Vương Đàm

Vương ĐàmGốc

Giá Trị Huyền Sử Việt

Giữa Huyền sử Việt và huyền sử Mường có nhiều nhân vật gần giống nhau: Lạc Long Quân có tên gần như dịch âm sang chữ nho từ ba tiếng Lang Cun Cần. Cuộc đời của Lạc Long Quân bất tử, cuộc đời của Lang Cun Cần cũng bất tử.
Những nhân vật như: bà Thu Thiên, bà Da Dần, nàng Ả, nàng Dật Cái Dành, thằng Bờm, Toóng In, Rùa Vàng v..v… có trong huyền sử Mường, tuy không hoàn toàn, nhưng cũng gần giống với các nhân vật: bà Âu Cơ, bà Thiếu Hoa (tổ nghề dệt lụa làng Cổ Ðô, Hà Tây), thằng Bờm, Thủy Tinh, thần Kim Qui v..v… của huyền sử Việt. Trứng chim “chín cạnh bảy góc” nở ra nhiều giống người cũng không khác mấy so với “bọc trăm trứng nở trăm con” của huyền sử Việt. Các hiện tượng sinh thái như cây si, cây chu của Mường cũng gần giống như cây chiên đàn của Việt. Chim Tùng, chim Tót có trong huyền sử Mường khiến cho người ta liên tưởng tới chim Hồng, chim Lạc là hai thứ chim tượng trưng cho giòng giống Việt Nam, nhiều người Việt không quên câu “Việt điểu sào nam chi” (chim Việt làm tổ cành phía nam).
Nội dung chính của hai huyền sử Việt và Mường khác nhau ở chỗ: huyền sử Việt như đóa hoa thơm tỏa hương mời gọi mọi người vào trong cộng đồng: hợp chủng, hợp nhất, bình đẳng, tương thân. Trái lại huyền sử Mường như tòa thạch trụ kiên cố, tạo nên sức mạnh tự chủ để bảo vệ.
Quan niệm của Việt là:
” Ở đời muôn sự của chung,
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”.
Quan niệm của Mường là:
” Lúa ở mường Trời,
Nghe lời mường con gọi,
Lúa về mường này làm giàu làm có.
Bao nhiêu khốn khó bay về mường xa”.
Huyền sử Việt đã trải qua giai đoạn “lột xác” để vươn cao hòa đồng, để có sắc thái nhân sinh quảng đại, gắn bó nhiều chủng tộc Việt như một chủng tộc trong cuộc sống càng ngày càng tiến bộ, liên kết, hợp quần giữa con người và con người.
Buổi tương cận giữa huyền sử Việt và huyền sử Mường là khi các khu vực quần thể dân tộc còn ở các điểm: vùng châu thổ sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, sông Cả cùng một số đảo thuộc vịnh Hạ Long. Vào thời cổ cư dân sống tại các vùng nói trên chưa có sự giao lưu nhiều. Ðặc biệt sinh hoạt cư dân Việt miền trung bộ sông Hồng có môi trường thuận tiện để tiếp xúc, giao lưu sớm với các cư dân Việt miền thượng nguồn sông Hồng, miền Lĩnh Nam, đồng thời lại tiếp cận hòa hợp rộng lớn với các quần thể cư dân Việt các vùng trung du, duyên hải và hải đảo cùng nhiều dân các nơi phương xa tới lưu trú. Huyền sử Việt vì thế ngay từ thuở ban đầu, thay đổi biến hóa để phù hợp với nhiều huyền sử Việt khác. Trong khi đó huyền sử Mường tồn tại với tính chất thuần túy chủng tộc, bảo tồn truyền thống các cư dân tiếp cận rừng núi như Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn Tây, Phú Thọ, Việt Trì, Sơn La. Ðặc biệt các vùng đất có dân tộc Mường cư trú, về phong tục tập quán bảo vệ được nhiều sinh thái cổ. Ðó là các vùng có địa lý sinh hoạt vừa có tính chất tài nguyên tự túc vừa có địa hình hẻo lánh (thí dụ vùng mường Pi ở Hòa Bình).

Tháp Bút bên bờ hồ Hoàn Kiếm Hà Nội
trên thân tháp có ba chữ nho ngụ ý viết
lên trời: tả thanh thiên
Sách “Lĩnh Nam chích quái” viết về huyền sử Việt:
“Âu Cơ ở với Lạc Long Quân giáp một năm, sinh ra một bọc trăm trứng, cho là điềm không hay nên đem bỏ ra ngoài đồng nội. Hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai, đem về nuôi nấng không phải cho ăn, cho bú, mà tự nhiên cao lớn, tài trí song toàn, ai cũng mến phục, bảo nhau đó là những anh em phi thường… Lạc Long Quân hay đi và ở lâu dưới thủy cung, mẹ con Âu Cơ kéo nhau lên biên giới phía Bắc. Hoàng Ðế nghe tin lấy làm sợ mới đem binh trấn ngự quan tái. Mẹ con không tiến về phương Bắc được, đêm ngày gọi Long Quân:
-Bố ở phương nào làm mẹ con ta thương nhớ?
Lạc Long Quân hốt nhiên lại đến, gặp vợ và các con ở Tương Dạ. Âu Cơ nói:
-Thiếp vốn người gốc trên đất, cùng ở một nơi với chàng, sinh được một trăm trai mà không có gì nuôi dưỡng, xin cùng theo nhau, chớ nên xa cách bỏ nhau khiến cho mẹ con thiếp không chồng, không cha, sống vò võ bơ vơ.
Long Quân bảo:
Ta là loài Rồng sinh trưởng ở thủy tộc. Nàng là giống Tiên người ở trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm dương hòa hợp lại mà có con, nhưng khác loài, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau lâu dài. Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm mươi con về biển phân trị các xứ, năm mươi con theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước, nhưng có việc gì thì cùng nghe không được bỏ nhau”.
Ðọc huyền sử “cha Rồng mẹ Tiên” thấy chính Lạc Long Quân nói với Âu Cơ: “-Ta là loài Rồng sinh trưởng ở thủy tộc, nàng là giống Tiên người ở trên đất”. Rõ ràng nhân vật hệ trọng nhất trong huyền sử đã tự xác nhận chính bản thân mình thuộc giòng giống loài Rồng sinh trưởng ở thủy tộc. Rồng là đệ nhất trong bốn linh vật, từ xưa là một linh vật tưởng tượng của người Á Ðông tượng trưng cho trời, mây, nước, qua những thay đổi biến hiện hình sắc. Rồng cũng là linh vật tối linh, cao quí đối với con người, thường người xưa cũng cho rằng các bậc minh quân hoàng đế đem lại hạnh phúc cho lê dân là những bậc có tướng diện như rồng. Hiển nhiên lời nói của Lạc Long Quân đầy đủ sự chính xác để xóa bỏ những giòng huyền sử ngụy tạo: Ðế Minh sinh ra Lộc Tục (Kinh Dương Vương) và Lộc Tục sinh ra Sùng Lãm (Lạc Long Quân). Khi tự thân huyền sử đã xác định cho chính huyền sử, không có giòng sử nào có thể xuyên tạc được.
Sự kết hợp giữa Rồng của trời, mây, nước với Tiên trong đất mà sinh ra “bọc trăm trứng” rồi nở ra “trăm con trai”.
Trời, mây, nước và đất được nhân cách hóa trong huyền sử theo trí tưởng tượng của người xưa. Hai tên gọi tôn kính cùng trừu mến: Lạc Long Quân và Âu Cơ là hai tên gọi chỉ Trời và Ðất chuyển biến theo thời gian, vừa nhân cách vừa thần linh hóa của huyền sử. Không ai có thể chối cãi: Ðất cần có Nước, ánh sáng và không khí mới nảy sinh thực vật, động vật. Và nhiều loại động vật phải có mặt trên trái đất trước khi có con người.
Cái “bọc trăm trứng” cũng nên hiểu là khoảng không gian to rộng bao la gồm ánh sáng, thời tiết, không khí. “Hơn bảy ngày trứng nở” cũng ngầm hiểu mỗi ngày của huyền sử dài hàng triệu năm, tương tự như bảy ngày tạo ra trời, đất và người của huyền sử Kitô giáo.
Vị vua Hùng đầu tiên của giòng họ Hồng Bàng (Hồng ngụ ý tươi hồng rực rỡ, Bàng là rộng lớn. Nghĩa rộng là vừng hồng thái dương lúc bình minh lan tỏa khắp nơi), chắc không phải là người con trưởng ở trong số trăm con. Vì “bọc trăm trứng” khi Âu Cơ sinh ra rồi đem bỏ ra ngoài đồng nội, hẳn chẳng thể có ai làm chứng nhân để biết: – Trứng nào nở trước? – Ai trưởng? – Ai thứ? Suy luận như thế mong thấy lẽ công bằng, hợp lý của huyền sử đối với các chủng tộc trong cộng đồng dân tộc. Huyền sử Việt không thấy có sự phân biệt kỳ thị nào. Nó cũng ngụ ý: bọc sinh trăm trai tất không thể sinh ra các con cháu về sau, sẽ phải kết hợp với các giống nữ các giống người khác. Ngay từ khởi thủy giống Việt đã là sự kết hợp của nhiều chủng tộc.
Chủ thuyết và chế độ phong kiến bất động không tiến bộ, nhưng nó đã tồn tại trong cõi nhân thế Á Ðông khoảng hai nghìn năm. Chính nó là thủ phạm làm huyền sử Việt bị xuyên tạc và bị bôi nhọ. Huyền sử Việt đã phải chấp nhận thời gian dài những phi lý và bất xứng.
Những nhận xét chân thực và rõ ràng về huyền sử Việt, căn cứ ở ba điểm:
1. Huyền sử Việt nêu tính chung một gốc của mọi người dân Việt, dù con người đã có từ thuở mới có đất nước, hay sau này mới tới để hội nhập.
2. Huyền sử xác nhận sự bình đẳng giữa con người và con người.
3. Huyền sử đề cao tương thân và đoàn kết, dù “trăm trứng trăm con” nhưng vẫn chung “một bọc”. Khi đã biết đoàn kết thì tản ra để sống; sống với đất và sống với biển, tới khi hữu sự thì tương thân, vẫn là những người con chung một gốc kết hợp lại, vượt qua mọi tai họa.
Ý nghĩa huyền sử Việt có tầm nhận định cao: Trời, Mây, Nước và Ðất sinh ra con người cũng tương tự như Thích Ca giải thích: con người là tứ đại thể gồm đất, nước, gió, lửa. Ý nghĩa ấy không khác theo nhận thức của người Kitô giáo: con người do từ cát bụi mà có.

