch nơi cõi trên chắc cũng chẳng lấy làm vui khi tên mình thay tên vua Duy Tân. Cái tên quen thuộc đến nỗi chỉ cần nói Duy Tân là mặc nhiên động đậy đến kỷ niệm thời sinh viên Luật (và Kiến Trúc của ai nữa chăng, dù trường này có cổng ở đường khác nhưng sát hông trường Luật nên kỷ niệm chắc cũng có chút bà con). Một thời sinh viên chúi đầu vào sách vở, cho đến một ngày đến trường bỗng ngỡ ngàng, bọn con gái chúng tôi hỏi nhau với giọng thảng thốt, sao lớp vắng thế này, bọn con trai đâu cả? ra năm đó nếu tôi nhớ đúng,1972, vừa có một luật động viên đôn quân (tôi có thể kiểm chứng xem mình có nhớ đúng không, nhưng thấy không cần thiết), tôi lúc đó như bị va đầu vào tường, cú đập choáng người. Đã từ bao lâu? sinh viên Sài Gòn như tôi lúc đó đi bên lề cuộc chiến. Đã bao lâu rồi? dân Sài Gòn có một niềm tin chắc rằng Sài Gòn là một ốc đảo mà con sóng của chiến tranh không thể đổ vào bờ. Đã bao nhiêu người trong lớp sinh viên như tôi tin rằng Sài Gòn là biên giới dừng lại của đường đi súng đạn? Tôi mắc cỡ và cảm thấy có tội, cũng như không hiểu nổi hệ thống dân vận lúc ấy đã để cho con lũ phong trào phản chiến lợi dụng kẽ hở của bờ đê dân chủ tự do ngập lụt hết ý thức về một cuộc chiến, của mình, cạnh mình, ý cũ: mở toang cửa cho ngập những phong trào phản chiến, đến nỗi không ý thức cái cuộc chiến đang xảy ra, là của mình, ở cạnh mình, đe dọa sự sống còn của mảnh đất có Hòn Ngọc Viễn Đông lấp lánh. Chúng tôi như những viên gạch lát ngô nghê. Nghêu ngao những bài hát phản chiến trên những ra đi vĩnh viễn của cha, anh, bạn bè mình ngoài chiến trường. Bây giờ tôi đang đứng đây, nơi ngày trước là lối cổng nhỏ khiêm cung trầm lắng màu gỗ hai cánh cửa nhỏ, trên là bảng Luật Khoa Đại Học Đường, tôi như nghe được hơi lạnh tiếng gió thổi vào lớp học khua buồn những hàng ghế trống buổi chiều xưa, có bao nhiêu bạn bè từ chỗ ngồi ấy ra đi không về nữa? Tôi thấy qua nắng muộn ánh mắt của những cô gái hai mươi, Châu Tỷ, Liêm, Liên, Gấm, Hoa, Xuân…và tôi, nhìn nhau, biết rằng, từ hôm ấy, tin chiến sự là vết mực đen phết trên từng trang sách học.
Tôi đi bộ bên vệ đường, đường Duy Tân, đã mất rồi lối đi đất nhỏ với hàng cây, nơi tôi lộng gió tà áo vàng trong tấm hình gửi người vạn dặm, thôi hãy dùng ký ức mà đi để lọt vào không khí Saigon thời yêu người thiết tha…, Hồ Con Rùa, cây đa cổ thụ trước Viện Đại Học Saigon có tôi, Huệ,Thôi “Oanh Oanh” thấp thoáng những tà áo dài trong nắng … Chập chờn những cánh bướm trên con đường rộng thênh thang băng qua ngôi rừng nhỏ trước Dinh Độc Lập, nhà thờ Đức Bà, và một con bướm vàng bay vội vã qua những bậc cấp Bưu Điện rồi chui vào thùng thư, ngày mai người ta sẽ lấy thư… A, tôi lần về theo dòng máu đẩy của nhịp đập, tươi mươi lại nơi nương náu của kỷ niệm, trái tim Sài Gòn ưng ức hoài nơi ngực trái…
Nơi ấy bây giờ, người đông hơn nên đường chật đi, nhà nhiều hơn, cao hơn, nên đất trời trong tầm mắt bị nhỏ lại. Tôi như cái bóng câm đi giữa muôn âm thanh hình ảnh ồn ào của một thế giới khác. Có phải đã muôn trùng thời gian đi qua nơi này, và tôi thấy mình buồn tẻ, lạc lõng, cũ xưa. Tôi đã nói với Nguyễn Lương Vỵ như thế, trong một quán cà phê, dưới bóng một cây trứng cá, có một trái nhỏ rụng đúng vào ly cà phê của tôi. Tôi cũng đang rơi một cách lạc điệu, như thế chăng. Vỵ đọc cho tôi nghe …những gương mặt lặng lẽ/ treo trên hai sợi dây điện song song/ vắt ngang cành trứng cá … tôi hỏi, thơ ai mà lọt hẳn vào tàng cây trứng cá này vậy. Vỵ đưa cho tôi tập thơ nhỏ. thơ Đoàn Minh Châu. Tôi dở ra ngẫu nhiên, những câu thơ, kỷ niệm vẹn nguyên mỗi năm…/ em vẫn là người hoài cổ/ sống bằng nhớ nhung ngày sắp tới…
Tôi đang được sống thực một nỗi nhớ không rời. Nó đang dắt tôi về.
