Huỳnh Hữu Ủy
- Huỳnh Hữu Ủy Viết Về Tranh Hồ Thành Đức
Trong khi không khí của Hồ Hữu Thủ khá nhẹ nhàng, thì tranh Hồ Thành Đức lại đầy vẻ bi thảm; cái thơ mộng luôn luôn hiện ra dưới một hình thái buồn thảm, cô quạnh và phần nào hơi tan vỡ, nứt rạn.
Với hội họa miền Nam trước 1975, tranh Hồ Thành Đức khá đặc biệt với kỹ thuật giấy dán của anh. Trên thế giới, kỹ thuật này không có gì mới mẻ. Ở Nhật khoảng thế kỷ XIII, XIV, nghệ sĩ Nhật Bản đã biết sử dụng những chất liệu như giấy, gỗ, vải để dán thêm vào tranh vẽ. Ở phương Tây, Braque và Picasso, đặc biệt là Braque đã đưa kỹ thuật này vào thế giới tạo hình, dùng những mảnh bìa với những màu sắc khó thể tạo nên bằng cây cọ của họa sĩ. Một vài chất liệu khác nữa được ghép lại và dán cứng lên nhau, và sau cùng, đường nét được phóng vẽ lên bao trùm lấy toàn thể những chất liệu đã được dùng đến.
Kỹ thuật dán giấy đã một thời cùng với trào lưu siêu thực và lập thể mà phát triển mạnh, gây nên nhiều chú ý và những tiếng vang sâu đậm khắp nơi, đã thử thách lắm nghệ sĩ nhưng không phải ai cũng có thể dấn bước vào, bởi vì không những nó đòi hỏi một sự chuyên tâm nghiên cứu, trau luyện để tìm ra một đường lối thể hiện mà còn đòi hỏi, một cách tất yếu hơn, những điều kiện tâm cảm nào đó của người nghệ sĩ.
Nói như nghệ sĩ siêu thực bậc thầy Marx Ernst, với những chiếc lông chim ta có thể kết thành một đám lông chim, nhưng không phải với keo hồ là có thể làm thành nghệ thuật ghép dán (Si ce sont des plumes qui font le plumage. Ce n’est pas la colle qui fait le collage).
Sau nhiều năm làm việc, thử thách với hình thức hội họa này, Hồ Thành Đức đã đạt được nhiều thành công đáng kể, chinh phục được công chúng thưởng ngoạn cũng như anh em sáng tác cùng giới. Phòng tranh bày tháng 5-1970, ở phòng triển lãm quen thuộc Pháp Văn Đồng Minh Hội, đã để lại những ấn tượng tốt đẹp về một đời sống nghệ thuật sâu sắc và một kỹ thuật khá cao đã được nắm vững. Trừ một vài tác phẩm có đôi chút tươi vui như Đồ chơi của trẻ con, Tĩnh vật và hoa, Vũ khúc Đông phương, gần như một thứ trang trí với vẻ lấp lánh của ánh sáng chiếu rọi qua những tấm kính rực rỡ trên các khung cửa nhà thờ gô-tích, tất cà các tấm tranh còn lại đều tỏ lộ một thế giới khá buồn thảm, với sắc độ hầu khắp là lạnh lẽo.