Truyện tích “Trầu cau” là một trong những truyện tích thời cổ. Nội dung truyện tích đưa ra các bi thiết tình nghĩa để rồi phân định tình nghĩa liên hệ giữa con người và con người. Trước hết con người có trách nhiệm với chính bản thân về tình cảm, đạo lý để định hướng tình cảm, thành lập gia đình. Từ gia đình con người hiểu: đạo lý ông cha, đạo vợ chồng, tình nghĩa anh em, mến yêu quê hương, rồi từ những tình cảm ấy cảm nhận rộng ra tình yêu tổ quốc, đồng bào cùng tình yêu nhân quần xã hội. Truyện tích “Trầu cau” kể:
” Thời xa xưa, có một vị quan lang dáng người cao lớn, vua ban cho họ Cao. Ông có hai con trai tên là Tân và Lang diện mạo thật giống nhau. Hai anh em theo học nhà đạo sĩ họ Lưu. Họ Lưu cũng có người con gái cùng trang lứa tuổi với hai anh em họ Cao. Sau thời gian ngắn, người con gái muốn kết hôn với một trong hai người anh em họ Cao. Nhưng nàng cần phải chọn người anh, nên đem một bát cháo lên mời hai người ăn. Thấy người em nhường cho người anh ăn trước, nàng ghi nhớ diện mạo người anh và trình bày ý định của nàng cùng cha mẹ. Cha mẹ nàng cũng đồng ý gả con gái cho người anh. Sau khi cưới nhau tình nghĩa vợ chồng ăn ở thắm thiết.
Người em thấy từ khi người anh có vợ, tình cảm người anh đối xử với mình không bằng xưa, buồn rầu rồi bỏ đi. Khi người em đi tới bờ sông hết đường đi, ngồi than khóc rồi chết, hóa thành cây cau. Thấy mất em, người anh đi tìm em tới bờ sông cũng buồn rầu, ngồi tựa lưng vào cây cau rồi chết hóa thành tảng đá. Vợ người anh đi tìm chồng, tới bờ sông cũng lại buồn rầu và chết hóa thành dây trầu bò leo lên trên tảng đá. Vợ chồng nhà đạo sĩ họ Lưu đi tìm con gái, con rể và học trò, khi đến bờ sông hỏi ra mới biết sự tình, than khóc và lập đền thờ tại đó. Dân gian bấy giờ ai đi qua nơi ấy cũng cảm xót anh em, vợ chồng tình nghĩa mặn nồng chung thủy, đều vào đền đốt cỏ thơm van vái cúng lễ.
Về sau vua Hùng đi tuần trong nước, khi đi qua chỗ đền này vào trú chân nghỉ mát, vua nhìn thấy có cây cau, dây trầu, tảng đá lạ mọc đan kết lại với nhau, vua hỏi ra mới biết sự tích như trên. Vua truyền lệnh cho cận thần hái trái cau, lá trầu, nhai rồi nhổ lên trên đá, thấy hiện ra sắc đỏ thắm, thoảng có mùi thơm.
Vua về triều bèn ban lệnh khuyên nhân gian: phàm các việc lễ tục, cưới hỏi, hội họp đều phải lấy trầu cau ăn để mở đầu mọi việc. Người nước Việt có tục ăn trầu từ đấy”.
(Theo “Lĩnh Nam chích quái”)
Mỗi công dân Việt đều có niềm tự hào dân tộc mình có gần năm nghìn năm văn hiến. Song nếu có người đặt câu hỏi:
-Sự nghiệp văn hiến ấy bắt đầu từ cái gì? Và từ lúc nào? Thật khó có thể trả lời. Hầu như chúng ta phải dựa vào thời gian lập nước và những giá trị lịch sử không rõ là thực của ta hay đã phải vay mượn của nước khác. Các triều đại thời Hùng đã có tổ chức triều chính, kỷ cương xã hội, sinh hoạt văn hóa, học hành đạo lý tức là đã có “Văn Hiến”, (cách nay hàng nhiều trăm năm nhiều người đã nói: “nước Việt có bốn nghìn năm văn hiến”, cho tới nay nhiều người vẫn nói: “bốn nghìn năm văn hiến”, có lẽ nhiều trăm năm sau người ta vẫn cứ nói “bốn nghìn năm văn hiến”, chính là chỉ vì người ta không tự tìm hiểu nước Việt bắt đầu có văn hiến từ mốc thời gian lịch sử là bao giờ?).
Tục lệ ăn trầu cau, rất nhiều dân tộc miền Ðông Nam Á có. Ðặc biệt dân tộc Việt có tục ăn trầu cũng từ rất lâu đời. Trong cuộc bang giao Việt tặng Trung Quốc chim trĩ trắng đời Thành Vương nhà Chu, đã thấy sứ giả Việt giải thích tới bang giao vì “biển không nổi sóng đã ba năm” (ngụ ý thanh bình, miền biên giới phía bắc không có giặc), mục đích để thảo luận tìm chân lý cho hòa bình, trong đó có nói tới việc “ăn trầu”. Trong truyện tích “trầu cau” nói: vua Hùng đi tuần và phát kiến ra việc ăn trầu, ban truyền lệnh ăn trầu. Việc vua ban lệnh ăn trầu, vào thời cổ xưa có thể là sự thực, hoặc nếu vua không ban lệnh chăng nữa, tục ăn trầu đã là quốc lệ từ lâu, từ thời Hồng Bàng.
Thoạt mới nghe truyện tích “trầu cau”, nội dung chỉ như là một trong số những câu chuyện tình duyên ngang trái, trắc trở. Sau nhận định kỹ, cũng chẳng có gì là ngang trái, trắc trở. Người anh kết hôn với người con gái thầy dạy học, hợp lý, hợp tình, không có ai ngăn cản. Người em bỏ đi rồi chết không phải là thất tình vì mất người yêu. Người em ra đi chỉ vì cảm thấy mất tình anh em. Sự ra đi ấy chính là sự ra đi mà người em nghĩ đi để tìm khuây khỏa khi tình anh em đã phai nhạt, đã mất, có sống cũng không còn ý vị gì nữa. Tới bờ sông hết đường đi, người em tuyệt vọng mà chết. Khi người anh đã mất em, cũng ra đi để tìm lại tình anh em thực sự đã mất, tới bờ sông, thực tế hiện ra: nước chảy mênh mông, sóng cuộn nước trôi, hình bóng người em không thấy, tâm trạng bơ vơ chỉ còn biết ngồi tựa vào thân cây rồi chết. Vợ người anh đi tìm chồng, vì nàng vừa mất một thứ tình mới lạ và say đắm nhất, kể từ khi cha mẹ sinh ra, với nàng tình nghĩa vợ chồng là tình nghĩa đặt nền cho mọi tương lai hạnh phúc mai sau, thiếu nó nàng cũng không thể sống được. Nàng phải đi tìm lại cho bằng được. Khi gặp dòng sông chắn ngang, tuyệt vọng nàng tựa mình ngồi cạnh tảng đá, thân cây mà chết.
Vợ chồng người thầy dạy học họ Lưu đi tìm con gái, con rể và học trò, vì những thứ tình cảm ấy đan kết nhau trong cuộc sống con người, nếu bị mất đi, xã hội đời sống con người sẽ bị hạ thấp xuống gần ngang với xã hội loài vật. Khi tới bờ sông vợ chồng người thầy dạy học, nhìn cây, nhìn đá mọc quấn quýt lạ lùng xen nhau, lại được nghe thuật lại từ những người biết chuyện. Ở nơi đó người thầy dạy học đã suy tôn tình nghĩa chung thủy cao đẹp của con, của học trò bằng cách lập đền thờ. Nhưng ông cũng đã khóc. Ông khóc vì những thứ tình nghĩa cao quí của con, của học trò chưa được khai thông, chưa tìm thấy hướng đi để thăng hoa, để cuộc sống con người không bị rơi vào cõi chết bi thiết về các tình cảm cao quí, để đáng lý ra, những cây những đá vô tri trở thành những mầm sống tốt tươi cho tương lai cuộc đời. Mọi người dân khi đi qua đó, vào đền đốt cỏ thơm, van vái cũng chỉ để chiêm bái những tình nghĩa cao quí và suy tư những tình cảm cần dung hòa cùng và đúng theo lý trí con người.
Tới khi vua Hùng đi qua, nhìn thấy đền thờ và nghe được tình tiết câu chuyện, nhìn cảnh cây và đá gần gũi, quấn quýt bên nhau, nhà vua đã tóm thâu được trọn vẹn nguyên lý cơ bản xây dựng cuộc sống con người. Vua Hùng đang có trách nhiệm nặng nề nhất nước, trong việc xây dựng xã hội có nếp sống tình cảm lành mạnh cao đẹp. Nhà vua ý thức rõ: tình vợ chồng là đầu mối mọi thứ tình cảm: cha con, mẹ con, thầy trò, anh em, bè bạn, đồng bào, vua tôi, quê hương, tổ quốc, xã hội… Nếu con người không tôn trọng tình vợ chồng, cha con, anh em trong gia đình thì không thể nào có được và làm tròn bổn phận được đối với những tình yêu khác. Không có tình yêu anh em, tất không có tình yêu đồng bào, đồng đội. Không có tình thầy trò cũng sẽ không có văn hóa, lễ nghĩa, tiến bộ, để con người có thể xứng đáng là con người. Và các tình yêu tổ tiên, cha mẹ, nhà cửa, quê hương nếu không có hẳn cũng không thể có tình yêu đất nước và tổ quốc.
Sự phân định tình cảm trong gia đình không thể để tình cảm che khuất lý trí, mọi sự buông lỏng hay gò bó quá độ giáo dục và nuôi dưỡng cả hai mặt lý trí, tình cảm, sẽ dẫn tới sự tai họa lớn hay nhỏ ở gia đình tuỳ theo bị ảnh hưởng xấu nhiều hay ít. Vua Hùng trong sự mục kiến bi kịch về tình vợ chồng, tình anh em qua truyện tích “Trầu cau”, nhà vua đã ý thức rõ: tình vợ chồng là nền tảng khởi đầu cho gia đình, khi gia đình sung mãn cần nhân hoá thành nhiều gia đình tiếp nối. Gia đình là nguyên tố tối ưu nuôi dưỡng, giáo dục con người tích lũy nên sự xây dựng xã hội, đất nước. Xã hội hoàn toàn bất lực trong việc dưỡng giáo con cái trong gia đình ở thời kỳ thơ ấu và thiếu niên. Một đất nước, một xã hội đánh mất lý trí, tình cảm nền tảng giá trị gia đình, hậu quả tất yếu xã hội đó sẽ bị hoang loạn và sụp đổ.
Những tình cảm trên luôn cần thiết và gắn bó với con người. Gắn bó bằng cách người ta ăn trầu để luôn nghĩ tới chúng, để chúng thấm sâu, hòa nhập trong cơ thể và cả trong tư tưởng con người. Ăn trầu trong lễ nghi phong tục, ăn trầu trong quan, hôn, tang, tế, ăn trầu trong hội họp thảo luận, ăn trầu trong triều chính việc nước. Muốn được khắp nơi áp dụng, chính vua Hùng đã ăn trầu khởi đầu rồi ban truyền khắp dân gian. Khi lệnh vua ban hành, toàn dân tuân theo, xã hội cùng dân nước đã hoàn thành xong nền tảng đạo lý, kỷ cương. Nếp sống xã hội con người có lễ nghi, văn hóa, lương tâm, trách nhiệm, vị tha; có kỷ cương trật tự trong các mối liên hệ nhân ái: vua tôi, thầy trò, vợ chồng, cha con, anh em, đồng bào, quê hương, tổ quốc. Ðời sống con người được xây dựng trong tòa lâu đài chan chứa tình người.
Như vậy, trước khi ở Trung Quốc có Khổng Tử ra đời đưa ra các khuôn phép kỷ cương: “quân, thần, phụ, tử” buộc chung vào sợi dây “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” thì ở đất nước Việt đã hình thành một nền văn hiến đầy đủ, toàn vẹn.
Tình cảm người dân Việt, ở những thế hệ sau, cũng nhờ ý nghĩa “trầu cau” mà bảo tồn, nâng cao được nhiều tình cảm cao quí.
Hãy nghe người con gái hát giao duyên với người con trai qua miếng trầu:
“Trầu này trầu tính trầu tình,
Ăn vào vào cho đỏ môi mình môi ta.
Trầu này mới hái đêm qua,
Ăn vào cho đỏ môi ta môi mình”.
Khi tình cảm con người đã tiến xa hơn, ý nghĩa “trầu cau”, cần phân tích và cũng cần có cả lý trí, tư duy:
“Này là trầu túi, trầu khăn,
Cùng trầu giải yếm anh ăn trầu nào?”
Qua lời mời “miếng trầu” dàn trải sự lựa chọn, đúng cách, hợp tình cảm, lại cần tỏ thái độ thanh lịch, chàng trai trước mắt xanh người đẹp đã biết trả lời:
“Trầu túi thì để phần cha,
Trầu khăn phần mẹ, đôi ta trầu này!”
Câu hỏi bài toán tình cảm đã được giải đáp, “miếng trầu” tình yêu chẳng cần phải nói đúng tên là “trầu giải yếm”, chàng chắc cũng được nàng thân ái mời trao miếng trầu có “hương vị tình yêu” mà chàng mong muốn!
Nói đơn giản “miếng trầu là đầu câu chuyện”, trong thực tế khi người xưa ăn miếng trầu, suy nghĩ, tìm hiểu, khám phá ra rất nhiều vấn đề, tính chất ăn trầu khác với ăn các thực phẩm: cá, thịt, cơm, canh cho ngon, cho no bụng, bồi dưỡng cơ thể. Tính chất ăn trầu chú ý sự “ăn có nhai nói có nghĩ”, bồi dưỡng lý trí, nên tình giao duyên người xưa còn thể hiện:
“Nàng về ta chẳng cho về,
Ta nắm vạt áo ta đề bài thơ”.
Người bị nắm vạt áo, dù là phái nữ thơ ngây, cũng không lúng túng thẹn thùng, bối rối, vì người ấy là con cháu của các bà Trưng, bà Triệu, là công dân của dân tộc từng có nền văn minh “ấn đồng thao xanh” từ thuở vua Hùng dựng nước. Người con gái đã bình tĩnh trả lời ngưòi định nắm vạt áo mình:
“Bài thơ “ba chữ”rành rành:
Chữ “trung”, chữ “hiếu”, chữ “tình”, ai ơi!”.
Ðể những công dân Việt khi bắt đầu cảm nhận tình yêu đôi lứa, cũng là khi bắt đầu trưởng thành bước chân vào ngưỡng cửa cuộc đời, nhận thức được:
“Chữ “hiếu” thì để phần cha,
Chữ “trung” phần nước, đôi ta chữ “tình”.
Là xứ nông nghiệp trồng lúa nước, từ xa xưa dân Việt có truyện tích thần Lúa:
“Vào thời rất xa xưa, các loại cây ăn quả tự nhiên mà có, người ta chưa phải trồng cây. Các thứ cây có quả tự tìm về mọc ngay bên cạnh người.