Rồi cũng được nghe lại tiếng biển. Ngôi nhà Hoa Sứ của anh chị Khoa Geneviève, trong một xóm chài, nằm gần góc cong của bờ biển kéo ra Long Hải. Chị nói chị sẽ đổi tên nhà là Sao Biển. Buổi sáng tôi xuống bãi xem ghe đánh cá về, cá đánh bắt ven bờ chỉ toàn là cá nhỏ. Xóm chài rất nghèo. Chiều chiều trẻ con đi đầy trên bãi để cào nghêu. Bờ biển ứ rác và phế thải của người. Nước biển đục ngầu. Nhưng nhạc sóng vẫn trong. Gió biển thổi mặn môi. Cát biển bay xót mắt. Đêm ở đó tôi ngủ trong tiếng mưa, tiếng mưa rơi tong tong trước thềm gạch tàu, tiếng sóng rì rầm xa xa gần gần, đêm nay nó không còn là tiếng u u mường tượng trong vỏ ốc, tôi choàng dậy để nhìn ra ngoài của sổ, nhìn và nghe, biển kia, mưa kia, thân thiết lắm với mùi hương ký ức. Bao giờ nữa anh em mình lại được quây quần bên một bàn ăn dài, ăn những món hải sản thơm mùi biển của chúng ta kết với rượu vang quê hương chị Geneviève? Những cánh hoa giấy đỏ buông xuống vẫy tiễn tôi, ánh mắt nâu hạt dẻ của chị nhìn theo, nụ cười hiền của anh Khoa như cánh thuyền rất nhỏ, bập bềnh trên sóng. Tôi khép mắt để nghe rưng một hạt lệ, tiếng rơi trong trên mặt hồ thời gian để hiện ra những ảnh hình tưởng đã quên dưới dòng phẳng lặng…
Lại một buổi cả nhà leo lên xe, lòng ai cũng vui vì nơi tới là Đà Lạt. Ôi Đà Lạt một thời là ước mơ của tôi, đi Đà Lạt hồi đó bao giờ cũng là một phần thưởng khi học hành có kết quả tốt, không, phải xuất sắc mới được, vì thế ngày đó tôi đi Đà Lạt không quá ba lần. Tôi không về ký ức mà đi đến một nơi giấc mơ chưa viên thành.
Đến Đà Lạt vào tối, trời mưa. Tôi ngồi co trong chiếc ghế cạnh chỗ người lái, nhìn mưa Đà Lạt rơi hối hả rồi tan trên mặt kính xe, tôi thoát ra cơn mỏi mắt buồn ngủ vì nhìn mãi vào chiếc cần gạt nước, quay ra phía cửa sổ. Phố lóa xóa mặt gương, đèn xe xanh đỏ lập lòa như những ánh lân tinh ở một phố âm, cậu em ngồi hàng ghế sau vừa nói, không biết đêm Đà Lạt còn chợ âm phủ không, tối nay tụi mình đi nhen. Giọng cậu không có vẻ chi là phấn khởi mà rù rì như nói trong lúc đang ngủ, tôi cười, nếu hết mưa Khiêm à, giọng tôi cũng nhỏ, tại không khí dào dạt mưa chăng. Tôi chợt bấm kính cửa xe xuống, mưa hắt lạnh, và tôi giật mình vì tiếng còi xe quá lớn, vội bấm kính lên. Hình như có cả âm thanh tiếng nói nữa, không phải âm của Đà Lạt, hồi trước, khi tới đây, tôi gặp rất nhiều tiếng Huế… Nhưng mà cảm giác lúc chạm vào gió vào mưa Đà Lạt thế nào nhỉ, giật mình vì tiếng còi xe, bỡ ngỡ vì âm một giọng nói quá lạ, chỉ vậy thôi. Khi đi ngang khách sạn Anh Đào, tôi mơ màng thấy mình cùng các bạn đang đứng dán những tờ cổ động cho liên danh ứng cử dân biểu của ba tôi năm nào, đó là lần thứ hai tôi lên Đà Lạt. Lần đầu, vừa xong năm thứ nhất Luật, ba thưởng cho một chuyến đi, thật đáng nhớ, lên tới nơi ba mẹ cùng mấy người bạn tập trung ngồi nhà đánh bài, để ba con nhỏ, là chị em tôi và Bích, con bác Chi, ngồi chèo queo nơi phòng khách có ngọn lửa bập bùng trong lò sưởi, tôi thì không sao, vì tôi có một nỗi nhớ đầy ắp trong người, ở đâu đi nữa thì cũng đâu có một mình. Kỳ đó Đà Lạt chỉ là Hồ Xuân Hương và quán cơm Như Ý. Hết. A quên, còn có một con dốc nằm thơ dại đẫm ánh trăng cùng Bích và một chàng sinh viên trường Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt nữa. Lần thứ hai vui hơn vì đông bạn bè, lại được đi chơi thoải mái, nhớ những hạt mưa bay trên đỉnh LangBiang, có Hà cầm đàn ngồi hát cho một cô gái Đà Lạt đẹp như mơ…Đưa em về dưới mưa nói năng chi cũng thừa…(Nguyễn Tất Nhiên, Phạm Duy) trời lạnh giọng chàng run hay tại người đẹp? có Tiến với giọng Bắc trầm, vừa hát ta nghe nghìn sợi nhỏ rớt xuống đời…(TCS) vừa bấm máy chụp hình, có Khương điều động việc dán bích chương, kỳ đó liên danh ba tôi thất cử nhưng chúng tôi được no nê Đà Lạt gần một tuần, có Thanh giọng như tiếng gió thổi qua những tua lá thông, có Tính đọc thơ giọng Bắc nũng nịu, kéo đêm Đà Lạt chùng xuống nỗi buồn nhẹ như khúc nhạc dạo đầu, vạt áo em xưa, anh giữ trong tay, lời tình chợt ngỏ, em khóc bất ngờ, đêm run bóng lá, nho nhỏ trời mưa…thơ ai vậy Tính?