Màu sắc xanh xám, đen nâu trộn vào nhau, pha cùng với màu nâu sậm, màu chì của bầu trời mây tối. Cảnh vật bị đè nặng dưới sức ép của bạo lực và kinh hoàng, trầm lắng dưới những khối màu ảm đạm. Trên một đường phố, trên khuôn mặt mẹ già hay ngay cả thiếu nữ đang độ thanh xuân, trên những chân dung hay tĩnh vật cũng thế. Luôn tỏa ra trong tranh anh một nỗi buồn bã, trống trải, tan rả, những đau đớn và gãy đổ của một thời đại chia cách, phân hóa. Thế giới gần như tuyệt vọng và tan vỡ mọi bề, thực hết sức hiu quạnh, vắng bóng con người. Nếu con người hiện ra thì cũng đang tê cứng và biến dạng đi để trở thành một thứ đá im lìm, u uất, bất động mà bao nhiêu tiếng gào, bao nhiêu nỗi căm phẫn đều dồn vào bên trong. Chúng ta hãy thử kể đến vài tấm tranh trong không khí ấy: Gia đình trong cổ tháp, Ánh sáng trong Viện Bảo Tàng, Tình đá, Đá mặt trăng và tuợng Ai Cập, Tĩnh vật, Chân dung của người già, Thành phố xám, Giáo đường màu xám, Sau chiến tranh, Thiếu nữ trên tường rêu, Vết đạn trên thành phố Huế …
Khó cắt nghĩa chính xác tại sao trên tranh Hồ Thành Đức lại nhuốm đầy vẻ bi thảm, hoang mang và ác mộng. Nhưng ít nhiều chúng ta cũng đã biết đến những ám ảnh khắc nghiệt vào thời tuổi thơ họa sĩ, cùng những dằn vặt của thời tuổi trẻ, và sau cùng là tuổi trưởng thành trên một đất nước mà chiến tranh đang đè nặng như một định mệnh tàn khốc. Hẳn rằng tất cả những yếu tố ấy đã hợp nhau lại để dựng thành một thế giới riêng tư bi thảm.
Những năm về sau này, có lẽ tâm cảnh cũng biến chuyển theo với thời thế bên ngoài, khi chuyển qua giai đoạn thực hiện tranh sơn mài, khi căn nhà của Bé Ký, Hồ Thành Đức ở 78 bis Điện Biên Phủ (tức Phan Thanh Giản cũ) thực sự trở thành một xưởng sơn mài đáng chú ý ở Sài Gòn, thì tranh của Hồ Thành Đức đã vui tươi hơn nhiều, những mảnh vỡ trong collage trước đây càng làm cho sơn mài của Hồ Thành Đức sâu hơn và gợi cảm hơn, hầu hết các tác phẩm đều được nghiên cứu, thử tay, thực hiện trước bằng collage rồi mới chuyển qua khâu sơn mài để hoàn tất.
Tranh sơn mài của Hồ Thành Đức được sản xuất hàng loạt, không kịp đủ để bán, rồi theo các chuyến tàu, các người chơi tranh, các nhà sưu tập mà đi khắp thế giới. Bức Chân dung Chúa treo ở phòng khách lớn Hội Truyền giáo Hải ngoại Ba Lê (Missions Étrangères de Paris) được nhiều người thưởng lãm và cảm xúc. Nhà Bảo tàng Nghệ Thuật Thái Bình Dương ở Vác-Xa-Va (Warsaw), Ba Lan, năm 1984, đã chọn mua bức sơn mài Mẹ Âu Cơ của Hồ Thành Đức để giữ trong bộ sưu tập thường xuyên.
Tranh Hồ Thành Đức có trong nhiều bộ sưu tập riêng ở Pháp, Canada, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Đức, Thụy sĩ …
Một chút tiểu sử Hồ Thành Đức:
Sinh năm 1940 ở Đà Nẵng, theo học Trường Mỹ Thuật Huế, bỏ học dang dở và sau đó tiếp tục lấy bằng tốt nghiệp ở Trường Mỹ Thuật Gia Định. Giải thưởng Hội Họa Mùa Xuân 1963 với huy chương đồng. Tranh được Phủ Văn Hóa chọn để dự triển lãm quốc tế ở Luân Đôn (1965), Monaco (1965). Tham dự triển lãm lưu động giới thiệu văn hóa – nghệ thuật Việt Nam 1969, do Tổng hội sinh viên Nhật Bản tổ chức, với sự tham dự của Bé Ký, Nguyễn Gia Trí, những hình ảnh sinh hoạt âm nhạc của Trịnh Công Sơn v.v… Từ 1969-75, Hồ Thành Đức là giảng viên Mỹ Thuật Trường Đại Học Vạn Hạnh, và năm 1974 cho đến 30-4-75, đặc trách ban mỹ thuật áp dụng của Trường Đại Học Phương Nam vừa thành lập, với dự án sẽ tổ chức thành một phân khoa mỹ thuật. Hiện định cư tại California, Hoa Kỳ, vẫn thường xuyên tham dự các sinh hoạt nghệ thuật của cộng đồng người Việt nơi đây.