Có một người đàn ông vào rừng gặp một hạt lúa, ông ta xem xét kỹ biết ngay là hạt quí, có thể nuôi sống người. Ông đi tìm những hạt thóc quí ấy ở trong rừng rồi khuyên mời chúng mọc tại quanh nhà. Ông được mọi người gọi là thần Lúa. Hạt lúa ngày ấy rất to. Ông thần Lúa có nhiều lúa để ăn và còn ban phát cho mọi nhà đều có lúa ăn. Vợ thần Lúa là người lười biếng, một hôm chồng có việc đi xa, bà vợ ở nhà đang gội đầu thì tới giờ lúa chín chạy vào nhà. Các loại lúa thi nhau vào chật nhà, đầy sân, khắp cả vườn, ngõ. Vợ thần Lúa đang gội đầu lúa cũng chạy tràn vào ngập cả lối đi, tràn cả vào chỗ gội đầu. Vốn tính lười lại hay nổi nóng, bà vợ thần Lúa nổi giận lấy đòn gánh đánh đuổi họ hàng nhà lúa ra khỏi nhà. Khi thần Lúa trở về thấy lúa không còn về nhà nữa, mọi người không còn lúa ăn. Ông lại vào rừng kêu nài, năn nỉ lúa về, nhưng lúa nhất định không chịu về. Tuy thế, lúa cũng thương cho mọi người không có gì ăn để sống, lúa chỉ bằng lòng cho người ăn nếu mọi người chăm chỉ gieo giống, cày cấy, vun xới lúa, hết lòng chăm sóc lúa, biết quí và không phũ phàng với lúa, lúa sẽ cho người ăn để sống. Từ đó thần Lúa dạy mọi người cách trồng lúa. Ai ai cũng phải chăm chỉ cày cấy mới có lúa ăn và hạt lúa so với trước kia cũng nhỏ hơn nhiều”.
Truyện tích thần Lúa thường được nghe người dân miền đất Tổ ở Việt Trì, Phú Thọ kể lại, nội dung như cảnh giác con người trước trách nhiệm sản xuất thực phẩm nuôi sống con người. Ngũ cốc có nghĩa chỉ về năm thứ lúa, trên thực tế, lúa là nền tảng bắt nguồn mọi kế hoạch tiến bộ. Câu ca dao cổ của người Việt, xuất phát từ căn bản cuộc sống nông nghiệp khẳng định:
“Nhất niên chi kế mạc như chủng cốc,
Thập niên chi kế mạc như chủng mộc,
Bách niên chi kế mạc như thụ nhân”.
Có nghĩa: “Làm kế hoạch một năm thì trồng lúa gạo. Làm kế hoạch mười năm thì trồng cây. Làm kế hoạch trăm năm thì nuôi dạy con người”.
Vì thế, nếu người ta cứ quên đi kế hoạch một năm không trồng lúa để nuôi sống con người, con người không đủ lương thực để ăn, mà lại vội thực hiện các kế hoạch khác thì xã hội con người không thể thực hiện bất cứ ước mơ nào, không thể có bất cứ kế hoạch nào thành đạt mà con người mong muốn. Và nếu người ta coi việc nuôi dạy con người như trồng một cái cây thì sự giáo dục, bồi dưỡng nhân bản con người không tránh khỏi nhiều khiếm khuyết.
Ðền Hùng ở vào giữa hai thị trấn Việt Trì và Phú Thọ, cách mỗi nơi khoảng mười cây số. Trên đỉnh núi có đền Thượng. Tương truyền ngôi đền này có từ khi mới dựng nước, là nơi vua Hùng thờ trời, truyền mãi lệ thờ cho các đời sau, nên đền Thượng còn có những tên như: “kính thiên lĩnh điện” và “cửu trùng tiên điện”. Cũng từ ngày xưa, trên bàn thờ ngoài hình tượng thờ trời, còn thờ một hòn đá lớn trông giống hạt lúa, tượng trưng cho thờ thần Lúa. Tại đây cũng là nơi các vua Hùng cầu trời, cầu Lạc Long Quân mỗi khi có việc hệ trọng. Thí dụ như việc cầu trời giúp đánh giặc Ân. Trong đền có bức hoành phi đề bốn chữ “Nam Việt triệu Tổ”. Có ý nghĩa là nơi thờ tất cả những vị Tổ tiên liệt gây dựng nên nước Việt.
Nhân dân Việt ở thời cổ coi thần Lúa như vị thần đáng quí, đáng kính, được cùng thờ trong ngôi đền thờ trời và Lạc Long Quân. Tính chất truyền thuyết điển tích thần Lúa của Việt khác hẳn với điển tích Thần Nông của Trung Quốc. Bọn thái thú, thứ sử Tàu sang đất Việt, phải chăng chúng thấy dân Việt tôn thờ thần Lúa, chúng đã khôn khéo lợi dụng, chúng đã xuyên tạc lịch sử tạo ra thuyết: Lạc Long Quân là con cháu mấy ông vua Tàu thuộc họ Thần Nông?
Huyền thoại Ngư Tinh và Hồ Tinh là những huyền thoại ghi nhớ công nghiệp kỳ vĩ của Lạc Long Quân. Nhân dân Việt thường nhắc nhở:
“Ngoài biển Ðông có Ngư Tinh, mình dài hơn trăm trượng, có nhiều chân tay, hay ăn thịt người. Trên bờ biển và các đảo gần bờ, thời cổ cũng đã có người ở. Ngư Tinh trú ngụ trong hang núi, miệng và răng nhô ra ngoài biển. Thuyền bè đi lại thường bị Ngư Tinh làm hại. Dân ngoài biển muốn đi lối khác thì bị mắc cát đá không đi được. Một đêm có tiên ở trên trời xuống giúp dân, vét cát đá để dân có đường đi không bị nạn. Ngư Tinh giả làm tiếng gà gáy sáng. Các tiên nữ tưởng là trời sáng, thôi vét cát đá bay đi. Nay vẫn còn đường thuyền nhỏ đi được, gọi là đường Bụt.
Lạc Long Quân thương dân bị Ngư Tinh làm hại, làm một chiếc thuyền, lại ra lệnh cho loài quỷ Dạ Xoa dưới nước cấm thần Biển không được làm sóng gió, rồi Long Quân chèo thuyền tới núi Ngư Tinh ở, giả như đem người lại cho Ngư Tinh ăn. Ngư Tinh há miệng toan nuốt, bị Long Quân ném khối sắt nung đỏ vào miệng. Long Quân chém đứt đuôi Ngư Tinh thành đảo Bạch Long Vĩ, khúc đầu thành đảo Cẩu Ðầu, khúc mình trôi dạt vào man cầu gọi là Cẩu Man Cầu”.
(theo “Lĩnh Nam chích quái”)
Việc Lạc Long Quân diệt Hồ Tinh cũng có huyền thoại: Hồ Tây của thành Thăng Long còn có tên là Thi Hồ Trạch là nơi xưa kia Lạc Long Quân trấn yểm Hồ Tinh.
Miền đất mở đất dựng nước của dân Việt buổi đầu thuộc khu vực giao lưu các con sông: sông Hồng, sông Ðà, sông Thao, sông Lô. Các giòng sông này bắt nguồn từ các miền Vân Nam, Tứ Xuyên bên Trung Quốc, qua nhiều ghềnh núi ngăn cản chịu đựng lưu lượng khá lớn nước về mùa lũ. Nuớc lũ cao thường ứ đọng và lan tràn ngập lụt ra nhiều nơi đồng bằng. Việc đắp đê ngăn nước chống lụt, không phải chỉ có ở các thời sau. Thời thượng cổ đã có truyện tích:
“Khi bắt đầu dựng nước Văn Lang, trời muốn giúp dân Việt có địa thế vững: vừa có hình thế ngăn giữ được nước lụt, lại vừa có vị trí hiểm trở chống được giặc ngoài xâm phạm. Trời sai một chàng trai trẻ có sức mạnh đắp núi, lấp sông, từ trên trời xuống đắp thành xung quanh núi Nghĩa Lĩnh (tức núi của đền Hùng).
Chưa đầy một đêm, chàng trai nhà trời đắp được cả một dãy đồi xung quanh núi Hùng. Chàng định gánh đất nữa để ngăn nước từ phía sông chảy vào chân núi, nhưng đang gánh nửa đường thì trời sáng. Phép trời chỉ cho chàng được làm lúc ban đêm. Chàng đành phải quăng quang gánh, nằm đợi qua ngày chờ đến đêm sau sẽ làm tiếp tục. Không may gặp lúc ban ngày trời nắng quá, chỗ đất bùn chàng nằm bị khô cứng, cả người chàng dính liền vào đất, không đứng dậy được. Chàng trai nhà trời nằm mãi mãi lâu ngày rồi cũng biến thành đất. Tới nay, địa hình chỗ đất chàng nằm có hình người, mặt người hướng về núi Hùng. Hai sọt đất thành hai trái núi nhỏ. Ðòn gánh của chàng nay thành đồi, dân địa phương gọi là đồi Ðòn Gánh. Nơi chàng trai lấy đất sâu xuống nay được dân gọi là đầm Ðợi. Xã Kim Ðức thuộc huyện Phong Châu đời này tới đời khác truyền tụng câu chuyện này cho tới ngày nay”.
(theo truyền thuyết dân Phong Châu tỉnh Phú Thọ)
Các huyền thoại lịch sử Việt có rất nhiều, ngoài khu vực quanh thủ đô nuớc Văn Lang ngày xưa, nhiều khu vực khác cũng có nhiều huyền thoại. Các huyền thoại đều có giá trị bảo lưu nền văn hóa buổi đầu của đất nước. Thời gian bắt đầu có nước, chưa bị ảnh hưởng Khổng học, sơ đẳng về khái niệm “con người” được coi là nguyên nhân, là mô hình để bắt nguồn cho muôn việc, muôn sự ở đời. Có “con người” mới có tất cả và tất cả do con người, vì con người.
Cũng từ “con nguời” người ta nhìn thấy và biết được, làm được những giá trị, sự nghiệp tuyệt vời trong cuộc sống. Như chàng trai nhà trời thuở khai nước lập dân đã gánh đất đắp thành quanh đền Hùng, để rồi nằm với đất thành đất, thành nước. Nét nhân bản do từ vũ trụ bao la hiện thành mà mỗi “con người” là một vũ trụ thu nhỏ. Người dân Việt luôn tự xác định được giá trị nhân bản, mỗi khi họ dùng từ “mình” để chỉ chính bản thân, chính “con người” của họ. Khi một lứa đôi trai gái lớn lên yêu nhau thì từ “mình” ấy lại rất mực vị tha. Trong tình yêu họ sẽ nói với nhau “anh của em” và “em của anh”; nghĩa là “con người” của chính mình lại thuộc về người mình yêu. Nhưng tới khi đã thành vợ, thành chồng thì cả hai người lại chỉ còn như là một người. Ðó là giá trị cùng ý nghĩa khi thấy các cặp vợ chồng Việt: vợ gọi chồng là “mình” và chồng cũng gọi vợ là “mình”. Diễn biến ngôn ngữ sẽ lại thay đổi khi hai vợ chồng bắt đầu có con, họ gọi nhau nhưng lại như nhắc nhở lẫn nhau rằng: cả hai đã thuộc về con. Vợ chồng xưng hô cùng nhau bằng ba tiếng “bố thằng Cu” hoặc “mẹ con Tí” v..v… Ngầm hiểu như cả hai người chồng và vợ đều thuộc về con của nhau, hy sinh vì con. Trong gia đình các liên hệ huyết thống, tình cảm cũng được coi là các bộ phận của thân thể “con người”, thường cha mẹ được coi như cái đầu, vì ngạn ngữ có câu: “áo mặc không qua khỏi đầu” để xác định sự tôn kính của con cái đối với cha mẹ; còn anh chị em trong nhà được coi như chân tay cũng do câu: “anh em như thể chân tay”.
Ðất nước, xã hội cũng từ “con người” làm mô hình căn bản, qua gia đình, xây dựng nên đất nước xã hội. Người ta khuyến khích cố gắng giữa “con người” và “con người” nên coi nhau như anh em ruột thịt một nhà. Ngôn từ giao tế với nhau ngoài xã hội của người Việt hầu như không thấy có trong đất nước, xã hội, nào khác trên thế giới. Trong mọi sinh hoạt giao tế ngoài xã hội, người Việt xưng hô với nhau như người chung hệ thống huyết tộc trong hệ thống gia đình, với các danh xưng: cụ, ông, bà, bác, bố, mẹ, chú, cô, cậu, dì, mợ, dượng, anh, em, con, cháu… để chào hỏi, giao dịch, nói chuyện với nhau trong mọi giao tế sinh hoạt xã hội, dù trong thực tế họ không có bất cứ liên hệ huyết thống thân thích nào về gia tộc, không thực sự là cha, mẹ, anh, em, con, cháu… của nhau. Ðã là người dân Việt không ai không biết câu ca dao: “Thương người như thể thương thân”. Qua ngôn ngữ giao tế ngoài đời như trên, chính thức người Việt đã gia đình hóa xã hội.
Cũng như câu ca dao dưới đây có triết lý sống khá sâu sắc:
“Thương người, người lại thương ta,
Ghét người thì lại hóa ra ghét mình”.
Ba từ “tình đồng bào” của người Việt hiện ra trong tâm hồn mỗi công dân Việt: cô đọng, thiêng liêng, trữ tình nhưng lại rất thực tế đúng với ý nghĩa huyền sử. Vì rằng: “đồng bào” có nghĩa là chung nhau một một vỏ bọc, hiểu cách điệu thì là chung nhau một màu da. Vỏ bọc của huyền sử là “vỏ bọc trăm trứng” nên ngoài ý nghĩa đồng bào thông thường còn gắn thêm tình đồng bào chung “một bọc trăm trứng nở trăm con” có ở tình cảm người công dân dân tộc Việt.
Tình tự đồng bào như trên khiến người Việt mau chóng trắc ẩn tâm tình “thóc bồ thương kẻ ăn đong” và “nhường cơm sẻ áo” đối với người hoạn nạn khốn cùng. Cảnh đời nhiều khi có những bất trắc xảy ra, ngay cả vua, chúa hay người phú gia địch quốc thì cũng có thể gặp cơn hoạn nạn khốn cùng:
“-Ăn mày là ai? -Ăn mày là ta.
Ðói cơm rách áo hóa ra ăn mày.”
Dường như chỉ những công dân hiểu hết ý nghĩa huyền sử Việt, mới thể hiện vào cuộc sống được cách sống có trắc ẩn tình thương:
“Thương người tất tả, ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ;
Thương ngưòi ôm dắt trẻ thơ,
Thương người đau, yếu, già nua, bần hàn.
Thương người quan, quả, cô, đơn,
Thương người tuổi tác lầm than ngoài đường.
Thấy ai đói rách thì thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân.
Người ta gặp bước khó khăn tới nhà,
Ðồng tiền, bát gạo đem ra,
Rằng đây cần kiệm gọi là làm duyên.
May ta ở chốn bình yên,
Còn người tàn phá chẳng nên cầm lòng.
Tiếng rằng: ngày đói tháng đông,
Thương người bớt miệng bớt lòng mà cho.
Miếng khi đói, gói khi no,
Của tuy tơ tóc nghĩa so nghìn trùng.
Của là muôn sự của chung.
Sống không, thác lại tay không có gì!
(Ðoạn thơ trên trích trong “Gia huấn ca” của Nguyễn Trãi, do Tân Việt Sài Gòn xuất bản. Tuy nhiên nhiều giả thuyết văn học cho là không chính xác. Nay trích đăng vẫn tôn trọng quyền tồn nghi công luận).