Có người ở xa nhờ tôi chuyển lời chào đến quỳ vàng, nhưng sáng hôm sau đi trên đường không thấy một mắt quỳ nào dòm ngó, quỳ ơi, rất tiếc, tôi muốn nhìn lại để xem cảm xúc mình có khác ngày xưa không, sau khi đã thấy được màu vàng lộng lẫy buồn trong văn Nguyễn Xuân Thiệp, người đã muốn có một cây quỳ vàng trên mộ cỏ mốt mai, lãng mạn quá tình yêu dã quỳ, nhà văn ơi. Và cũng chẳng có một cánh én nào dưới mái lầu Hotel du Parc như người kể để tôi có thể gửi cho người một chút xuân hồi tưởng, chỉ chênh vênh con gà trên đỉnh nhà thờ có lẽ là chứng nhân chung thủy của thời gian và gìn giữ kỷ niệm của người dân Đà Lạt, của người yêu Đà Lạt nay đã tản mạn những phương trời. Đến tối, đi dạo Đà lạt đêm, thì tôi thật sự thất vọng, không còn một Đà Lạt trong trầm lặng rét nữa, những người trẻ đi thành nhóm đông la hét ồn ào, đứng trên bậc thềm cao ngó xuống khu chợ Hòa Bình thì chỉ thấy người và người nườm nượp bát nháo. Bên lề thì la liệt những đống quần áo cũ bán mua tấp nập. Ôi, muốn lãng mạn một chút với Đà Lạt cũng không xong rồi. Tôi nhớ đến tiếc con đường dốc trong đêm bập bùng ánh lửa của người dân tộc bán ngo và thổ sản của họ. Ánh lửa khơi động một ấm áp tràn ngập thổi Đà Lạt hun hút vào ký ức. Đâu rồi, đâu rồi cái khí hiu hắt lạnh thơ mộng ấy? Đà Lạt như cô gái thức dậy, cắt phăng mớ tóc dài mơ, mặc quần jean áo thun nhún nhẩy vào nhịp dồn dập sống còn của khúc ca hiện đại. Thúy Anh nói, chắc dưới kia là chợ Âm Phủ. Khiêm cười, lúc nhúc ồn như kia chỉ có chợ dương phủ thôi em, quả thật là tôi cũng không đủ can đảm để bước xuống những bậc thang đi tìm chợ âm phủ trong biển người dương thế kia, cho dù rất nhớ ly sữa đậu phộng bên hông chợ. Quỳnh thì sau đó nhất định phải đến “quán chè khép một bên cửa”, không biết nghe ở đâu, cửa quán chỉ mở già nửa, không phải để ngăn ngừa cái huyên náo bên ngoài mà là nhét vào những lộn xộn nhất có thể của một quán chè đêm…Tôi cùng các em vội vã ăn và vội vã quay về. Thế là không sữa đậu nành nóng, không hạt dẻ ấm trong túi áo, và tiếc thay tôi cũng không có kỷ niệm nhiều với Đà Lạt để mang mình đi đến với Đà Lạt sang trọng trầm lặng ngày cũ. Cứ thế mà phơi mình đi giữa một không khí Đà Lạt bị cày xới thô bạo bởi những mỹ quan kiểu mới. Muốn nhắn nhủ với những ai yêu Đà Lạt, có về hãy trang bị cho đủ đầy nỗi nhớ và chiếc áo giáp của kỷ niệm để chống đỡ với những bất ngờ của Đà Lạt. Hôm rời Đà Lạt khi đi qua đèo Bảo Lộc, tự nhiên nhớ lời dặn dò cột tóc của nhạc sĩ họ Trịnh với hồng nhan tri kỷ…Trong tôi không có một lời hẹn nào để trở lại Đà Lạt. Và coi như vẫn còn đó, một giấc mơ chưa thành.
Một đêm, tôi nói, mai mẹ về lại Mỹ rồi (nhớ hôm ở Mỹ, cũng nói, mai mẹ về Sài Gòn rồi, hai nơi đều là về cả, là sao), con trai Khánh Chương ôm vai, ngập ngừng, bây giờ cho mẹ bịnh đi, cũng được để mẹ ở lại thêm nữa nhen mẹ… Hạnh nói, con trai nhớ mẹ rồi đấy mẹ ơi. Hình như đêm đang ngừng trôi, phải không, những giọt đêm khẽ khàng ru tôi từng nhịp ấm của hạt lệ. A, tôi biết rồi tôi đã lần theo nhịp đập trái tim hai đứa con yêu dấu này để về. Về đây, và đang nằm ngủ trên chiếc giường ba tôi đã ngủ năm nào. Nghe dòng sông thế hệ nhịp nhàng từ ba mẹ tôi đến tôi, rồi các con tôi, và kia bùng reo, cô cháu nhỏ. Hôm rời Sài Gòn, đang kéo hành lý ra cổng, chị Liên nhắc, thắp nhang ba chưa? Tôi vội chạy lên lầu, là để cho chị vui thôi, chứ ngày nào tôi chẳng lên nhìn và nói với ba đôi lời. Nhưng ba tôi đâu riêng ở đây, nơi nào mà trái tim các con ông còn đập, thì ông ở đó.
Và Sài Gòn, mãi mãi là một hơi thở, của tôi. Những kỷ niệm thuộc về Sài Gòn như một tấm khiên che chắn cho tôi bớt hụt hẫng về những đổi thay, hóa ra tôi chẳng phút giây nào nhìn thành phố này bằng con mắt xác phàm, chẳng thấy gì cả ngoài một Sài Gòn đầm đìa kỷ niệm. A, tôi lần theo hoa rụng tuổi thanh xuân mộng ảo mà về đấy thôi.