Vẻ Ẩn Mật
Trong Hội Họa Đinh Cường
Bước vào thập niên sáu mươi, hội họa Việt Nam bỗng dưng biến chuyển dữ dội, có tính đột phá với một lực lượng trẻ, mạnh khỏe, hừng hực lửa sáng tạo. Họ ào ạt vận dụng những tiếng nói mới, tất nhiên phải bắt liền mạch với nền nghệ thuật hiện đại của thế giới, rồi chính từ đó đã manh nha một nét gì đó riêng biệt của hội họa Việt Nam. Đinh Cường là một trong những khuôn mặt nồng nhiệt nổi bật ấy, phong nhã và đầy sự mê đắm. Suốt gần bốn thập niên qua, anh xuất hiện với những dấu hiệu riêng, dung chứa một vẻ bí mật rất riêng biệt. Một nhà phê bình văn học đã đề nghị chúng ta khi đến với một tác giả nào thì cần phải có một tấm bảng đồ chỉ dẫn và một quyển tự điển thuật ngữ riêng, cũng vậy, lần dò vào thế giới Đinh Cường, chúng ta cần có những dấu mốc, những cột đường và sự định hướng khi di động.
Đinh Cường thích đi đến những điều bí mật đằng sau cây cọ và những tảng màu. Cái ẩn mật hình như có một sức cuốn hút anh mãnh liệt. Quan sát cách làm việc của anh, chúng ta dễ nhận ra điều ấy. Những nét và màu cứ chồng chất lên nhau, bôi xóa, đào xới, lấp đầy, rồi lại mò mẫm đi tìm. Giữa những màu trầm tối, nâu xanh, tím thẫm, chợt lóe lên một vệt đỏ ấm cúng, vệt đỏ ấy sẽ là điểm quy chiếu để cân bằng và điều hòa. Đó chính là một con còng đỏ nhỏ tí xíu lấp ló giữa một bờ biển mênh mông, nhỏ tí xíu nhưng lại đủ độ nồng nàn để phá tan cái lạnh lẽo xanh thẫm trên toàn nền tranh. Hay cũng chính là cái chấm đỏ ấy, sẽ là một con chim mỏ đỏ rất lạ, hay một chùm bông hoa đỏ giữa một vùng hoang dại tràn đầy một màu xanh tối, với đá tảng, rêu phong và cây lá chen chúc.
Nhìn anh làm việc trước giá vẽ, nhiều lúc tôi có cảm giác anh cứ thả cho mình chìm mãi, chìm mãi vào trong biển màu sâu thẳm, nhưng bao giờ cũng vậy, rồi anh sẽ bắt được một điểm tựa để ngừng lại. Điểm tựa ấy không hẳn là một vệt màu mạnh và ấm, mà đôi lúc lại chỉ là một tảng xanh sậm lạnh lẽo, hay một mảng màu nâu ngã sang tím than. Lắm lúc, Đinh Cường dường như đã quên lãng hết cả cõi đời thực, anh như chỉ còn muốn sống một thế giới khác, đắm chìm trong những giấc mơ hư ảo, liên tục biến đổi, giữa những dấu vết dễ tan vỡ. Biến đổi trong cái không biến đổi, và không biến đổi trong cái biến đổi. Chẳng qua cũng chỉ là di động theo một qui luật vận hành tự nhiên. Tuy nhiên, chính trong cuộc vận hành ấy, giữa những tác động qua lại, anh đã tỏa chiếu lên thế giới sự vật một cách nhìn riêng của mình, hay đúng hơn, đó chính là cuộc đối thoại của một dấu ấn định mệnh, giữa vì sao hổ cáp hay thiên ngưu với dãy thiên hà mênh mông bất tận. Đinh Cường rượt đuổi những giấc mơ, và trên những nét và màu cứ mãi hoài di động, anh bất chợt tỉnh táo và dừng lại nơi một cảnh trí rất thơ mộng, thanh nhã, mà hình như luôn luôn u buồn và mù tối.