Nữ Vương Phật Nguyệt

Truyện tích “Nữ Vương Phật Nguyệt” là huyền sử nữ chúa hồ Ðộng Ðình thuộc tỉnh Hồ Nam ở Trung Hoa, lại xảy ra vào thời Hai Bà Trưng là khi thời đại Hồng Bàng đã chấm dứt, nhưng cũng viết thành một chương trong sách này, vì các lẽ:
Thời đại Hai Bà Trưng là thời đại vận động phất cờ khởi nghĩa quy mô lớn, không cách thời Hồng Bàng quá lâu và Hai Bà dựng nền độc lập tự chủ của dân tộc Việt, có lãnh thổ quốc gia rộng tương đương với lãnh thổ thời nước Văn Lang lúc cường thịnh.
Thời đại Hai Bà Trưng là thời đại có tổ chức hệ thống chính trị và nề nếp đời sống nhân dân giống với thời đại Hồng Bàng nhất, so với các thời về sau.
Triết lý, tư tưởng nhân sinh cùng ý thức hệ vũ trụ của truyện tích “Nữ Vương Phật Nguyệt” có những nét đặc trưng và tự hào riêng có ở dân tộc Việt, khi chưa bị ảnh hưởng các tư tưởng Phật, Lão, Khổng.
Trước khi viết về “Nữ Vương Phật Nguyệt”, xin được viết sơ lược về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng:
Hai Bà phất cờ khởi nghĩa điểm khởi đầu ở Cổ Lôi trang (nay là làng Hạ Lôi gần chân núi Ba Vì, có lúc giòng chảy của sông Nhị Hà vào mùa nước lũ chuyển giòng, đã chia làng, chia dân chạy nước lụt, thành hai làng Hạ Lôi ở cả về hai bên bờ sông, vì vậy nay ở hai tỉnh Vĩnh Yên và Sơn Tây tại mỗi tỉnh đều có làng Hạ Lôi), sau tập trung nhiều lực lượng tại làng Hát Môn cho tiện điều hành cả quân thủy lẫn quân bộ, rồi mới nhanh chóng tiến đánh Luy Lâu, thủ phủ cai trị của giặc Hán.
Do có sự liên kết, chuẩn bị bí mật nên địa bàn khởi nghĩa lan rộng ngay từ những ngày đầu. Tất cả có chín quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Uất Lâm (tức Quế Lâm), Thương Ngô, Nam Hải, Hợp Phố, Châu Nhai và Ðạm Nhĩ, tổng cộng có 65 huyện thành. Giao Chỉ là một trong số những quận lớn, lại cũng là quận đứng đầu cuộc khởi nghĩa có những huyện thành là: Mê Linh, Chu Diên, Long Biên, Liên Thụ, An Ðịnh, Cẩu Lâu, Khúc Dương, Bắc Ðới, Kê Từ, Tây Vu. Trong số 10 huyện này căn cứ khởi nghĩa quan trọng là hai huyện Mê Linh và Chu Diên, coi núi Ba Vì cùng với sông Hồng làm điểm tựa và là nơi xuất phát những mũi tấn công chính. Nhìn vào bản đồ miền Hoa Nam và đất nước Việt ngày nay, đích thực lãnh thổ cùng cư dân khởi nghĩa nổi lên trong hệ thống đất nước Hai Bà làm vua, có cương giới rộng gần ngang tầm với nước Văn Lang mà “Ðại Việt sử ký toàn thư” đã viết: “Khi Hùng Vương lên ngôi, dựng nước gọi là nước Văn Lang. Nước ấy phía đông giáp biển Nam; phía tây tới Ba Thục; phía bắc đến hồ Ðộng Ðình, phía nam tiếp với nước Hồ Tôn”.
Lực lượng khởi nghĩa theo Hai Bà khiến hàng loạt các tên thái thú quan lại cai trị 9 quận của Hán triều: kẻ bị giết, kẻ chạy trốn, kẻ đầu hàng, thậm chí có kẻ khiếp sợ phải cải trang làm đàn bà chạy trốn như tên thái thú Tô Ðịnh coi quận Giao Chỉ. Oanh liệt hơn nữa là không phải chỉ có hơn hai vạn quân Hán sang trấn áp cuộc khởi nghĩa do Hai Bà lãnh đạo như sử Hán viết, thực sự có thể có hàng chục vạn quân Hán bị thảm bại trước sức mạnh quật cường của quân dân người Việt. Chứng cớ đích xác và đúng sự thực thì tới năm 49 sau công nguyên, sau khi tìm cách rút quân khỏi Giao Chỉ, tên giặc Mã Viện cùng với đám tàn quân còn sót lại cũng bị quân dân khởi nghĩa theo Hai Bà tại miền đất Ngũ Khê (Vũ Lăng) vây hãm, bị chết trận, chết vì bệnh đậu mùa, kể cả tên tướng Mã Viện cũng không thoát khỏi tử thần.
Dù đã trải qua khoảng hai nghìn năm, nhiều lúc có sự cấm đoán cũng không ngăn được các cư dân người Hoa gốc Việt sống ở các nơi thời xưa là lãnh thổ Hai Bà cai quản, nay không còn thuộc đất nước Việt, vẫn tưởng nhớ công ơn Hai Bà và các tướng sĩ của Hai Bà. Tại các tỉnh: Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Ðông, Hồ Nam không nhiều thì ít, nơi nào cũng có đền miếu thờ “đạo Hai Bà”, hoặc thờ các tướng lĩnh của Hai Bà, con số có thể lên hàng nhiều trăm nơi thờ. Sự tôn thờ tưởng nhớ của dân chúng được nâng lên như một tín ngưỡng tôn giáo gọi là “đạo Vua Bà”. Nếu muốn tìm hiểu thêm tâm tư người dân và hỏi họ: -Tại sao lại thờ “đạo Vua Bà” và Vua Bà là ai? Sẽ được những người am hiểu cho biết: – Thờ “đạo Vua Bà” là đạo của Trưng Vương người quận Giao Chỉ dấy quân chống bọn tham quan áp bức dân.
Theo lời người dân sống phía nam sông Dương Tử kể lại, từ trước năm 1949 nhiều nơi trong dân gian có tổ chức các nghi lễ “lên đồng” cũng giống như ở nhiều nơi tại Việt Nam thường tổ chức nghi thức lễ “lên đồng”, nhất là đối với giới phụ nữ. Lễ tục này đã có từ rất lâu đời tại các vùng cư dân có các chủng tộc người Việt sinh sống. Qua các truyện tích như: thánh Gióng, Kim Qui, đều thấy thuật lại việc các vị vua lập đàn làm lễ cầu trời, rồi thấy ứng hiện lên một người có cử chỉ, lời nói giống như một vị thần nhân, nói ra những điều linh ứng, tương tự như sự linh ứng trong nghi lễ “lên đồng”. Nếu những người dân miền Hoa Nam đã tôn trọng lễ “lên đồng” là đạo, tức là một thứ tôn giáo, thì tôn giáo ấy chắc hẳn đã có từ lâu đời, từ thời thượng cổ.
Trong một cuộc nghiên cứu, sưu tầm, phái đoàn thuộc Viện Pháp Á (tức Institut Franco Asiatique, sách này đã dẫn chung tài liệu tại chương 5. Ðất nước Tổ Hùng) vào hai năm 1978, 1979, họ đã tham quan hàng trăm nơi tại các tỉnh lưu vực phía nam sông Dương Tử (Trường Giang) có thờ Hai Bà Trưng và các tướng lĩnh của Hai Bà. Ðích thân vị Giám đốc Sự vụ Trung Hoa của Viện Pháp Á đã đọc được tại Thư viện bảo tàng di tích cổ của tỉnh Hồ Nam một bản tài liệu cổ được viết vào thế kỷ thứ tám, nói về “Sự tích Nữ Vương Phật Nguyệt” như sau:
“Ngày xưa Ngọc Hoàng Thượng Ðế ngự trên điện Linh Tiêu, có hai công chúa đứng hầu. Vì sơ ý hai công chúa đánh vỡ chén ngọc, Ngọc Hoàng Thượng Ðế nổi giận đày hai công chúa xuống hạ giới. Hai công chúa đi đầu thai được mấy ngày thì vị tiên lại giữ sổ trên thiên giới tâu rằng: có 162 vị tiên cũng đầu thai xuống hạ giới theo hai công chúa. Ngọc Hoàng Thượng Ðế thấy thế sợ hai công chúa làm loạn ở hạ giới, ngài mới truyền Thanh Y đồng tử đầu thai theo để dẹp loạn. Thanh Y đồng tử sợ địch không lại hai công chúa, có ý ngần ngừ không dám đi. Ngọc Hoàng Thượng Ðế truyền nhị thập bát tú đầu thai theo. Thanh Y đồng Tử sau là vua Quang Vũ nhà Hán. Nhị thập bát tú đầu thai thành hai mươi tám vị văn thần võ tướng đời Ðông Hán. Còn hai công chúa đầu thai xuống quận Giao Chỉ, vào nhà họ Trưng, chị là Trắc, em là Nhị. Lúc Trưng Trắc sinh ra có hương thơm đầy nhà, từ nhỏ đã thông minh quán chúng, sau lớn có sức mạnh bạt sơn cử đỉnh, được gả cho Ðặng Thi Sách. Thi Sách làm phản, bị thái thú Tô Ðịnh giết chết. Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa, được 162 anh hùng, liệt nữ các nơi nổi lên giúp sức, nên chỉ trong một tháng chiếm hết sáu quận của Trung Quốc ở phía nam sông Trường Giang là các quận: Cửu Chân, Nhật Nam, Giao Chỉ, Quế Lâm, Thương Ngô, Nam Hải (tiếp theo sau còn có thêm ba quận khởi nghĩa là Hợp Phố, Châu Nhai và Ðạm Nhĩ). Chư tướng tôn Trưng Trắc lên làm vua, thường gọi là Vua Bà.
Quang Vũ nhà Hán sai Phục Ba tướng quân Tân tức hầu Mã Viện và Long Nhương tướng quân Thân hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt Tổng Trấn hồ Ðộng Ðình đánh chặn, Mã Viện và Lưu Long bị đánh bại. Vua Quang Vũ truyền lệnh cho nhị thập bát tú tới nghênh chiến, tất cả cũng bị đánh bại. Nữ Vương Phật Nguyệt phép thuật tài giỏi vô cùng, một tay nhổ núi Nga Mi, một tay nhổ núi Thái Sơn, đánh quân Hán chết xác lấp sông Trường Giang và hồ Ðộng Ðình, oán khí bốc lên tới trời. Ngọc Hoàng Thượng Ðế sai Thiên binh, Thiên tướng xuống trợ chiến cũng bị Nữ Vương Phật Nguyệt đánh bại. Ngọc Hoàng phải sai thần Du Liệt sang Tây Phương cầu cứu Phật Như Lai. Ðức Phật sai mười tám vị Kim Cương ba nghìn La Hán tới trợ chiến cũng bị bại trận. Cuối cùng Phật truyền Quán Thế Âm Bồ Tát tham chiến, Nữ Vương Phật Nguyệt với Quan Âm Bồ Tát đấu phép ba ngày, ba đêm, bất phân thắng bại. Sau Quán Thế Âm thuyết pháp mới khiến Nữ Vương Phật Nguyệt giác ngộ, bà bỏ đi tu.”

Cảnh tế thần linh tại một ngôi đền thuộc tỉnh
biên giới Lạng Sơn, nơi tiếp giáp lãnh thổ với nước Tàu
Ðối với bọn giặc Tần rồi giặc Hán, trước cũng như sau, việc chia cắt nước Việt thành quận, huyện, chẳng những tiện cho chúng về việc phân cấp hệ hành chính cai trị, còn chia cắt sức mạnh đoàn kết dân trong nước từ một khối thành những vùng nhỏ. Vì vậy đối với các quận để bảo tồn sức mạnh, người dân Việt coi nhau dù là ngưòi Nam Hải, Giao Chỉ hay Thương Ngô v..v. đã là người trong chín quận phải coi nhau là người chung một nước. Còn đối với các huyện người Việt thường bảo nhau tự lập người cầm đầu huyện là người Việt, vẫn gọi các chức huyện lệnh là các “lạc tướng” là chức hiệu có từ thời Hồng Bàng. Dân ngấm ngầm tìm cách không đóng thuế hay trốn vào rừng núi ở, nếu là các viên huyện lệnh do Tần hay Hán cắt cử. Vì vậy cai quản huyện Mê Linh là vị “lạc tướng” cha của Hai Bà Trưng và cai quản huyện Chu Diên là “lạc tướng” Ðặng Thi Sách. Trước khi khởi nghĩa cũng như khi cầm quân chống giặc Hán, thấy trong truyện tích các nơi ứng nghĩa, có nhiều nơi nói về công tác vận dụng của bà Trưng Nhị, tạo nên sức mạnh lòng dân Việt đoàn kết thương xót nhau thể hiện qua câu ca dao:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng!
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Ðặc biệt nhất là đối với giới phụ nữ, khi được biết Hai Bà đang ngấm ngầm tuyên truyền, giao kết, huấn luyện, tổ chức việc khởi nghĩa, tưởng như mỗi người phụ nữ Việt đều muốn mau chóng hóa thân thành các nữ thiên thần, quyết chí diệt giặc giải phóng đất nước, giải phóng phụ nữ.
Cử mục sơn hà vô Hán tướng;
Thệ tâm thiên địa hữu Trưng Vương.
Ðó là đôi câu đối nói lên ý nghĩa các anh hùng liệt nữ cùng toàn dân Việt nhiệt tâm, tận lực hướng về cuộc khởi nghĩa: cho dù hệ thống cai trị của bọn tướng giặc dày đặc khắp nơi, ai ai mở mắt trông khắp núi sông cũng coi như không có bọn tướng giặc Hán; trong tâm can mọi người nguyện một lòng thề với trời đất chỉ biết có Trưng Vương.
Với ý chí yêu nước thương nòi đã được kết tụ, ngay từ đầu thế kỷ thứ nhất, của thiên niên kỷ thứ nhất theo công nguyên, những công dân Việt đáng tự hào, đáng vinh danh cả nữ lẫn nam chung sức một lòng quét sạch họa cường bạo xâm lăng mạo danh “con trời” chiếm cứ nước Việt. Họ thiết lập được một chế độ độc lập, có tính dân chủ, tự trị và phân quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp (dưới sự chỉ đạo: lập pháp do bà Trưng Trắc, hành pháp do bà Trưng Nhị, tư pháp do bà Xuân Nương) được gọi là chế độ “Hai Vua”, ấy là một chế độ văn minh thời cổ, cả hàng nghìn năm cảnh lê dân chìm đắm trong bóng tối chủ nghĩa phong kiến, chưa thể có được!
Toàn dân Việt sống dưới chế độ “Vua Bà” mà lại có những hai vua, không cần biết tới những tên “thiên tử” bịp bợm, chuyên chế độc tài, thường là hôn quân vô nhân tàn ác, dù là kẻ nào, dù cai trị một nước lớn nào chăng nữa! Dân Việt nhìn thấy bọn thái thú, thứ sử cùng bầy đàn quân lính giặc Hán trốn chạy trong khởi nghĩa như loài chuột nhắt và những tên còn lại bị thương tích, bị ốm đau, đã đầu hàng đang sống chui rúc như bầy chó đói. Chúng đang ngước trông sự rộng lượng bao la cùng những tấm lòng thương người của người dân Việt tha tội và cứu sống chúng. Chế độ của các tộc Việt có cơ sở dân chủ “thôn làng tự trị” do các trưởng làng, già làng cai quản, trên có các lạc tướng, hùng tướng chăm sóc, trên nữa có các lạc hầu, hùng hầu giúp Hai Vua trông coi các việc chính trị, quân bị, đúng như bốn câu thơ đời sau truyền tụng, ca ngợi về thời Hai Bà Trưng:
“Một xin rửa sạch nước thù;
Hai xin lập lại nước xưa họ Hùng;
Ba kẻo oan ức lòng chồng;
Bốn xin vẻn vẹn thửa công lênh này”.
Có cuộc khởi nghĩa sáng rực hào quang, các dân tộc Việt lại được âu ca đoàn kết, sống trong thanh bình với hệ thống tương giao kết nghĩa “ấn đồng thao xanh”, có từ thuở khởi nghiệp thời đại Hồng Bàng. Hậu thế đã hai nghìn năm dài với hàng chục lần các thời bị ngoại xâm đe dọa: Hán, Ngụy, Tấn, Tề, Lương, cho tới Ðường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Tuy thế vẫn vĩ đại oai hùng cùng công đức sự nghiệp Hai Bà, trong tâm hồn dân Việt, vẫn mỗi ngày hào quang một rạng rỡ hơn thêm.
Ngay trên cả những miền đất ở thời cổ xưa cũng như ở thời Hai Bà vốn là dân, là đất thuộc lãnh thổ nước Việt cổ, dù nay không còn thuộc nước Việt, tại các nơi ấy tồn tại nâng cao sự nghiệp Hai Bà như một tín ngưỡng tôn giáo bất diệt bằng ba tiếng tôn danh: “Ðạo Vua Bà”.
Phân tích lược qua giá trị triết học của sự tích Nữ Vương Phật Nguyệt còn lưu giữ tại tỉnh Hồ Nam đã thấy ý chí, sức mạnh, lý tưởng của giống nòi Việt không dễ gì một chủ nghĩa hay lý tưởng ngoại dị có thể khuất phục. Vì ngoài sức mạnh trường tồn của dân tộc thì lý tưởng từ nghìn xưa của dân Việt đã đầy đủ chân lý, giá trị nhân sinh, chứa đựng lòng nhân nghĩa, bác ái. Vì người dân phải sống trong khoảng không gian chứa tư tưởng “thiên tử” bịp bợm, trăm nghìn khuôn phép vô nghĩa lý áp đặt, nên mở đầu truyện tích cũng đã viết: “Ngọc Hoàng Thượng Ðế ngự trên điện Linh Tiêu, có hai công chúa đứng hầu…”. Rồi đến bố cục sự tích Nữ Vương cũng phải giống như các sự tích thần phả của các cây bút “nòi” chủ nghĩa phong kiến “con trời” hoang tưởng.
Nhưng đến cái lý cuối cùng, cứu cánh của sự tích, thuyết “thiên tử” hoàn toàn bị hất bỏ. Nữ Vương Phật Nguyệt chỉ là một vị tướng của “Vua Bà”, nhưng lại đánh bại bọn Mã Viện đệ nhất danh tướng lịch sử các vương triều phong kiến nhanh như phủi bụi. Rồi tất cả đám nhị thập bát tú là các tướng lưu danh thiên cổ của Hán cũng bị đại bại. Như thế toàn bộ tướng mạnh binh hùng của Hán Quang Vũ bị bại rồi còn gì nữa. Dường như pháp thuật của Nữ Vương Phật Nguyệt kể khắp từ trên trời cao cho xuống dưới toàn cõi thế ai cũng phải thua bà, vì một tay bà cầm núi Thái Sơn, một tay bà cầm núi Nga Mi nhổ lên như nhổ cỏ, tất nhiên khi bà ra tay thì xác giặc Hán chết phải lấp đầy cả hồ Ðộng Ðình và sông Trường Giang. Hàng vạn xác giặc Hán bị chết ấy oán khí bốc lên tận trời cao. Liệu trời cao có minh xét được rằng tội ác là do chính tên vua và triều đình Hán bắt lương dân vào lính đi cướp nước người? Nhưng không! Ngọc Hoàng Thượng Ðế lại sai Thiên binh, Thiên tướng từ trên trời xuống trợ chiến giúp bọn giặc xâm lăng. Nên Nữ Vương Phật Nguyệt cũng chẳng nề hà gì mà không đánh cho bọn Thiên binh, Thiên tướng sứt đầu mẻ tai tìm đường chạy trốn. Có lẽ vì ngồi ở trên cao quá, mà bầu trời mênh mông vô hạn, ông Ngọc Hoàng Thượng Ðế (do mấy ông nhà văn Tàu nặn ra) quên không nhìn thấy lương tâm cùng chân lý loài người đặt ở chỗ nào mà điều chỉnh, nên ông ấy không thấy cái sai của Hán Quang Vũ, ông ta lại sai thần Du Liệt sang Tây Phương cầu cứu Phật Như Lai. Thật khó hiểu và nên đoán là vì nể tình “trời, phật” giao hảo từ lâu, nên Phật đã truyền lệnh cho mười tám vị Kim Cương cùng ba nghìn La Hán xuống trợ chiến giúp bọn giặc Hán. Không có lẽ gì cả trời, cả đất, cả phương Ðông, cả phương Tây đều mù mịt u ám không loé ra được ánh sáng chân lý hay sao? Vì vậy nên Nữ Vương Phật Nguyệt cứ đánh tan tác mười tám vị Kim Cương cùng ba nghìn La Hán thua chạy, người thì bay lên trời, người chui xuống đất, lặn hướng Ðông, biến hướng Tây không còn ai, để cho cả trời và đất không thể mù mịt mãi, phải hiện ra ánh sáng chân lý bình minh hợp với ý nguyện toàn thể loài người. Nữ Vương Phật Nguyệt ngoài tước hiệu Nữ Vương bà còn có phật hiệu là Phật Nguyệt, có thể vì thế đức Phật Như Lai với phật nhãn của người, người tin rằng Nữ Vương Phật Nguyệt cũng là một vị phật siêu đẳng, nên người truyền đức Quan Thế Âm Bồ Tát tới gặp Nữ Vương Phật Nguyệt rồi tùy cơ Bồ Tát định liệu mọi sự. Khi Quan Thế Âm Bồ Tát đối diện cùng Nữ Vương Phật Nguyệt, hai ngài đều đem tất cả các pháp thuật cao cường, siêu đẳng ra quyết tâm hàng phục người dám đối địch với mình. Cuộc đấu phép vô tiền khoáng hậu này diễn ra suốt ba ngày ba đêm mà vẫn bất phân thắng bại. Cuối cùng Bồ Tát đành phải ngừng tay thu hồi các pháp thuật của người, rồi cùng Nữ Vương Phật Nguyệt hòa giải, bàn thảo tới các phương pháp cứu độ cho loài người sống trong thanh bình, an vui. Trong thâm tâm Nữ Vương Phật Nguyệt cũng tự biết dùng chiến tranh, dẫu cho là chiến thắng, cũng tạo sự sát hại nhiều sinh linh vô tội bị cưỡng bức vào chiến tranh, cũng không thể là phương thức cứu độ loài người, nên bà đã bỏ việc chiến tranh rồi đi tu.
Nữ Vương Phật Nguyệt đi tu, nhưng con đường chính đạo của bà không giống với phương pháp tu của Quan Thế Âm Bồ Tát. Nữ Vương tu theo “Ðạo Vua Bà”. Cũng từ đó cư dân các dân tộc gốc người Việt sống tại lưu vực hai bờ sông Dương Tử, nhiều nơi lập các đền, miếu thờ Hai Bà Trưng cùng các tướng lĩnh của Hai Bà. Nếu có những người lưu tâm nghiên cứu, tìm hiểu kỹ những tinh hoa, triết lý, tư tưởng của “Ðạo Vua Bà”, lại biết cải tiến, nâng cao các giá trị thánh thiện, loại dần những thấp kém, dị đoan, mê tín do bọn vua quan phong kiến kém tài tạo nên, tất nhiên “Ðạo Vua Bà” sẽ trở thành một tôn giáo tín ngưỡng ích lợi cho nhân quần xã hội.
Chân lý về vũ trụ và nhân sinh của dân tộc Việt, như đã viết ở chương “Bánh dầy bánh chưng” đã có giá trị là sự thực chân lý bao trùm mọi thứ đạo của cõi thế và gắn bó quan thiết với đất đai sông núi, với cuộc sống loài người cùng muôn loài, cùng vũ trụ bao la. Có thể lấy bài ca “Duy Tân” của phong trào “Ðông Kinh nghĩa thục” vào đầu thế kỷ hai mươi là quan niệm, trên một bình diện nào, điển hình cho “cách tu” của người Việt:
Phen này cắt tóc đi tu,
Tụng kinh niệm Phật ở chùa Duy Tân.
Ðêm ngày khấn vái chuyên cần
Cầu cho ích nước lợi dân mới là.
Tu cho mở trí dân nhà,
Nước ta độc lập dân ta phú cường.
Lòng thành thắp một nén hương
Nam mô Phật Tổ Hồng Bàng chứng minh.