Chỉ một nơi ở Sài Gòn bây giờ tôi bước đi không bằng ký ức. Con đường bờ kè kênh Nhiêu Lộc. Tôi bước dọc theo con đường mới mẻ, cái nhìn mở ra vui như nắng đang xiên qua những hàng liễu rủ, gió thổi thốc từ phía ngôi chùa xa cạnh Viện Đại Học Vạn Hạnh xưa làm tóc tôi bay, tôi không thể tưởng là mình đang đứng bên dòng kênh khẳm đen nhếch nhác khi xưa, có lẽ lần sau Khánh về thì nước kênh sẽ trong. Giọng anh tôi nhỏ nhưng có vẻ như anh đang nói về một công trình của mình. Điều ấy làm tôi vui. Tôi nói, nếu nước kênh trong, nhớ nói để Khánh về. Tôi đang nghĩ đến chuyện cổ tích, soi xuống dòng trong để tỏ mặt mày… tất cả sẽ đổi thay như kênh Nhiêu Lộc này, những vẩn đục sẽ lắng xuống để dòng trong.
Nhớ nói cho em biết khi nước kênh Nhiêu Lộc trong nhé, anh Khải.
Vậy là tôi có một lời hẹn với Sài Gòn rồi. Và, nếu có, thì tôi cũng sẽ về vào mùa mưa để tiếng mưa trả lại cho tôi những lời tình tự.
*******
Nguyễn Lệ Uyên
Miền Không Dấu Chân Người
Chuyến xe cuối ngày xuống khách ở ngả ba đường dẫn vào thị trấn. Lẫn trong đám người nhớn nhác là người đàn ông gày gò, vai lệch, hai hốc mắt trũng sâu, ngơ ngác đưa mắt đảo một vòng rồi khoát chiếc túi xách lên vai, lầm lũi bước trên con đường đất đỏ dưới cơn mưa lất phất.
Đứng trên đầu dốc, người đàn ông nhìn sững màn khói lạnh đùn lên thành dãi trắng đục lềnh quấn quanh chóp núi cao, những ngọn đồi lô nhô dưới xa kia và sự di động chậm chạp của những bóng người li ti bên những đường ranh đất đỏ giữa các vườn cà phê. Trong thị trấn, các hàng quán bắt đầu kéo hẹp cửa, sáng ánh đèn từ bên trong và mái hiên dội xuống, lẫn trong bóng chiều ngập sương.
Phía bên kia đường, người phụ nữ đi ngược chiều, mang chiếc gùi có mấy cọng bạc hà xanh mướt nhô lên. Cả thân hình chị chúc xuống như sắp ngã chúi về phía trước, trên con dốc nhoè đỏ giữa màu sáng lửng nhập nhoạng cuối ngày.
Người đàn ông dõi mắt nhìn một lúc, rồi tiếp tục bước dưới bụi mưa bay bay. Bóng tối xuống mỗi lúc một đậm hơn.
Người đàn ông bước ngập ngừng qua mấy dãy phố nhỏ rồi ngóng về phía ngọn núi trước mặt bắt đầu nhoè sẫm. Ông không nhớ mình đã bám xe đò lên miền đất này bao nhiêu lần để nhìn nó, rờ chạm vào nó như đang trở về với người thân, như tìm kiếm vật báu đã rớt lại chốn này. Ông đã bao lần háo hức bước ngược lên dốc núi dựng đứng, rồi thả rơi về chốn cũ với vẻ mặt đầy thất vọng đau khổ.
Lần này, ông cũng bắt đầu bằng nỗi háo hức mới nguyên khi cắm đũa vào tô mì đang bốc khói nghi ngút, trong ngôi quán dựng bằng những tấm cót mò o. Những sợi mì vàng quấn quanh đôi đũa không ấm lên bóng núi nhoè vào bóng đêm. Một chút khí lạnh trườn tới quanh tô mì tưởng có thể thò tay nắm lên được.
Đang lúc ăn, khách không nhận biết người chủ quán bước ra, đứng sau lưng. Ông ta cao to. Râu quai nón và râu mép xồm xoàm làm cho khuôn mặt càng thêm u tối. Chủ quán quan sát khách một lúc rồi bước tới, ngồi xuống phía đối diện, bộ dạng dò xét, vừa lôi từ túi áo gói thuốc, bật quẹt rít một hơi thật dài, phun khói mù mịt. Đợi khách ăn hết tô mì, ông hỏi: “Ông đi đâu giờ này còn ngồi đây?”. “Lên đỉnh núi 635, ngọn núi Tử Thần”. “635 là núi nào?”. “Ngọn núi cao nhất ở trước mặt kìa”. Người đàn ông bật cười ha hả, những cọng râu cũng bật rung theo: “Núi chư Đ’rắk. Đó là chư Đ’rắk. Mà ông lên đó làm gì?”. “Tìm một người”. Chủ quán ngạc nhiên vừa liếc nhìn vào chiếc tô trống trơn trên mặt bàn gỗ. Ông ta lắc đầu, rít mạnh hơi thuốc rồi quăng tàn vào vách. Mẫu thuốc thừa bị chạm mạnh lên vách ván văng ra những đốm đỏ li ti và tắt ngấm mau chóng. “ Lên núi tìm người. Lạ thật, nhưng trời tối rồi, sao đi kịp? Ở xứ này không có quán trọ. Mà cũng thiệt lạ, ngọn núi kia cất giấu những thứ của quí gì nhỉ? Tôi nghe nói có một người đàn ông cứ thỉnh thoảng lại lên thị trấn nhỏ này rồi mò vào núi tìm kiếm cái gì đó. Chợt đến chợt đi như con chim nhớ tổ, như con sói mẹ đi tìm đứa con đã bị đánh cắp”. Khách dừng đũa ngó vào mặt chủ quán định nói gì đó nhưng rồi lại tiếp tục cúi xuống tô mì chỉ còn chút nước lợn cợn dưới đáy. “Anh không biết đấy thôi – chủ quán đổi cách xưng hô- Ngày xưa, trên ngọn núi này là nỗi kinh hoàng của quân hai bên. Tất cả đều bị san bằng, không một ai sống sót, thành một nấm mồ tập thể. Kinh khủng. Chiến tranh thật kinh khủng”. Nói và chủ quán thẫn thờ nhìn những vạt sáng tối nhảy nhót ngoài hiên, thò tay vào túi áo định rút điếu thuốc khác châm lửa, nhưng nghĩ sao rụt tay lại, nhìn vào mặt ông khách. “Anh có ai quen ở thị trấn này không?”. “Không”. Ngẫm nghĩ một hồi: “Nhà chỉ mỗi một chiếc giường. Hay tôi lấy tấm bạt anh nằm tạm trên nền vậy. Tôi vào rừng khuya mới về”.