Về mặt kỹ thuật, có thể nói Đinh Cường là một trong những họa sĩ mới đã vận dụng đến cao độ những tình cờ bắt chợt được của các khối màu và hình thể. Giấc mơ và sự tình cờ của màu sắc và đường nét đã chập chồng lên trên hội họa của Đinh Cường. Ở đây chúng ta có thể nói là Cường rất tài hoa, phóng túng thả mình trôi nổi giữa nhịp điệu chuyển động của vô thức, nhưng rồi anh cũng dừng lại đúng lúc và mang tặng cho cuộc đời những bảng màu thực đẹp đẽ, phong phú, ảo hoặc đến độ kỳ diệu.
Tôi nhớ đến nhiều bức tranh rất đẹp của Đinh Cường, những bức tranh ấy hầu như đã mất tích hoặc bị hủy phá vì cuộc chiến tranh đẫm máu và tàn ác trước đây, nhưng chắc là những người yêu mến và quan tâm đến hội họa Việt Nam và sự đóng góp của Đinh Cường cũng còn nhớ đến, những Cầu Say, Đồng Nhập, Verdure, Con Chim Mỏ Đỏ, Nghĩa Địa Voi, Trăng Qua Vùng Đất Lạ.
Tranh của Đinh Cường, dù vô thể hay có hình tượng, thì cũng luôn là những phát biểu riêng biệt của anh: hình nét riêng, màu sắc riêng, rất đặc biệt là màu xanh lạnh vô cùng thơ mộng của anh. Tôi chưa hiểu vì sao Đinh Cường lại có vẻ bị ám ảnh bởi màu xanh ấy, nhưng nhìn chung có thể nói đó là một màu sắc đặc biệt của cả một thời kỳ hội họa Việt Nam, cái màu xanh pha trộn của ánh trăng, lá cây xanh, biển xanh, màu xanh nơi biên giới của sự sống và cái chết cùng tiếng ì ầm buồn thảm đến độ hung bạo của một cuộc nội chiến triền miên. Cái màu xanh ấy cũng có thể gặp ở một số họa sĩ tài năng đồng thời với Đinh Cường, như những Trịnh Cung, Nguyễn Trung, Nghiêu Đề, Hồ Hữu Thủ, không phải là toàn thể, nhưng nơi một phần sắc màu của Cao Bá Minh và Nguyễn Phước. Cái màu xanh thăm thẳm ấy đến với Đinh Cường 30 năm trước, và cho đến nay dường như vẫn còn là một ám ảnh đầy bí mật không dứt ra được.
Đinh Cường chọn lọc và yêu mến một số hình ảnh quen thuộc và gần gũi, những con chim nhỏ, những bông hoa nhỏ, thiếu nữ gầy nhưmột cành lau sậy phất phơ bên bờ núi, những chóp đỉnh nhà thờ giữa bầu trời xám, anh đã biến những hình ảnh ấy thành ký hiệu của mình.