Góc chùa Tây Phương tại Hà Tây, ngoài các mái cong
đặc biệt các khuôn tròn cửa sổ biểu tượng triết lý
âm dương đối xứng, không ở nơi nào có
Từ khi xảy ra cuộc chiến giữa quân Hai Bà đánh quân giặc Hán tại hồ Ðộng Ðình, rồi tới khi Nữ Vương Phật Nguyệt bỏ đi tu, thời gian về sau đã hình thành nên “Ðạo Vua Bà”. Bản “Sự tích Nữ Vương Phật Nguyệt” lược thuật trên đây được viết vào thế kỷ thứ tám. Từ thế kỷ thứ nhất tới thế kỷ thứ tám là thời gian dài thích hợp cùng khuynh hướng cả loài người phát triển nhiều tôn giáo còn trường tồn tới ngày nay. Cũng từ qui luật tổng thể chung, “Ðạo” của Nữ Vương Phật Nguyệt là truyền nối sự nghiệp, công đức Hai Bà Trưng, nhưng thời đại Hai Bà Trưng là kế nghiệp thời đại Hồ⮧ Bàng. Lịch sử Việt để lại nền móng xây dựng, mỗi viên gạch lại được trau chuốt, chọn lựa qua thời gian kết hợp thành tòa lâu đài kiến trúc lý tưởng.
Nghệ thuật kiến trúc “Sự tích Nữ Vương Phật Nguyệt” đạt mức hùng, bi, thiện mỹ ở chỗ: phá đổ và vùi lấp thuyết “thiên triều bịp bợm”, nhưng lại dùng ngay nó bị khuất lấp để xây dựng “Ðạo Vua Bà” lên trên. Loài người có thể ước mơ tới tương lai nào đó, cả loài người chung sống trong hạnh phúc và tiến bộ. Liệu điều mơ ước ấy có phải là tôn chỉ cùng là cứu cánh của “Ðạo Vua Bà” hay không?
Lý tưởng khởi nghĩa của Hai Bà không thích hợp với quan niệm độc tôn:
Các sách “Xuân Thu” của Khổng Tử và “Tả thị Xuân Thu” của Tả Khâu Minh đều có những chỗ viết chung một ý:
“Trời sinh ra dân, đặt ra vua, ra thầy, đều để giúp Thượng Ðế”. Hoặc: “Trời làm chủ thiên hạ, vua nối trời mà cai trị dân. Kẻ chịu mệnh trời mà cai trị dân là thiên tử”.
Kinh Lễ trong thiên “Vương chế” đưa ra nguyên tắc bất bình đẳng giữa các nước khác so với Trung Hoa là:
“Ðông phương viết Di. Tây phương viết Nhung. Nam phương viết Man. Bắc phương viết Ðịch.” (Dân ở phương Ðông gọi là giống Di. Dân ở phương Tây gọi là giống Nhung. Dân ở phương Nam gọi là giống Man. Dân ở phương Bắc gọi là giống Ðịch). Với quan niệm các câu nói này, người Trung Quốc xưa đều coi những người sống ở bốn phương không phải là dân Trung Quốc đều là các giống: mán, mọi, rợ, hồ, chưa đầy đủ các tiêu chí để được gọi là người! Còn xét theo chiết tự chữ nho, cả bốn chữ: Di, Nhung, Man, Ðịch đều thuộc trong các bộ chữ ám chỉ các giống: sâu, bọ, điểu, thú, mà thôi!
Sách Luận Ngữ ở thiên Quí thị có chỗ viết:
“Khổng Tử viết: Thiên hạ hữu đạo tắc lễ, nhạc, chinh, phạt, tự thiên tử xuất. Thiên hạ vô đạo, tắc lễ, nhạc, chinh, phạt, tự chư hầu xuất. Tự chư hầu xuất, cái thập thế hy bất thất hỹ! Tự đại phu xuất, ngũ thế hy bất thất hỹ! Bồi thần chấp quốc mệnh, tam thế hy bất thất hỹ! Thiên hạ hữu đạo tắc chính bất tại đại phu. Thiên hạ hữu đạo tắc thứ nhân bất nghị”. Tạm dịch: “Khổng Tử nói: Thiên hạ có đạo thì lễ, nhạc, chinh, phạt đều do thiên tử mà ra. Thiên hạ không có đạo thì lễ, nhạc, chinh, phạt do các nước chư hầu mà ra. Từ các nước chư hầu mà ra, hẳn trong vòng mười đời nước bị mất. Từ quan đại phu mà ra, trong vòng năm đời nước bị mất. Các quan coi phụ việc nước mà lộng quyền, trong vòng ba đời nước bị mất. Thiên hạ có đạo việc chính trị không do quan đại phu. Thiên hạ có đạo người dân thường không được nghị bàn”.
Thực tình chưa chắc những lời nói trên đã là của Khổng Tử, hay chỉ là lời của bọn hủ nho, quan lại nô bộc nền quân chủ chuyên chế phản quyền dân, quyền người đã tự nặn ra thứ tư tưởng trên, rồi gán cho là do Khổng Tử nói. Tuy nhiên cũng nên xét về giá trị những câu nói đó, vì nó đã đè nặng nhiều đau thương lên kiếp người Ðông Á. Thân phận con người sinh ra giữa cõi trời đất, nếu cứ như số đông các thánh nhân, triết gia, văn nhân ở Trung Hoa, châu đầu phục vụ cho ông thiên tử, khom lưng quì gối trước cái ngai vàng, thì trong bầu trời bao la minh bạch của cụ Lang Liêu người Việt đã xác định, xét ra những cái lý về thiên tử đã chẳng minh bạch chút nào. Bầu trời lại bị vẩn đục, vì ở đó lại cũng có một vị Ngọc Hoàng Thượng Ðế ngồi trên ngai vàng, có trăm quan văn võ, đầy đủ nghi vệ triều đình, giống như hệt những gì mà ông vua Tàu được thụ hưởng. Sự tưởng tượng ấy cũng chung qui chỉ để định đặt ra “luật trời”, một thứ mô hình phiên bản, dành nhiều đặc quyền cho thiên tử ở dưới trần gian. Còn thân phận của muôn triệu dân đành cam chịu cảnh lầm than hèn mọn, do chế độ tạo ra biết bao tệ nạn tham quan, hà khắc, bất công, phi lý. Hỏi như thế còn đâu là quyền công dân? Còn đâu là quyền con người?
“Ðạo Vua Bà” được mọi người dân tín ngưỡng là do lòng dân ước mơ được sống trong xã hội loài người không còn cảnh bịp bợm phi nhân, phi nghĩa.
Ðiều bi thiết vô cùng thương tâm là chính đám người lương dân sống đáy cùng xã hội bị đày đọa bóc lột, lại là những người phải chịu tai họa nhiều nhất, khi chế độ phi nhân lung lay. Họ bị cưỡng bách ra ngoài mặt trận lao vào đất chết để phải đàn áp các phong trào khởi nghĩa, hay phải đi xâm chiếm các nước lân bang chỉ để củng cố vững vàng và thỏa mãn tham vọng của tên thiên tử cùng chế độ phi nhân nghĩa. Do đó dù Nữ Vương Phật Nguyệt thắng bọn Mã Viện, Lưu Long, lại rất đau lòng nhìn thấy xác chết quân giặc lấp đầy cả hồ Ðộng Ðình và sông Trường Giang, nên Nữ Vương Phật Nguyệt gác ra ngoài chuyện chiến tranh, chiến thắng. Người đi tu để tìm chân lý mới cho cuộc sống con người. Lịch sử để lại những hình thành của lịch sử, các thế hệ sau nên xây dựng, tô thắm lịch sử, phục hưng những gì đích thực lịch sử, không nên xuyên tạc, bôi nhọ, làm rối loạn, phức tạp sự thừa kế lịch sử nhằm thỏa mãn những tham vọng phi nhân, phi nghĩa. Vấn đề hệ trọng đặt ra đối với tuyệt đại đa số những người Hoa Nam vốn gốc là dân Việt và những người Việt sống trên đất Việt ngày nay, đều cần nhớ là dù là Việt hay Hoa cũng đều chung ruột thịt huyết thống, phải thương yêu nhau bằng tình ruột thịt huyết thống. Khái niệm quốc gia đa số thường gồm nhiều chủng tộc. Khi hai quốc gia chung biên giới lại có nhiều cư dân chung một chủng tộc sinh sống ở cả hai phía nơi phân cách biên cảnh, ý nghĩa cao đẹp nhất là nhân dân hai quốc gia Việt, Hoa phải loại bỏ mọi sự tranh chấp bất hòa, dù chỉ là sự mưu chiếm lấn một vài trăm cây số vuông đất biên cương hoặc tham lam nhận chủ quyền vô lý ở một vùng biển, vài hòn đảo hay gây xáo trộn bất ổn biên giới. Tốt nhất, giới cầm quyền hai nước nên chú tâm vào việc nâng cao dân sinh, dân trí và tình thương yêu lân bang để nơi ranh giới quốc gia cũng là nơi kết nối tình huyết thống ruột thịt.
Nhận định cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng cùng truyền thuyết Nữ Vương Phật Nguyệt tức vị nữ Chúa hồ Ðộng Ðình cộng với tín ngưỡng Ðạo Vua Bà trải qua lịch sử kéo dài cho tới ngày nay, khiến mỗi công dân người Việt không thể không liên tưởng nghĩ: – Ðã có biết bao nhiêu cuộc vận động, bao nhiêu cuộc khởi nghĩa và kháng chiến hào hùng đồng loạt diễn ra dưới thời đại Hai Bà Trưng và truyền lại ý chí bất khuất mãi mãi cho hậu thế ra sao? Những cuộc khởi nghĩa tranh hùng ấy đã bị lịch sử ngoại xâm xuyên tạc, đã bị bụi thời gian che khuất mất bao hào quang?

(Chương 13. Nữ Vương Phật Nguyệt cũng như ở chương 5. Ðất Nước Tổ Hùng, tác giả khi viết có trích dẫn, tham khảo bài diễn văn của Giám đốc Trung Quốc Sự Vụ thuộc Viện Pháp Á (Institut Franco Asiatique) đọc vào dịp khai giảng niên khóa học 1991 – 1992 của Viện Pháp Á, nguyên văn tiếng Pháp, do Tăng Hồng Minh dịch sang Việt ngữ).

Vương Đàm

Xuân Bích

Lặng Bước Đêm

lặng bước đêm – khuya khoắt cuộc đời
chênh vênh tiếng nói gọi “người ơi”
nghiêng theo số phận tìm soi bóng
vẫn thoáng dung nhan cuối mặt trời

lỡ phút mê quên ngang hẹn thề
bao niêu mơ ước tạc hồn quê
giờ như chìm lắng vào ngôn ngữ
để gửi bâng quơ tiếng gọi về…

đã biết không gian vốn lạnh lùng
thời gian ai đếm nhịp buồn rung
con tim thế hệ cần hơi thở
để thổi vào nhau dưỡng khí hùng

nếp sống tình xưa xưa bốn ngàn
bốn ngàn năm ấy một trần gian
và em còn nhớ hồn dân tộc
như sóng tình quê dâng ngập tràn

những mảnh tình cài trong khúc ca
có em và có cả mầu hoa
cây tre cành trúc con đường cỏ
em có khi nào chợt nhớ ra.