Trong khi nói, bộ râu trên mép và chòm râu dưới cằm luôn khua động, có vẻ như lời nhắc chừng người khách lạ, cho đến khi đôi môi khép lại thì hình như sự bình yên như mái hiên nhà được kéo dài thêm ra một chút cho khách.
Cái lạnh và mệt mỏi đường xa khiến người đàn ông cong rút trong tấm bạt quấn kín lại như con sâu kèn. Mưa gõ lào xào trên mái tôn. Tiếng gió chạm, tiếng chim đêm kêu thảng thốt ngoài cánh rừng, nghe thật gần; có cả những tiếng lộc cộc đều đều như có người cầm búa gỗ gõ lên thân cây mục. Những âm thanh và gió ngái lạnh kéo sụp hai mắt người khách lạ bằng tiếng thở nặng, gãy khúc.
Giấc ngủ chập chờn đu đưa qua lại trên mẫu xương cá nhọn vây quanh ngọn đồi. Những tiếng lộc cộc vỡ toác ra, rít lên the thé, vỡ toang tiếng nổ bên giao thông hào. Đất đá khạc ra màu đỏ của lửa rực và máu, còn bên trên, tít trên cao kia là chiếc chổi của mụ phù thuỷ xịt từng cột khói đen ngùn ngụt, lúc cao lúc thấp cùng với những tiếng nổ đến trời long đất lở.
Cả đại đội của anh chẳng khác gì bầy gà con bị ném vào vũng cỏ rối. Bên dưới kia, trong các khe lũng, dòng suối, đối phương trùng trùng lớp lớp ào lên như thể những đợt sóng thần dựng đứng và bổ ầm xuống. Hết đêm lại ngày. Từ ngày này qua ngày khác. Cái chảo lửa khổng lồ ấy hừng hực thiêu đốt cả trăm sinh mạng, đẩy ngược từ phía lưng núi gãy lên tới đỉnh bằng kèm theo những tiếng nổ xé nát núi rừng. Cả đại đội chỉ còn mươi người không lành lặn, co cụm về phía các hốc đá như những mộ huyệt định mệnh, không còn đủ sức chống đỡ đối phương băng lên. Trên cao kia là những chiếc chổi lem luốc và những con mụ phù thuỷ lem luốc dữ dằn không ngớt khạc nhổ những bãi nước bọt trắng xanh, tanh lợm xuống đỉnh đồi.
Cứ điểm 635 trở thành vũng bùn nhão nhoét. Thân thể anh bị hất tung ra khỏi hốc đá. Khẩu súng trên tay hình như biến thành con cá núi lặn tít xuống vực suối sâu. Sau đó, thân thể mọc ra đôi cánh, từ từ bay lên chóp trời mây trắng và tan loãng thành những hột nước mưa ngập ngừng rơi không đến mặt đất.
Anh nghe miệng mình khô khốc và đắng nghét. Toàn thân như thỏi sắt nung. Chung quanh yên tĩnh đến rợn người. Ngày hay đêm sau đôi mắt khép cứng? Hình như có ai đó bỡn cợt dùng cây lẹm khâu kín hai mí mắt bằng sợi thép gai? Và anh đang ở đâu?
Mắt không mở. Cả người cứ lạo rạo như những hạt sỏi nhỏ, dần súc trong chai. Đôi chân thành hai tảng đá. Hình như cả tay cũng hoá đá? Đầu cứ lụp bụp lói nhói những hột bắp bị ghè lăn trong đường rãnh cối xay đến nát ngứu.
Ngày và đêm không còn xù xì hình dạng. Mọi tiếng động trước đây đều im bặt. Im lặng đến có thể kéo nhổm cả cánh rừng bạt ngàn bay qua miền đất không có tên tuổi..
Lại lịm đi. Lại tỉnh dậy. Có tiếng rên yếu ớt đâu đây. Tiếng từ lồng ngực vỡ của mình thoát ra hay tiếng xương gãy khua chạm vào nhau? Mắt vẫn bị xâu kín. Tay chân không thể động cựa. Một sinh vật nhỏ bé áp vào thân thể anh âm ấm, thì thào “nưưư…ươ…”. Tiếng kêu mỏng manh như sương như khói, đứt quãng như một mảng mây mỏng bị trận cuồng phong kéo lên dập xuống đến tả tơi.