Rồi nhiều lúc Đinh Cường đẩy những hình ảnh ấy biến thái trong những tiết điệu mới, thành rất là lạ và rất Đinh Cường, như hình ảnh một thiếu nữ đang nhảy múa để đánh thức những bông hoa trên một triền đồi, bên cạnh là một thiếu nữ khác ngồi trên mình ngựa với chiếc đàn mandoline nhỏ trong tay, cái chuông đỏ buộc nơi cổ ngựa cũng đang rung lên hòa vào cái rạo rực chung. Hay hình ảnh một người đàn ông lang bạt, giữa một buổi chiều xanh xám, đang lắng nghe tiếng còi tàu dội về từ một vách đá giữa vùng đồi núi Di Linh. Hình bóng người đàn ông ấy, đội mũ sụp, ngậm ống vố, ngồi lặng lẽ nơi một góc nào đó của cuộc đời, làm tôi nhớ đến những trang sách cực kỳ tài hoa của Nguyễn Tuân viết về những chuyến ra đi của anh chàng đãng tử. Ra đi, trở về, lại nhớ đến những chuyến ra đi, và rồi lại lên đường lang bạt kỳ hồ. Có lẽ hình ảnh ấy cũng có để lại dấu vết nơi Đinh Cường, tôi đoán chừng như vậy.
Đinh Cường đã sống thời tuổi trẻ của mình rất đẹp, thích đi qua những ga tàu, những trạm xe chuyển bến, những thành phố, những thành phố rất mới và những thành phố cổ kính, rồi thỉnh thoảng tá túc lại giữa những căn nhà bên đường chuyển dịch một thời gian, một đôi ngày, vài ba tháng, dăm bảy năm. Tôi đã đến thăm nhiều nơi anh lưu ngụ, nơi nào cũng vậy, dù ở một biệt thự sang trọng trên một dốc đồi, hay nơi một túp lều nghèo nàn giữa một xóm nhỏ, đều luôn tỏa ra các cung cách thanh nhã, quý phái của anh. Cái đẹp đối với một nghệ sĩ tạo hình là một vấn đề thuộc lãnh vực thị giác, là cái đẹp của con mắt, là sắp đặt sự vật cho hòa hợp, quân bình. Cho nên, ngay như cái thô kệch và xộc xệch thì cũng phải là một thứ xộc xệch trong hòa điệu vững chắc. Nói tắt lại, trước tiên, nó phải là cái đẹp hình thức, rồi từ đó mới dẫn vào chiều sâu của thế giới nội dung.
Những người gần gũi Đinh Cường hầu như đều dễ dàng yêu mến và quý trọng cái chải chuốt hình thức của anh. Từ thời còn rất trẻ, anh thích cung cách, dáng vẻ nghệ thuật của Modigliani, André Breton, Max Ernst, Hans Arp, Paul Klee, Paul Eluard; sinh hoạt của anh phải là đất Paris với khu Montmartre và nơi những căn nhà anh ở tôi đã thấy thấp thoáng cái vẻ đẹp kiểu cách ấy một cách rất tự nhiên, hòa hợp và rất thân mật.
Đinh Cường bước đi giữa cuộc đời một cách rất tài hoa, và trên hết mọi chuyện, có lẽ bản năng sáng tạo là sức đẩy nội tại dữ dội, đã thôi thúc và không ngừng đặt anh trước giá vẽ từng mỗi giây phút. Bức rức và bó tay thúc thủ nhiều năm sau l975, nhưng khi thời thế có mở cửa đôi chút, anh đã nắm ngay thời cơ để phát biểu tiếng nói của mình. Tôi còn nhớ khá rõ không khí một phòng tranh bỏ túi của anh ở phòng mạch một người bạn bác sĩ vào khoảng năm 1983. Tôi cũng có một chút kỷ niệm nhỏ với phòng tranh này, vì đến trễ vài phút, tôi đã mua hụt một bức tranh khổ nhỏ mà tôi rất thích, bức Tôi vẫn còn tiếp tục mơ mộng. Người mua tấm tranh này là một khuôn mặt trí thức đặc biệt của Sàigòn, là một nhà văn, nhà báo, giáo sư đại học, và trên hết mọi chuyện, là một con người chiến đấu cho lẽ phải và quyền làm người suốt mấy chục năm qua, vì vậy việc ông chọn mua bức tranh ấy cũng là một dấu hiệu đáng chú ý.