Tóc Thề

tóc thề buông xõa ngang vai
bao nhiêu hứa hẹn man khai một đời
chuyện tình là chuyện muôn nơi
trăm năm riêng rẽ một trời lứa đôi
nhớ thương vây kín chỗ ngồi
bâng khuâng quên lãng một hồi sinh quen
biết nhau khung cửa sách đèn
những tờ thư lén hờn ghen học trò
nhớ xưa một thuở quạt mo
hồn nhiên trong xóm chơi trò ca dao
có em và có trời sao
bỗng nhiên giờ lại tiếc bao dại khờ
lỡ làng còn lại trong thơ
trao em lưng vốn để chờ vần lơi
thế gian ta vốn đổi rời
sao không khác lạ cho vời vợi nhau
lắng nghe trong những niềm đau
băn khoăn đứng lại nhìn sau dáng mình

Lặng Bước Đêm

lặng bước đêm – khuya khoắt cuộc đời
chênh vênh tiếng nói gọi “người ơi”
nghiêng theo số phận tìm soi bóng
vẫn thoáng dung nhan cuối mặt trời

lỡ phút mê quên ngang hẹn thề
bao niêu mơ ước tạc hồn quê
giờ như chìm lắng vào ngôn ngữ
để gửi bâng quơ tiếng gọi về…

đã biết không gian vốn lạnh lùng
thời gian ai đếm nhịp buồn rung
con tim thế hệ cần hơi thở
để thổi vào nhau dưỡng khí hùng

nếp sống tình xưa xưa bốn ngàn
bốn ngàn năm ấy một trần gian
và em còn nhớ hồn dân tộc
như sóng tình quê dâng ngập tràn

những mảnh tình cài trong khúc ca
có em và có cả mầu hoa
cây tre cành trúc con đường cỏ
em có khi nào chợt nhớ ra.

Khúc Giao Mùa

Cuối thứ bẩy – đêm côn trùng kể lể
tháng năm mòn trên hệ lụy lá xơ
chủ nhật chìm trong cơn nhớ vỡ bờ
lời định nghĩa trơ vơ thềm thư viện
chân lữ thứ đi trên giầy kỷ niệm
khúc giao mùa còn hát đuổi nhau chơi
những tình nhân chưa quên phút nghẹn lời
chưa nguôi được niềm vui thai nghén cũ
nghe vời vợi trên vai trần giấc ngủ
những vòng tay âu yếm thuở vào nôi
và mùi thơm trên môi má cuộc đời
chân dẫm nát những ru hời dưới bóng
xoay rạo rực cho nghi ngờ cô đọng
những bàn tay gian dối tự bao giờ
vun đam mê theo nhịp thở thờ ơ
đêm bốc cháy cơn mơ hồ sa mạc
bầy chim dõi bay theo mùa cỏ rác
những mảnh đời vừa thất lạc đâu đây
vội tìm nhau chia xớt nghiệp lưu đầy
trên chiếc áo xanh rêu còn vết tích
đời bật ngã theo nhau ngày đếm lịch
đêm vong thân từng sợi xích thời gian
đi qua nhau qua những chặng bụi tàn

hôm nay nhớ như mình đang vẫn nhớ
tay dụi mắt xua tan từng bỡ ngỡ
mỗi niềm tin đều tự cứu riêng mình
mỗi lầm than đều có một hành tinh
như đã mất cả cung đình tuổi trẻ
sao không giữ lại trăng thề thế hệ
mượn cuộc chơi chia dĩ vãng làm đôi
nửa lên ngôi nửa đi xuống ngậm ngùi
đêm gái góa nuôi con bằng tủi hận
chiều biên giới mồ hôi đầm trên trán
dưới màn mưa bụi muông thú tìm ăn
khắc trên lưng đôi ba vết tục tằn
đời cơm áo vốn no lành – đói rách
thời nghiên bút thiếu chi phường đốt sách
cơn mê điên trong huyết mạch tràn tuôn
đem hoang vu đi gán nợ mất còn
ôi điên loạn cơn di truyền dã thú
đem nanh vuốt ghim trên mình lịch sử
dựng đời lên so cuồng vọng đổi trời
gom thiên thu vào rộng lớn mù khơi

ta viết ngược tên mình trên giấy lạ
song vẫn giữ nguyên hương trời cỏ lá
nhớ mặt nhau và nhớ cả gì đâu….
vẫn nguyên mình và nguyên mãi về sau.

Gió Mùa

gió mùa len lén ru hồn
cây rưng rưng lá hoàng hôn mận đào
vấn vương từ ở phương nào
theo tương tư nắng về sao lá vàng

một người hôm ấy lang thang
tìm trong hà nội áo vàng tay lơi
lạc mình trong những chơi vơi
lạc người ngay giữa những nơi hẹn hò

sương thu vời vợi giăng mờ
chiều lên ngơ ngẩn bên bờ sông đêm
lá rơi thao thức khoang thềm
tiếng ca ai rót buồn thêm đêm người

chắt chiu từ tuổi mấy mươi
bây giờ huyễn hoặc nụ cười triết nhân
phồn hoa trên ngõ phong trần
tình yêu say sóng cho vần thơ nghiêng

phía em thần thoại cồng chiêng
phía ta thu vẫn vàng riêng lá mùa
bao nhiêu hôm ấy cho vừa
để hong vơi cạn ngày xưa chúng mình

bao nhiêu cơn nhớ tội tình
rủ nhau vào nẻo quyên sinh muộn màng
hóa thân từ ngõ thôn trang
em về phố thị mang mang ngợ hờ

nửa hồn em vướng vào thơ
đôi mi xanh khép lững lờ miền xa
mùa thu năm ấy mười ba
nửa hồn em chớm ngã sa giận hờn

bây giờ em có buồn hơn
bao nhiêu thu ấy chập chờn trong mơ
áo xưa còn óng vàng tơ
hay giờ đã ngả sang ngơ ngác đời.

Hoài Thu

mỗi năm một mùa lá rụng
con người lặng lẽ xa xôi
gió mềm ru cơn thoảng nhớ
những lời chiều lạnh chơi vơi

giữa đêm lá mưa xào xạc
tình yêu ngơ ngác mơ hoang
lối xưa chập chờn bóng đổ
hồn lay đôi cánh lỡ làng

giấc mơ hồi hương khô – ướt
như từng giọt trắng long lanh
trên mệnh trầm du hoa lá
hoen nhòa hữu thể mong manh

mỗi đêm một lần thức giấc
chia đời mật mã hư vô
chia mình thời gian khuya khoắt
chia ai nghiệp dĩ thờ ơ

mùa thu nay về ngược lối
chỉ vàng trên những ngõ sâu
cỏ may ngập bờ hoang vắng
nhặt vờ mượn cớ gần nhau

những mùa thu xưa tuổi nhỏ
quê hương vàng mộng ấu thơ
tình yêu vụng thầm e ấp
băn khoăn thứ bảy học trò

Em Về

em về như cơn gió ngoài song
đánh thức cơn đau đã thuộc lòng
những phút bên nhau buồn lẩn tránh
khu vườn thương nhớ lại vào đông

em về như giọt nắng pha sương
ướt thảm tương tư ướt cỏ trường
năm tháng chung đường vui đại học
nhưng rồi hai đứa lại hai phương

em về đong lại một đầy vơi
giếng mắt sâu dung chứa cuộc đời
vẫn giấu cho nhau lời uẩn ức
chia hoài con số lẻ phân đôi

bao giờ bôi xóa được hoài nghi
và để em nghe hết những gì
và để em không còn lưỡng lự
không còn lần nữa tiễn em đi

khi nào em trở lại quê này
đời vốn vô thường sao chẳng hay
sao vẫn phiền nhau câu hỏi ấy
cuộc đời muôn nẻo lối mây bay

em về ta ở lại hoàng hôn
mầu nắng sa – tan vẫn đủ buồn
thiêu cháy một khoang nhìn ảo tượng
khi mình rất thật một cô đơn

Bóng Lẻ Mùa Đông

Đông về chín lạnh miền xanh
chiều đơn bảng lảng trên cành hở hang
lá rơi rơi vướng ngỡ ngàng
chênh vênh ý nghĩ từng trang vô đề

mắt nai và cõi đam mê
thu hình đêm ủ trên hè lá khô
nghe quen xào xạc bây giờ
âm thanh vọng tới biên bờ ngày sau

tim ta còn lại vết đau
chờ thoa hơi ấm cau trầu thuyền quyên
gói nguyên câu nói tật nguyền
vào đêm chôn cất từng phiên lạc loài

mùa thu chưa dối gạt ai
sao mùa đông nỡ khổ sai hợp đề
tóc xưa buông chạm lời thề
trăng mười sáu vụng về khoe dáng buồn

giọt sương chiều gội hoàng hôn
trầm tư bóng lẻ như còn thôi miên
bên ngoài gió thổi nhiều thêm
bên trong lũng nhớ về đêm bão hòa

Xuân Bích

Vũ Hối

Vu Hoi

Bức Tranh Sông Núi

Núi sông còn mãi bên nhau
Phải chăng núi thích lao xao vỗ về
Hay là sông núi muốn kề
Ðể cho sông khỏi bốn bề quạnh hiu
Hay là sông ngại nắng chiều
Núi cao che bớt ít nhiều xôn xao
Núi non quê mẹ lao đao
Âm thầm sông rửa niềm đau quê mình
Ai hay sông núi hữu tình
Còn sông còn núi, còn mình bên nhau
Sông dài trời rộng núi cao
Trăng khuya vời vợi dạt dào tình quê
Buồm xa thấp thoáng đi về
Vi vu gió núi nặng thề nghĩa sông!
Ðiệp trùng sông núi mênh mông
Nắng mưa nghiệt ngã giữa dòng bể dâu
Trăng khuya nhớ sóng bạc đầu
Thương sông núi đứng dãi dầu từng đêm
Thông reo như tiếng mẹ hiền
Lời ru vọng cả hồn thiên núi rừng
“À ơi!…
Thuyền ra giữa bến thuyền dừng
Ai đi thương nước nửa chừng lại thôi
Trách ai tình nước như vôi
Thù nhà nợ nước buông trôi giữa dòng
Bỏ bao chiến hữu long đong
Bỏ hình chữ S đường cong quê mình”
“À ơi!…”
Lời ru của mẹ đầy tình
Ðèn khuya lay bóng lung linh nhớ người
Bức tranh sông núi tuyệt vời
Việt Nam ta đó rạng ngời tương lai

Bông Bí Trắng

Hương quê bát ngát tình quê mẹ
Nhìn bông bí trắng nhớ vườn xưa
Vần thơ trăn trở sầu ly khách
Thương mẹ hiền dầu dãi nắng mưa

Mái tóc bạc phơ màu bông bí
Mẹ tảo tần rẫy sắn vườn khoai
Chiều chiều đợi con ngoài đầu ngõ
Ðêm đêm thao thức tiếng thở dài

Mai con sẽ về trong nắng mới
Mẹ hiền ơi khỏi phải chờ trông
Mẹ Việt Nam nghìn đêm trăn trở
Hai vai gánh nặng nợ núi sông

Nhìn bông bí trắng nhòa mắt lệ
Bạc trắng như vôi tóc mẹ hiền
Mòn mỏi đợi con hiên vườn cũ
Trọn đời tình mẹ mãi không quên

Mẹ ơi! Mấy mùa bông bí nở
Là đã mấy mùa con tái tê!!
Chẳng còn giấc ngủ nghìn năm nhớ
Tình con thắm thiết mãi hương quê.

Chiêm Bao Trở Giấc

Người yêu dấu hỡi! cùng say
Nồng men sưởi ấm, phương này còn nhau!
Bồng bềnh sóng tóc bể dâu
Nỗi đau xa nước, nỗi đau phận mình!
Ngậm ngùi, mòn gót lênh đênh
Bốn phương lạc bước, quê tình là đâu?
Thuở nào em bước qua cầu
Sang ngang thuở ấy, không câu giã từ
Lệ nào nhòa tím trang thư
Từng con chữ khóc bây chừ biết không!
Bốn bề tuyết phủ mênh mông
Mười thương : một cõi hư không lạnh về
Chiêm bao trở giấc tỉnh, mê
Đèn khuya hắt gió, tái tê, lay sầu
Nghẹn ngào, vạn nẻo về đâu?
Cứ xem nhẹ tựa qua cầu gió bay
Người yêu dấu hỡi! cùng say
Tình ru cõi mộng, quên ngày tha hương …

Cuội Đá Tương Tư

Hóa ra là chuyện mây bay
Hóa ra là chuyện cười say, đời thường
Chỉ vì trăm nhớ ngàn thương
Để cho cuội đá cũng tương tư buồn
Một lần đi: cõi mưa tuôn
Bao giờ ta lại về nguồn, người ơi!
Trăng sầu chênh chếch chơi vơi
Nhìn ta bao độ tả tơi hồng trần
Lệ nào cay với bâng khuâng
Mặn môi nuốt cả quặn bầm xót xa
Nhuốm sương mái tóc phù sa
Nắng chiều nghiêng bóng, quê ta ngút ngàn
Đêm buồn lạc xứ, dở dang
Xót thân ly khách, ngỡ ngàng đơn côi
Đâu còn mặn một bờ môi
Nỗi đau, tóc bạc như vôi, đất người!

Vũ Hối

Võ Thạnh Văn

Vo Thanh Van

Tự Thuở

Ta về cuối thu nắng úa
Em hong tóc mượt sau hè
Chia tay đầu xuân gió lụa
Em còn ướt đẫm cơn mê

Một mùa đoàn viên mộng trở
Cỏ hoa giấc động nôn nao
Búp phong bao năm khai mở
Sỏi đường đếm tuổi xôn xao

Ngỡ ngàng nhìn em bước nhỏ
Một thời chân sáo tung tăng
Cổng xưa gạch hoen bỏ ngỏ
Hoa tàn lặn mấy mùa trăng

Ra đi suối tình chưa thoả
Đào nguyên thôi trổ nụ lành
Phù hoa yểu tàn tự thuở
Cổng làng héo đọt tre xanh

Môi Má Long Đong

Duyên do hơi thở ấm nồng
Mắt môi sóng dậy long đong nửa đời
Tình thăm thẳm. Tứ diệu vời
Trong nghi hoặc thốt vạn lời thủy chung

Từ em khao khát khôn cùng
Mắt môi ngày nọ, sương chùng buổi kia
Từ huyễn hợp, nẩy chia lìa
Từ đêm mưa rớt nước khuya chảy tràn

Bởi em môi má hỗn man
Tóc râm biếc núi. Mật tràn xanh đêm
Lời rót ngọt. Ý tô thêm
Đắng, cay, bùi, ngọt, ngoan, mềm, dối, gian

Và em rừng rợp thông ngàn
Ngực phên che gió. Da làn ngăn mưa
Mắt môi nước lửa đương vừa
Tình mùa úng thủy lòng chưa kịp ngờ

Dợn Sóng Lao Xao

Ru em. Ru biển. Ru đời
Ru mây chùng thấp. Ru trời dâng cao
Vì em là biển dạt dào
Nên ta yêu sóng lao xao dặm vời

Ru em cùng biển chung nôi
Chung chăn, chung chiếu (chung vôi, chung trầu)
Vì em là biển sóng nhàu
Hẹn nhau (Bãi Trước, Bãi Sau) tỏ tình

Vì em là biển trung trinh
Và ta vách đá gập ghình phận riêng
Ru em một mối hai giềng
Cho ngoan Bãi Trước. Cho hiền Bãi Sau

Ru em rong dợn ngần đau
Triều dâng (Bãi Trước, Bãi Sau) nguyên dòng
Mai ngày tình chắc long đong
Ru em (nước lớn, nước ròng) như nhau