Thời gian trôi qua không biết bao lâu, nhưng giờ thì anh nhận ra, quanh quất đâu đây là mùi khói đạn, mùi nhựa cây, đá bị thiêu cháy trộn lẫn với mùi máu khô nồng nặc. Đầu óc anh nhận biết được rằng cả ngọn núi này đã thành tro bụi. Mọi sinh vật đều bị nghiền nát. Tiếng thì thào lại nổi lên. Anh cố sức quay về phía phát ra giọng nói yếu ớt, cố hết sức mở hai mí mắt một cách khó khăn và đau đớn. Theo bản năng, anh lần bàn tay vào thắt lưng và nhận ra chiếc bình đông nước còn đeo dính bên hông. Đất đá phủ kín người. Phải khó khăn lắm mới cong được tay gạt lớp đất đá, lần vào thắt lưng, chỗ có chiếc bình đông nhướng mắt về phía vừa phát ra những âm thanh méo mó khi nãy. Nhưng anh không còn cảm giác gì nữa, rồi lả đi, chìm trong cơn sốt chói loà màu đỏ lẫn với màu vàng cam nhảy nhót, quay cuồng. Bất thần một trái bom (hay một tảng đá) dội thẳng vào người anh, nát ngứu… Anh cảm thấy mình nhẹ tênh như một chiếc lông con thiên nga tự trời cao chao lượn mãi mãi trong khoảng không bềnh bồng mây trắng, mênh mông…
“Hình như anh đang lên cơn sốt. Anh đang kêu khản giọng câu gì đó không thành tiếng. Người nóng quá. Anh bị sốt rồi”, chủ quán nói với khách vừa lay lay một bên vai. Khách mở choàng mắt, chống tay ngồi dậy: “Lại những giấc mơ hãi hùng”. Cặp mắt không còn thần sắc ngó dáo dác ra bên ngoài, trong khi chủ quán chạy vội vào trong. Lát sau trở ra trên tay cầm chiếc khăn vải bọc những thỏi đá nhỏ. Chủ quán chà xát lên mặt lên cổ khách như thể một người thân lâu ngày, quá lâu ngày, trở về. Trời vẫn còn tối đen. Gió sột soạt luồn vào vách ván lạnh ngắt. Khách có vẻ dịu lại đôi chút. Chủ quán: “Để tôi pha cho anh ly cà phê”.
Bây giờ thì người khách lạ đã tỉnh táo chút đỉnh. Anh ta ngồi dậy, cuộn tấm bạt, chăn gối đặt ngay ngắn lên ghế. Hai ly cà phê bốc khói trên mặt bàn gỗ ghép bằng những mẫu ván bìa. Chủ quán lại rút thuốc châm lửa như một thói quen không thể dừng. “Hồi nãy anh kêu hãi hùng…?”. “Tôi luôn bị những giấc mơ kinh hoàng xuất hiện trong giấc ngủ từ hơn ba mươi năm nay. Nó lì lợm như một gã ăn xin truyền kiếp”. “Giấc mơ? Có những giấc mơ đẹp và những giấc mơ làm con người chết khiếp. Mà sao anh toàn mơ thấy những điều kinh hãi…?”. Khách rụt chân lại, đầu gối chạm lên mép bàn kêu thành tiếng. Suy nghĩ một lúc, khách lên tiếng: “Cái người đàn ông mà ông nghe nói đó là tôi. Chính là tôi”. “Anh đi tìm gì?”. “Ngọn núi chư chư Đ’rắk đó là nơi tôi bị ném xuống như người ta ném một viên sỏi cách đây hơn ba mươi năm. Sau khi tốt nghiệp trường Luật, tôi bị động viên, rồi trực thăng thả chúng tôi lên đỉnh núi tử thần này. Đó là một ngọn núi chiến lược. Bên nào chiếm giữ được nó coi như khống chế toàn bộ cả vùng rừng núi bao la trải dọc mạn tây-bắc thành phố, và hơn hết nó là cái nút chai bịt kín, ngăn không cho đối phương tràn xuống đồng bằng ven biển. Nó là cái yết hầu. Được là có tất cả. Mất là mất tất cả. Hai bên quần nhau từ ngày này sang tháng khác. Chúng tôi có phi pháo yểm trợ tối đa, còn đối phương thì có núi rừng điệp trùng, có những gộp đá che chắn cùng với sự gan dạ liều lĩnh…Bất phân thắng bại bỡi đồ tiếp tế (súng đạn, nước uống, lương thực…) từ trên cao thả xuống đỉnh núi chỉ đến được tay chúng tôi phân nửa. Phần còn lại là cánh quân lẫn trong màu lá rừng. Cả hai đều được tiếp tế đầy đủ nên tha hồ quần thảo nhau như thuở nhỏ chơi trò cút bắt. Tới một đêm mưa lắc cắc, cái lạnh của khí đá tràn về cũng là lúc họ dồn tất cả mọi hoả lực tấn công lên vành đai phòng thủ. Hình như họ từ dưới lòng đất chui lên, từ các cành cây hay trời cao bay xuống. Vành đai phòng thủ phía đông-nam bị vỡ, rồi tiếp tới mạn sườn phía bắc. Vậy là bao nhiêu bom đạn từ các chiến đấu cơ điên cuồng đổ xuống như vãi cát. Một ngày u ám, một ngày rung lên và bắt đầu cuộc giết chóc man rợ nhất: xoá sổ cả đại đội để xoá sổ luôn quân địch. Các đại đội trưởng, đại đội phó đều tử thương, trung đội đều tử thương. Tôi là chuẩn uý mới ra trường nắm quyền chỉ huy 14 người lính sống sót, mình mẩy đầy thương tích. Chúng tôi không đủ hơi sức chống đỡ hoả lực từ bên dưới bắn lên, từ trời cao dội xuống. Ngày tàn của kiếp người đã hiện rõ, thật rõ theo những chùm bom lấp loá trong ánh sáng hoả châu. Và không hiểu sao, tất cả 14 con người sắp về với cát bụi kia cùng một lúc hướng mũi súng lên trời cao bắn như điên như cuồng vào cõi trống không, như thể thoả mãn chút hận thù cay rát đang nhú mầm. Bỡi kẻ thù của chúng tôi lúc ấy, chính là những chiếc chổi nhớp nhúa trên cao kia chứ không phải quân đối phương đang tiến lên, cũng không phải chủ nghĩa, ý thức phản tỉnh này nọ. Sự sống và cái chết như một cành cây giữa giông bão. Mà bản năng con người luôn giành lấy sự sống trong tình cảnh khắc nghiệt trước mặt. Và rồi điều tệ hại nhất đã đến: hàng loạt bom tấn cuối cùng cũng dội cả lên đầu chúng tôi, lên tất cả những ai còn thở trên đỉnh núi. Những người lính của tôi, người ngã vật ra máu phun thành vòi, người bị nhấc bổng lên cao rồi rơi xuống như thể người ta cầm con cóc ném lên cao. Phần tôi chỉ kịp nghe một tiếng nổ long trời lở đất và một cột lửa bốc cao để thấy mình đang bay vào cõi chết tức tưởi, ô nhục nhất của tuổi trẻ”.