Cảm hứng từ tác phẩm điêu khắc “Je continue à rêver” của một nhà điêu khắc trẻ Tiệp Khắc. Đinh Cường đã dựng nên không khí của bức tranh, trên những mảng màu bôi bác tình cờ, anh phát hiện và nhìn thấy chân dung của mình. Anh chấm phá thêm một số đường nét để vẽ nên bóng dáng của người họa sĩ đang tiến công vào cái đẹp. Dùng chữ “tiến công” là hơi cường điệu, cho có vẻ mạnh mẽ và năng nổ, thực sự ra đấy là một hình ảnh khá nhẹ nhàng và rất thơ mộng: người họa sĩ mang trên lưng mình một bảng màu và những cây cọ mà từng mỗi cây cọ giống như là một mũi tên và palette vẽ giống như cái túi xắc của người thợ săn. Rất rõ ràng đó chính là một tuyên ngôn của Đinh Cường, mặc dù lặng lẽ nhưng cũng đã gây nên những làn sóng ngầm, giữa một thời kỳ đất nước đang phải đặt trong tay một chế độ toàn tri gay gắt. Ở phòng triển lãm này, mua hụt bức “Tôi vẫn còn tiếp tục mơ mộng” nhung cũng còn một chút may là mua được một bức khác cũng khá đẹp, là bức “Đánh thức đồi hoa”. Tôi nói là may, bởi vì một người nào đó đã chọn mua bức này, nhưng sau lại đổi ý, mua tấm khác, và tôi đã tức thời chớp ngay bức đó.
Trở lại với hình ảnh người đàn ông ngồi bên ga tàu vắng lặng cạnh một vách núi năm nào, gần đây, tôi hết sức cảm xúc gặp lại bóng dáng ấy nơi một cảnh ngộ khác. Nơi bức tranh Đinh Cường gọi là Vong thân, cũng là dáng vẻ ấy nhưng trầm buồn hơn, gã đàn ông ngồi lặng lẽ như tượng, nổi bật trên nền tranh xanh màu ngọc lục bảo; một đường chân trời cắt nghiêng, và màu trời xanh sậm hơn. Trên nền tranh, một con chim nhỏ đậu mong manh, như nhấn thêm một nét mô tả vào cảnh đời của một lãng tử mãi hoài lưu lạc. Dưới nhãn giới xã hội học, bức tranh này hẳn cũng có thể nói nhiều điều về một lớp người lưu lạc trên đất khách mà cuộc đổi dời lịch sử đã xô đẩy vào những bến bờ mới thực hết sức lạ lùng.
Đinh Cường đã sống một thời tuổi trẻ thực đầy thi vị và phong phú, và đã làm việc thực hết sức dữ dội. Số lượng tranh anh để lại rải rác khắp nơi rất là lớn, lên đến cả hàng ngàn tấm. Họa sĩ Việt Nam, dường như chỉ có Bùi Xuân Phái và Đinh Cường là có sức làm việc như thế mà thôi. Hiện nay, trước ngưỡng cửa của tuổi sáu mươi, trong cuộc sống lưu vong đầy áp lực và nứt rạn trên một đất nước xa lạ, anh vẫn gìn giữ phong cách của bao nhiêu năm tháng trước. Vẫn vui đùa với cọ vẽ, nồng nàn với đời sống, vẫn tiếp tục sử dụng những ký hiệu của mình, vẫn đặc biệt nhất với cách nhìn xanh thẫm vào những nỗi bí mật huyển hoặc. Và trên những bước chân chuyển dịch mới, vẫn giữ được ngọn lửa âm ỉ cháy trong lòng mình cho một cuộc sống lang bạt với đất trời và cái đẹp.
Huỳnh Hữu Ủy