Giấc Mơ Vợi Buồn

Ta mơ thấy em về
Ngồi khóc trên bục cửa
Mắt buồn rười rượi lửa
Môi bầm tím cơn mê

Ta đưa tay nâng cằm
Nhìn vào khóe lệ đẫm
Vực sâu vời vợi thẳm
Thấp thoáng bóng trăng rằm

Ta bế em vào phòng
Khơi trầm hương lãng đãng
Ru em mềm dĩ vãng
Khói quyện tròn long đong

Trên trán em thơm nồng
Ta làm dấu thánh giá
Môi chợt bừng nụ lạ
Cánh đỏ tươi lan hồng

Em chính là vì sao
Đi lạc vào cõi mộng
Giữa mùa sông biển động
Sóng nước mừng xôn xao

Sương Nổi

Nhúng chân vào cõi mê lầm
biết đâu oan nghiệt
đã tầm tã phơi

Từ trong ký ức tóc rời
từ trong hoang vắng
bời bời dáng ai

Nghìn năm đá dốc thở dài
còn nguyên vẹn tấm hình hài
nổi trôi

Bụi làn kiếm rỉ phai phôi
mù sương khuya lạnh
ma trơi hiện hồn

Biết bao bão nổi sóng dồn
biết bao kinh khuyết vùi chôn
đá vàng

Cổng xưa gió lộng thênh thang
vườn xưa trăng giải
băng ngàn ngậm hoa

Chiều nghiêng bụi quáng mắt nhòa
tưởng ai về lại bên tòa nhà rêu

Cay từng nhịp thở chưa đều
quặn từng khúc ruột
tiêu điều khúc quanh

Người đi úa cỏ vàng thành
ngày kia cứ ngỡ mong manh lời thề

Dấu chim biền biệt đường mê
còn in dấu ấn lối về động rêu

Ơn Em Ơn Đời

Ta cám ơn em
Mắt môi tứ đại
Tình còn ướt mãi
Trận bão cuồng đêm

Ta cám ơn người
Tóc bung gảy ngọn
Tình tuy chưa trọn
Đã chớm đọt tươi

Ta cám ơn đời
Trao đưa duyên cớ
Tình mai dẫu lỡ
Nhớ mãi trùng khơi

Ta cám ơn lòng
Trổ hoa từ ái
Trên miền đất dại
Tràn trề mật ngon

Ta cám ơn tình
Dâng hương hoa lạ
Tóc thơm khói hạ
Da nồng bùa linh

Ta biết ơn ta
Then lòng bỏ ngỏ
Tình qua lối đó
Ngọt lịm hương hoa

Sương Thu Gờn Gợn

mây về chiều nay
từ trời thu nọ
giọt mưa quá ngọ
em khép đôi tay

nhớ đắp chăn khuya
mùa nầy chớm lạnh
chiếu giường mông quạnh
từ cuộc tình chia

nhớ đắp chăn hoa
gió đêm nghịch ngợm
tình len lén chớm
trên từng phân da

không nên thức khuya
và đừng dậy sớm
sương thu gờn gợn
lạnh suốt mùa chia

buổi mây thu đi
vầng trăng úng đỏ
lá, hoa, rêu, cỏ…
trĩu đọng oằn mi

Liên Khúc Ru Người
1.
Ru em tự thủy chí chung
Từ nôi lòng mẹ đến cung lòng đời
Đầu rừng cấm. Cuối biển khơi
Tóc trườn suối hiểm. Mắt ngời hố thiêng
2.
Ru em đẫy giấc ngoan hiền
Giục trăng về đậu khắp miền da thơm
Cho hoa chớm. Cho nụ đơm
Khai thiên tình sử ngát thơm phấn nồng
3.
Ru em nguyên tuổi phiêu bồng
Mắt xanh lục bát. Môi hồng ca dao
Lầu trăng thơ chảy dạt dào
Giấy bay lượn chữ. Mực ngào ngạt kinh
4.
Ru em mưa nắng thâm tình
Lời thiêng khấn hứa. Câu linh nguyện thề
Mai sau mộng mị đi về
Còn bùi ngùi nhớ. Vẫn mê mẩn chờ
5.
Ru em đầy ắp trang thơ
Ngát thanh phong lạp. Thắm tờ hồng tiên
Ý sâu thẳm. Tứ diệu huyền
Đạm nhiên rượu quế. Uyên nhiên nhạc tùng
6.
Ru em diệu vợi mông lung
Nhánh quằn trĩu đợi. Cành chùng rũ mong
Xưa sau sông nhánh chia dòng
Nhấp nhô bến nước. Long đong cau trầu

Từ Buổi Trăng Về (2)

1.
Tình vẫn ngủ nhưng lòng thao thức đợi
Rong vẫn trôi theo đợt sóng ghẹo bờ
Bóng mây qua cuối trời xanh vời vợi
Từ thiên thu, cửa động khép ơ hờ

2.
Nghe trăn trối đáy vực ngầm vách ráng
Dội sườn non ngân tiếng thác giao mùa
Đã bao đêm khép chừng vuông đá tảng
Chờ người qua vẩy nước lệnh truyền thừa

3.
Ta cứ ngỡ bước người về động vắng
Lòng nôn nao đêm thức đợi bình minh
Khuya tịch mịch nghe chừng hang sâu lắng
Trăng vàng xanh vữa rục rã tâm tình

4.
Trăng vàng lạnh suốt một đời trơ trọi
Ta vàng hanh khánh mõ tụng kinh chiều
Em vàng võ buổi ra đi bão gọi
Và trở về tóc rối quạnh đìu hiu

5.
Từ thuở ấy ta quên bài nhật tụng
Em nhởn nhơ khép mắt lối đi về
Nghiêng tai đón trăm vạn lời chúc tụng
Tận đáy hồn chân lý héo cơn mê

6.
Bao thế kỹ nay vẫn còn bỡ ngỡ
Dường tương tư bóng dáng thoảng hương trầm
Nơi bến cũ trăng mấy lần dang dở
Mé hồn ta sóng nước vỗ phăng đầm

Bèo Bọt
ngâm trong rượu đắng tiếng cười
treo trên thác nhớ
dáng người truân chuyên

hồn phơi suối tóc bay nghiêng
hong mờ ký ức
thoáng hiền xa xưa

ghi trăm năm giấc ngủ thừa
khắc hờ huyền thoại
chiều mưa năm nào

bụi làn phố đỏ hư hao
hong vàng cổ sử xanh xao úa tàn

hâm bình trà nhạt chiều hoang
ủ tịch liêu
tưới mộ phần đạm-tiên

nhuộm đen tình mỏng ưu phiền
vẽ hình vân cẩu lời nguyền
chung thân

nghiêng vò thế sự trầm ngâm
say mèm bỉ thử (dư âm không màu)

sưởi lòng thiên cổ còn đau
ướp cay dĩ vãng
thiên thâu còn nồng

đúc lầu quốc sắc tàn vong
tạc hình nữ kiệt gọi hồn thuyền quyên

đáy cốc buồn dát tên em
thâu kinh vô tự vọng trầm chuông không

Võ Thạnh Văn

Võ Thị Điềm Đạm

Vo Thi Diem Dam

Lan Rừng

Tiếng đàn violin của những ngón tay cứng mới tập, của cườm tay ngập ngừng đưa tới đưa lui, melodi lúc nhịp nhàng lúc đứt đoạn vì thỉnh thoảng sai note sai nhịp, vang từ lầu trên theo cầu thang len qua cánh cửa ngăn tiệm và phòng nghỉ ngơi, cẩn thận tràn vào cửa tiệm gần năm mươi mét vuông. Đứng coi tiệm chưa được mười phút, tiếng đàn văng vẳng làm Phi bực tức. Phi không bực vì tiếng đàn quá vụng về của người mới tập, anh bực vì nhận ra cái tâm địa của Kiều Lan.

Tiệm vắng khách chỉ làm cho đầu óc Phi rộng chỗ mà ngẫm nghĩ. Hừm… té ra cô nàng nhờ mình đến coi tiệm chiều nay để có thì giờ tập đàn. Ừm… dỡ thói học làm trí thức, học làm sang. Té ra cô nàng lợi dụng mối tình cảm ngày xưa, lợi dụng hoàn cảnh mới ly dị, một thân một mình với thằng con sáu tuổi, nay nhờ chuyện này mai nhờ chuyện kia. Đầu óc cô nàng sao mà ngắn ngủn, đục ngầu không lường được. Hừm… vợ chồng mình với vợ chồng cô nàng thân nhau mấy năm như vậy mà cô nàng không hiểu được tình bạn này hay sao. Hừm… ráng cư xử thẳng thắng có học dầu cô nàng đã ly dị với Dương thì cô nàng lại tưởng mình còn lưu luyến, còn tiếc nuối nên tìm cách dùng mình như tấm giẻ lau. Hừm… tội nghiệp Nga, chẳng phàn nàn một lời khi mình bảo sẽ lên phố coi dùm cửa tiệm Natiki vài tiếng đồng hồ. Nga biết mình ngày xưa có thời theo đuổi cô nàng. Nhưng từ khi quen Dương, quen luôn cô nàng, Nga hiểu mình chẳng còn chút lưu luyến, nên Nga chưa bao giờ cằn nhằn khi mình ra tay giúp đỡ cô nàng trong hoàn cảnh một mình với con với cửa tiệm. Hừm… tưởng nhờ mình coi tiệm để cô nàng lo cho thằng Nhân, té ra là gởi thằng con ở đâu đó để rảnh tay tập đàn. Nể Dương là bạn nên giúp, thương thằng nhỏ nên ráng đỡ một tay. Hừm… hèn gì cả tháng nay, hầu như chiều thứ năm tuần nào cô nàng cũng bảo sẽ đi công chuyện chừng một tiếng, nhờ mình đến coi tiệm. Hừm… một tiếng mỗi tuần để đi học đàn cho nên mới kéo đàn được đến trình độ đó chứ xưa nay cô nàng có biết đàn trống gì đâu. Đi làm về, cơm nước chưa ráo miệng, bị gọi lại nhờ coi tiệm, cực chẳng đã…

Càng nghĩ, mặt Phi càng nóng. Phi đứng phắt dậy, đi vào phòng trong, căn phòng vừa là nơi ngồi nghỉ trưa, vừa chứa hàng. Phi với tay dựt mạnh cái áo khoát, mặc vào, đứng dưới chân cầu thang, không giữ được giọng bình tỉnh, nói vọng lên
– Tôi đi về đây.

Không một lời giải thích. Không chờ trả lời. Không cần biết là Kiều Lan có nghe hay không. Không chờ Kiều Lan đi xuống để coi tiệm. Phi đẩy cửa bước ra ngoài. Khí trời tháng năm trong mát, nắng chiều sáu giờ vẫn còn nóng ấm, sự dễ tính của tiết đầu hè nơi thành phố Dramen làm lòng Phi dịu dần dần.

Tiếng đàn ngưng bất chợt khi nghe Phi nói lớn giọng. Tiếng chuông cửa reo vui nhẹ mỗi khi có khách hàng ra vô vang lên, ngắn gọn. Lắng tai. Không nghe Phi chào khách, im lìm không người. Kiều Lan đặt cẩn thận cây đàn lên giường, đi xuống ngay lúc cánh cửa ra vô khép lại phía sau lưng áo khoát màu cà phê sữa quen thuộc của Phi. Sửng sốt, Kiều Lan chạy ra đường, kêu to
-Anh Phi, anh Phi, anh đi đâu vậy?

Biết Phi nghe nhưng Phi không quay lại, cứ hướng nhà gởi xe mà tới, Kiều Lan vùng vằng đi vô tiệm, miệng lẩm bẩm: Tự nhiên trở chứng. Đi về bất tử kiểu này thì làm sao mà tới kịp giờ học đàn đây. Đồ cà chớn, chắc con Nga gọi giựt ngược về thay tả cho con đây. Thứ sợ vợ. Thứ đi thưa về trình. Điệu này chỉ có nước đóng cửa tiệm mà đi thôi, không bỏ giờ học đàn được, phí hai trăm bạc. Hừm… đóng cửa tiệm thì mất khách. Nhưng phải ráng học, lỡ khoe ẩu với Magnus… hừm… tưởng ráng được thêm vài tuần nữa cũng đủ… hừm…

Tiếng là ly dị chứ thật ra phải gọi là bỏ nhau mới đúng. Tiệc cưới của Kiều Lan và Dương được tổ chức khá long trọng có đầy đủ gia đình họ hàng nhà Dương, người cô của Kiều Lan, đầy đủ bạn bè Việt Nam, nhưng thiếu ba của Kiều Lan vì ông còn đang ở trại tị nạn, thiếu bạn bè Na Uy, thiếu giấy chứng nhận của phòng hành chánh quận. Địa chỉ Dương vẫn nằm ở nhà ba mẹ, ông bà thiếu tá hải quân Tôn Thất Hồng thì việc Dương ra khỏi căn nhà trên đồi Eider cũng không có gì là rắc rối. Còn giữ được cửa tiệm ở Sandefjord là Dương cũng may mắn lắm rồi, nhờ kế hoạch Kiều Lan đứng tên một tiệm, Dương đứng tên một tiệm để nhẹ thuế má.

Kiều Lan đẹp, đẹp từ vóc dáng dong dỏng cao biết ăn diện thanh nhã, đẹp ở gương mặt xương xương đều nét, đẹp cả ở cái lý lịch do Kiều Lan kể bố là phó quận đã ở vậy nuôi đứa con gái độc nhất từ khi vợ chết sau lần sanh Kiều Lan. Mười chín tuổi, qua Na Uy với người cô già không chồng nhưng khá dễ tánh nên Kiều Lan mặc sức lựa chọn trong đám thanh niên từ anh sinh viên sắp ra trường cho tới anh đang học lại để lấy bằng tú tài như Phi và Dương. Dương và Phi là đôi bạn thân từ những ngày bên trại tị nạn, cùng vỡn vờ tán tỉnh Kiều Lan như bao chàng trai khác. Nhưng rốt cục, cái gốc con ông thiếu tá hải quân dòng Tôn Thất đã làm xiêu lòng cô gái chuộng nơi có nguồn gốc môn đăng hộ đối. Phi chỉ là con trai thứ trong một gia đình công chức nghèo, không xứng đáng với cô con gái độc nhất của ông phó quận.

Dầu cho Dương và cả mấy người con của gia đình ông thiếu tá hải quân Tôn Thất Hồng không ai theo nổi cái bằng tú tài thì Kiều Lan chỉ cần kể cho bạn bè nghe về ông chú chồng Tôn Thất này đã du học ở Canada rồi định cư luôn, đến bà cô chồng Công Tằng Tôn Nữ kia đang là bác sĩ ở Mỹ… thêm vào ông bố cựu phó quận đã qua Mỹ và xin được ngay chức chủ sự phòng, phải cưới vợ theo sự năn nỉ của đứa con gái mong muốn bố mình tìm được an vui nơi xứ người, cũng đủ cho Kiều Lan tự đặt mình vào giai cấp danh giá. Mở cửa tiệm bán tặng phẩm chỉ là một cách để làm ăn tự do, làm nhiều hưởng nhiều, không bị nay làm hãng này mai thất nghiệp sở kia như nhiều người. Ở nước ngoài thì phải sống theo người ta, cái gốc sữa mẹ trung lưu nó nằm luôn mãi trong mỗi con người, Kiều Lan thường nói chuyện với bạn bè như thế.