Chủ quán nhìn người khách lòng trĩu nặng, ái ngại. Chiếc bật lửa và điếu thuốc cầm sẵn trên tay, nhưng lửa không đốt lên, khói không bay ra. “Ơn trời phật, anh đã thoát chết, như…ưưng…”. Chủ quán ngập ngừng, bỏ lửng câu cuối. Khách nhìn chủ quán, hàm ơn sự cảm thông, chia sẻ. “ Tôi không biết tại sao mình sống sót trong cái chảo lửa khổng lồ kia. Khi mở được mắt, cử động được chân tay việc đầu tiên là vẹt những lớp đất đá phủ kín người nằm bên cạnh. Không phải là người lính mà một cô gái. Túi cứu thương vắt ngang ngực cô ta có hình chữ thập đỏ ướt đẫm máu. Quần áo cô ta rách toạc, mặt mũi đen nhẻm như anh lính cứu hoả vừa từ đám cháy dữ dội phóng ra. Tôi rút chiếc bình đông nhỏ từng giọt nước nhỏ vào miệng, dùng vạt áo rách lau mặt mũi…rồi tìm vết thương trên người: bàn chân bị dập gãy, bên hông sượt một vết sâu. Những vết thương trên người cô gái không rõ có phải do mảnh bom đạn hay là những vết cắt, dần của những mảnh đá vỡ xán vào. Máu me đầm đìa. Tôi nắn đến đâu cô ta cong người lại đau đớn tột cùng. Tôi mở túi cứu thương thấy có cả dao kéo và thuốc nhưng chẳng biết phải làm gì với chúng. Tôi dùng băng cá nhân từ chính chiếc túi xách trên người cô băng bó các vết thương, nhưng máu cứ chảy ra như những mạch nước trong các khe đá. Tôi chỉ làm được có vậy. Chung quanh không còn ai, không có gì để có thể cứu cô gái tỉnh lại và bớt đau đớn. Tôi bất lực, đầu óc mụ mị đông cứng. Lâu sau cô ta ú ớ: Đôô… ồng chí bị thư…ng n…ăặng khô… ông. Tôi nâng đầu cô lên ghé vào tai nói bằng chút sinh khí yếu ớt: Cô can đảm lên. Sẽ có người đến cứu. Cô ta mở mắt nhìn tôi và kinh hãi đến tột độ qua ánh mắt tôi nhìn thấy, thì thào: Còn chờ gì nữa, ông giết tôi đi, quân ba…án . Tôi siết thật chặt bàn tay nhỏ nhắn của cô gái cứu thương giọng phấn khích: Chúng ta đều là những nạn nhân khốn khổ… Không rõ cô có nghe được câu tôi nói không. Tôi chắc là không bỡi cô lịm đi, hơi thở thoi thóp. Trời bắt đầu mưa lắc cắc, gió lạnh lùa về mang theo bóng đêm ghê rợn. Với chút hơi sức còn sót lại, tôi mở chiếc áo chống đạn đắp lên người cô, kéo những cành cây gãy phủ lên che mưa, chắn gió. Nửa đêm gió lạnh dữ. Cô gái kêu khát. Tôi mở nắp bình đông với niềm hy vọng sẽ có người đến, dù bên này hay bên kia để cứu cô. Vì trong giờ phút ấy, tôi nghĩ bên nào tìm thấy chúng tôi, vấn đề thù hận, chính trị sẽ không còn là chuyện hệ trọng. Hai sinh linh thoi thóp kia cần được sống bỡi họ còn tuổi trẻ, họ còn ngày mai.
Bả vai trái của tôi bắt đầu đau nhức ghê gớm. Tôi có cảm giác như chiếc áo trận nơi bả vai cứ phồng lên từng giây từng phút. Cô gái bắt đầu mê sảng, sốt hầm hập. Bằng hơi thở yếu, giọng đứt khúc cô nói: Đồng chí làm ơn lấy cái ví trong túi áo. Nhà tôi ở phố chợ Hôm. Tấm ảnh gia đình…. Phải khó khăn lắm tôi mới nghe hết. Tôi kề sát vào tai nói không sao cả, cô sẽ được cứu, cô sẽ được trở về với gia đình, chúng ta sẽ được cứu sống. Đồng đội của cô sẽ đến ngay. Một lúc sau giọng cô bất thần vụt sáng chói như chiếc bấc đèn giữa đêm gió lạnh cắt da: Bên trường Y, em còn…. Tôi kề tai sát môi cô gái nhưng không nghe được gì nữa. Cô cong người lên, tay bấu chặt vào người tôi. Tôi vội vàng ôm người cô nhưng thân hình mỏng manh đầy máu me kia nguội dần, lạnh dần sau tiếng nấc nghẹn.
Đêm tối đen. Gió vi vút thổi qua ngọn đồi tan nát. Đất đá rơi xuống. Tôi không biết cả hai đang nằm ở đâu, trên đỉnh, lưng chừng núi hay đáy vực. Tôi ôm xác cô sinh viên trường Y và khóc. Tôi khóc vì sự bất lực của mình. Tôi khóc vì sự tàn nhẫn của chiến tranh, phi lý của một kiếp người, lòng hờn oán…Tôi khóc đến kiệt sức trong cơn đau đớn vật vã và rồi cũng chết lịm đi với cô sinh viên trường Y còn quá trẻ. Tuổi trẻ của chúng tôi.
“Chiến tranh thì ở đâu và lúc nào cũng vậy…, chủ quán thở dài với giọng buồn bã, trước tôi cũng ở binh đoàn Hương Giang, cũng từng chứng kiến cảnh vật vã của thương binh miền Nam, của đồng đội chúng tôi sau những trận đánh. Tôi cũng nhìn tận mắt cái chết của họ trên tay, tôi đã nhìn thấy nụ cười của họ khi nhìn tôi trong giây phút cuối cùng. Nhưng khốn thay những nụ cười ấy không làm cho chiến tranh ngưng lại cho tới khi…”. Khách ngạc nhiên nhìn chủ quán với cái nhìn đồng cảm. “Tôi định bụng khi tỉnh dậy sẽ dùng chút sức thừa còn sót, đào cho cô ta một mộ huyệt, sẽ xếp những viên đá bị bom dội nát kia thành một nấm mồ tuyệt đẹp nếu có thể, nhưng điều đó đã không đến, không bao giờ đến được; cũng như từ khi tôi phát hiện đến khi cô tắt thở tôi luôn cầu khấn cho cô qua được cơn đau đớn khủng khiếp, cô sẽ sống và trở về với gia đình, với những người thân yêu. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Lòng thành của tôi không thấu trời cao…”. “Rồi phép màu nào anh được cứu sống?”, chủ quán hỏi.
Khách xoay ly cà phê nguội ngắt trong lòng tay. “Đó là một bi kịch của đời tôi. Thay vì chết tôi đã sống. Thay vì sống để tự tay chôn cất cô gái xấu số kia thì tôi lại mất tất cả: Tỉnh dậy tôi thấy mình được nằm trên chiếc giường trắng tinh, người được băng bó như đang khoác tấm áo choàng lông trắng, sợi dây dài lòng thòng chuyền sự sống vào người tôi… Nước mắt tôi ứa ra. Lúc này tôi tỉnh táo hoàn toàn dù khắp người vẫn đau đớn. Những gì hiện ra đầu tiên trong đầu óc tôi lúc đó không phải là cha mẹ, anh chị… mà là cô sinh viên Y Khoa kia. Cô không đáng phải nhận lãnh cái chết như thế. Và điều tệ hại nhất khi tôi xuất viện (trên một chiếc tàu của hải quân Mỹ ngoài khơi) tất cả quần áo, vật dụng cá nhân đã biến mất. Chiếc ví cô gửi gắm cũng biến mất. Trong đầu tôi chỉ còn mấy từ chợ Hôm, trường Y… Tôi gào lên như một đứa trẻ bị mất đồ chơi. Tôi kêu chúng phải tìm trả cho tôi bằng được những thứ ấy, nhưng cái thằng y tá (hay bác sĩ?) há những chiếc răng trắng ởn: Are you nuts? I don’t know (*). Tôi nhảy bổ ba bước chụp hụt hắn, té lăn xuống sàn.
Chiến tranh thì có tội với tuổi trẻ. Còn tôi thì có tội với cô gái không nhìn rõ mặt, cũng không biết được tên tuổi, bỡi tôi đã không thực hiện được lời gửi gắm cuối cùng. Sau những tháng năm cải tạo, tôi đã tìm đến chợ Hôm, đi quanh các con phố, nhà nào cũng gõ cửa nhưng ai cũng lắc đầu. Thậm chí có người nghe tôi dài dòng về nhân thân và mục đích cuộc tìm kiếm, họ tỏ vẻ thương xót, cũng có lúc có người quay mặt đi cố giấu đi những cảm giác khó chịu. Hơn tháng trời không sót ngõ ngách nào. Cuộc tìm kiếm như cách để tôi trả nợ lần cuối cho cô, cũng rơi vào cõi trống không, vô vọng. Tôi ân hận vô cùng và luôn sống trong những mặc cảm bất lực, luôn bị dày vò.
Chủ quán tới lúc này mới đốt điếu thuốc nhưng cứ giữ mãi giữa hai ngón tay. Vòng khói trắng la đà cất lên rồi tan nhanh trước mặt hai người. Vòng khói như có như không kia khiến người khách chạnh lòng nhìn sững.
Khách đột ngột đứng lên, chìa bàn tay khẳng khiu về phía chủ quán: “Cảm ơn ông đã cho tôi ngủ nhờ một đêm. Giờ thì tôi phải lên ngọn núi kia”.
Chủ quán bóp chặt tay khách, không nói câu nào, yên lặng nhìn người khách lạ khoát túi xách lên vai, bước ra khỏi quán với đôi vai lệch làm cho những chân nhang màu đỏ nhô trên miệng túi đeo lủng lẳng trên vai cứ nhảy nhót theo từng bước chân khập khễnh của ông ta./.
Nguyễn Lệ Uyên