Thật nhiều lợi điểm nếu khai con không cha. Vì Dương không đứng tên là cha trong khai sanh, không phải trả tiền nuôi con cho người mẹ nên Kiều Lan được hưởng vừa hai phần tiền có con nhỏ vừa hưởng tiền phụ cấp phụ trội. Không có giấy tờ hôn thú, không sống chung trên phương diện pháp lý cho nên khi mua nhà, Kiều Lan đứng tên nhà là tiện lợi đủ điều. Phụ nữ độc thân có con nhỏ, được sở Nhà Đất Tị Nạn cho mượn tối đa với tiền lời thật thấp và sở thuế má cũng thương tình hoàn cảnh một mẹ nuôi con. Mọi khẻ hở trong những luật lệ, điều khoảng trợ cấp, tương trợ ở một xã hội đặt sự an vui của từng người dân lên hàng đầu đuợc Dương và Kiều Lan khai thác tối đa. Khi tình yêu còn mặn nồng, không ai tính toán chi li. Vài năm, Dương nhận ra từ từ những yếu điểm của mình trong căn nhà do chính mình đóng góp, bỏ công tu sửa. Đến chừng Dương đề nghị mua nhà khác để cả hai cùng đứng tên và đề nghị ra toà hành chánh quận để làm hôn thú thì chỉ nhận trả bằng nụ cười mỉa mai thách đố của Kiều Lan. Dương cắn răng không than thở được với bạn bè một lời. Cả Dương và gia đình không dám đưa nội vụ ra tòa vì biết chắc phần thắng sẽ nghiêng về phía người đàn bà và đứa con nhỏ. Tốt nhất là giữ hòa khí để còn được Kiều Lan cho phép Dương thỉnh thoảng đưa cháu về thăm nội.

Thật ra, khi mới quen và một năm đầu sống chung, Kiều Lan rất hợp với gia đình chồng, với mẹ chồng và chị em của Dương, hợp cách lối ăn diện sang trọng, ngoại trừ ông thiếu tá hải quân Tôn Thất Hồng. Sau bảy mươi lăm, bà thiếu tá Tôn Thất Hồng đủ sức mang bốn giỏ xách nặng chỉu nuôi chồng ba tháng một lần là nhờ sự đua đòi ăn diện của một số nữ cán bộ cao cấp, phu nhân và tiểu thư cán bộ từ Hà Nội. Hột xoàn! Bàn tay dầu có thô kệch khô cằn vì quen cầm súng đạn, quen bầm rau nuôi lợn, quen kềm cứng cái ghi đong xe đạp lên dốc đổ dốc trong mưa nắng… suốt hai mươi năm hạt gạo cắn làm tư, chỉ cần nét lấp lánh trên chiếc nhẫn, trên đôi bông tai là các bà các cô có thể tự xếp mình vào tầng lớp trưởng giả mới. Buôn bán hột xoàn với các tân mệnh phụ, các tân tiểu thư rất thoải mái. Thứ nhất, khách hàng càng lúc càng giàu. Thứ hai, cứ bảo hột xoàn của chồng tôi ngày xưa là thiếu tá, trung tá, tỉnh trưởng… mua từ HongKong, từ Singapore là có giá ngay. Đã thế, lại được quen các “cựu mệnh phụ”, được truyền dạy cách thức ăn diện, học hỏi lề lối chuyện trò lịch sự của giới phụ nữ miền Nam. Thứ ba, các bà tân mệnh phụ, các cô tân tiểu thư suốt đời chưa bao giờ biết tin người, thế mà bây giờ lại tin từng lời tâng bốc của những “cựu mệnh phụ” vì sa cơ lỡ thế phải cắn lòng bán đi “quà kỷ niệm của chồng”. Buôn hột xoàn, dầu là hột xoàn lắm bụi lắm than từ Tàu, từ Thái Lan đưa vào, các bà “cựu mệnh phụ” vẫn còn giữ được nếp sống khá phong lưu nếu so với đa số ở miền nam. Con cái gia đình thiếu tá Tôn Thất Hồng có mòi ăn diện theo thời hơn trước bảy mươi lăm vì người cha nghiêm khắc đã vào tù. Với quan niệm quần áo, bề ngoài tạo nên con người, bà cựu thiếu tá và con cái ráng tu dưỡng cái gốc trung lưu qua cách chưng diện. Quả thật, đã thuộc lớp trung lưu trước bảy mươi lăm, biết dùng hàng La Coste, Channel… thì làm sao mất được nguồn gốc Tôn Thất.

Cái thế gia trưởng của ông cựu thiếu tá hải quân Tôn Thất Hồng không còn hiệu nghiệm từ khi phải sống nhờ lợi tức buôn bán của vợ, trong thời gian ở tù cũng như mãn tù. Nhất là khi sống đời tị nạn ở Na Uy. Thất chí, ông chỉ muốn an phận, thu nhỏ nên để mặc vợ con bương chãi với đời sống mới. Ông chỉ biết thở dài khi càng ngày càng nhận ra sự ăn diện đua đòi vượt khỏi địa vị ăn nhờ ở đậu của thân phận tị nạn. Và bây giờ thêm cô con dâu, như thêm một vũ công trong ban vũ có cả nam lẫn nữ đang diễn qua diễn lại trước mắt. Ông chán nản đến độ không muốn tham gia một hoạt động nào của cộng đồng người Việt, ngay cả hội đoàn cựu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà ông là một trong những người có chức vị cao nhất.

Tiếng chim ríu ra ríu rít tranh nhau những trái cherry tròn đỏ xậm bóng mượt còn sót lại trên cành cây ngay phía ngoài cửa sổ đánh thức Kiều Lan sau giấc ngủ no đầy. Ngắm nhìn toàn phòng ngủ, cảnh rừng sau chiếc cầu cong trên bức tranh Water Lily Pond của Claude Monet treo giữa bức tường sâu hun hút. Trên bức tường kế bên giường bức tranh Monet’s Water Garden và Water Lilles cũng của Chaude Monet càng thu hút trí tò mò của Kiều Lan. Mặt nước long lanh ẩn hiện cảnh vật trên cao, lá sen xanh mượt bên những đóa hoa sen trắng ngà ngà, Kiều Lan cố nhìn sâu, sâu, theo giòng nước, muốn được đi xa hơn nữa, phía sau bức tranh, muốn khám phá. Màu vàng nhạt hòa lẫn màu xanh tươi mát của những bức tranh trong căn phòng cũng mang toàn màu xanh rêu nhạt thật nhạt, tạo một cảm giác thật dịu dàng cho người vừa thức dậy. Xoa xoa cánh tay có lớp lông nâu xậm đang gát trên bụng, Kiều Lan nhấc nhè nhẹ… Cánh tay ghì chặt, giữ lại, giọng Magnus thì thào tinh nghịch: “Bạn không thoát được đâu.” Nương theo xiết tay, Magnus choàng lên nằm hẳn trên người Kiều, hai tay giăng hai cánh tay Kiều Lan thẳng ra, mặt áp vào mặt Kiều Lan. Nếu nhìn từ trần nhà, trông như hình thánh giá.

Cố đẩy thân hình khá nặng qua một bên, tay rời tay, người nghiêng người, Kiều Lan chu đôi môi hồng tươi không còn chút son, đòi hôn. Nụ hôn mềm ướt xoay trở nhiều chiều như ngọn lửa khơi nóng cả hai thân hình không có chút vải. Không một chỗ hở cho hình ảnh đứa con trai bảy tuổi đang ở nhà ông bà nội, Kiều Lan cong chân, dùng hai gót chân, ấn mạnh sống lưng, xiết người Magnus sát chặt vào. Mắt nhắm hờ, mặt ngửa cao khi đôi môi mềm nóng trườn xuống phần ngực trắng hồng căng cứng như con gái. Bàn tay mềm ấm vuốt ve làm da thịt Kiều Lan mịn màng hơn, làm vòng eo Kiều Lan thâu nhỏ lại, làm đùi Kiều Lan thon dài căng cứng hơn… Magnus đã biết khơi nơi Kiều Lan niềm hãnh diện của người nữ.

Nhìn mặt đồng hồ tròn nhỏ trên bàn, ánh nắng ban mai đã đi qua khỏi cửa sổ phòng ngủ, mười một giờ trưa, Kiều Lan mỉm cười vuốt mái tóc hơi quăn dài phủ gáy của Magnus khi nghĩ đến đôi mắt giương to trên gương mặt nhiều son phấn của bà Thiếu Tá Hồng. Đã gọi điện thoại báo trước là sẽ đưa Nhân về chơi với ông bà nội cuối tuần này, nhưng bà Thiếu Tá không lường trước là Kiều Lan có thể ngang nhiên đi với Magnus đến gia đình bà trên chiếc xe Mecerdes thể thao hai cửa màu xám đậm, chỉ sau nửa năm li dị với Dương. Bà càng khó chịu, nhíu mày khi Nhân ôm Magnus hun và chào tạm biệt, cử chỉ thân mật như Nhân thường làm với Dương khi Kiều Lan đến đón con. Kiều Lan nhủ thầm: “Cho bà thấy, cho bà hiểu rằng con trai bà chỉ đáng xách giỏ theo tôi đi chợ, đừng mơ mộng dựa hơi cái chức thiếu tá, cái tên Tôn Thất từ thời xa xưa mà coi thường gia đình tôi.”

Lần này không bị cánh tay xiết giữ lại, Kiều Lan đi nhè nhẹ vào phòng tắm. Nước ấm phun mạnh từ vòi sen trên đầu, từ hai vách thủy tinh trong suốt, như cơn mưa lớn vuốt ve thân thể no đủ. Ngữa mặt cho những tia nước vuốt mái tóc dài bóng mượt ra phía sau, Kiều Lan lắc đầu trong cái hài lòng kiêu hãnh, miệng lẩm bẩm: “Ông tướng mạnh thật, lần nào ở lại đây, phải ba trận thì ông tướng mới chịu cho mình rời giường. Chả bù… hừm… nhàm chán… cứ bổn cũ soạn lại, thuộc lòng từ đầu đến cuối… một tuần được cao lắm một lần là lăn ra há miệng ngáy mê mệt, không cần biết mình thức hay ngủ, không biết màn hậu… chán!”

Nghe tiếng vòi sen rào rào trong phòng tắm, Kiều Lan đánh ba cái trứng, dùng kéo cắt hành lá thành những khoang tròn li ti, thêm hai muổng sữa tươi, chút muối, chút tiêu, khoáy nhẹ trên bếp lửa yếu. Ba phút sau, hỗn hợp trong xoong hơi đong cứng, Kiều Lan ép nhẹ tất cả trong cái chén. Úp lên dĩa men trắng lớn hơn miệng chén ba centimet bán kính, dỡ chén ra, một khối tròn như trái banh tenis cắt làm hai. Màu trứng chiên vàng tươi điểm lấm tấm những cọng hành lá xanh mướt trên dĩa men trắng bóng, chung quanh là những lát cá hồi hong khói màu hồng cam đã được khéo léo cắt mỏng thật mỏng. Đặt thêm vài lát chanh vàng, nghiêng đầu ngắm nhìn thành quả món điểm tâm Magnus thích nhất vào những ngày cuối tuần, Kiều Lan sung sướng nhận nụ hôn tươi mát nơi gáy, ngã người dựa vào thân thể khỏe mạnh đứng sau lưng.

Căn phòng lộng kính trong ba phía ngăn cái lạnh se sẻ nhưng vẫn thâu nhận được tất cả sức nóng mặt trời đầu tháng chín, kéo dài mùa hè thêm được chừng hai tháng. Dựa trên lưng đệm ghế, tay còn cầm ly nước cam tươi ngọt đậm, Magnus ngữa mặt tận hưởng những tia nắng đầu thu vẫn còn gay gắt đốt cháy từng tế bào trên gương mặt ưng ửng đỏ của tuổi cuối ba mươi. Bữa điểm tâm thật ngon miệng sau một đêm chăn gối nồng thắm, Magnus đắm chìm trong hạnh phúc tưởng chừng khó tìm lại được sau ngày Rita xé tờ hôn thú, đi theo tiếng gọi tình yêu mới. Hai tuần nghỉ ngơi thường năm, về Drammen tham dự kỳ đấu golf vòng bán kết vùng Đông với vài người bạn, tình cờ ghé tiệm bán tặng phẩm Nakiti. Lối nói chuyện với những câu ngăn ngắn mang âm hưởng miền Vestland pha lẫn giọng địa phương, nụ cười có một lún đồng tiền bên má phải, ánh mắt đen ướt của người thiếu phụ đã một con vẫn còn mang nét trẻ thơ đã khiêu dậy những niềm vui nho nhỏ, đã đưa bánh xe lăn về con đường Prins Oscars mỗi ngày. Đùa qua, giỡn lại, thế mà Kiều Lan nhận lời đi ăn tối, và đến hôm nay…

Magnus quay nhìn Kiều Lan cũng đang đắm mình hồi tưởng lại những ngày đầu tiên mới nhận đi ăn tối. Gương mặt không chút son phấn của người thiếu phụ gần ba mươi mà trông như thiếu nữ mười tám, tươi lên khi nhận ra ánh mắt chiêm ngưỡng của người tình. Dơ tay, Magnus nắm chặt bàn tay mềm mại cũng vừa với đến, anh hỏi:
– Em và Nhân về đây ở với anh luôn nhá.
Hơi ngạc nhiên vì lời đề nghị sống chung chỉ sau ba lần về đây chơi cuối tuần, không trả lời trực tiếp, Kiều Lan hỏi:
– Làm sao em giữ cửa tiệm, đường xa quá.
– Tìm người sang. Anh lo cho mẹ con em. Em không phải cực nhọc nuôi con nữa. Em coi, nhà rộng thênh thanh, vườn cây mênh mông mặc sức cho Nhân chạy nhảy.
– Thế còn nhà em, đồ đạc trong nhà em?
– Hoặc em cho mướn, hoặc em bán. Dùng số tiền đó để mua một căn nhà ở Oslo cho thuê thì có lợi hơn vì giá nhà Oslo, nhất là trung tâm đang lên và sẽ lên dài dài. Mọi lợi tức cho thuê tùy em sử dụng cho riêng em. Về đây, anh lo tất cả. Thế nào? Anh yêu em, anh muốn bảo bọc mẹ con em.

Đôi mắt Kiều Lan ươn ướt cảm động, cảm giác được cưng lo bao trùm mọi nghĩ suy, Kiều Lan đứng dậy, đến ngồi vào lòng Magnus, cúi xuống gương mặt si tình, thì thầm:
– Magnus bảo bọc mẹ con em nhá, em yêu Magnus. Mình sẽ sống hạnh phúc bên nhau Magnus nhé.

Magnus được thừa hưởng ngôi biệt thự của ông bà nội hơn ba năm nay, Bygdøy, khu dân cư nổi tiếng giàu có gốc của Oslo. Anh được thừa hưởng luôn chức vị phó giám đốc cơ sở sản xuất vững chãi mấy đời, trong đó cổ phần của ông nội chiếm hơn một phần ba cũng thuộc về tay Magnus, người con trai duy nhất của dòng họ Whillamsen. Việc lời lãi của công ty không ảnh hưởng nhiều đến đời sống kinh tế thật vững chắc của Magnus. Ở tuổi chưa tới bốn mươi mà Magnus không có nợ nhà, làm việc và hưởng lương của một công ty trù trị lâu đời của quận Bærum, Magnus bơi lội trong đời sống quá bình an đến độ nhàm chán cho đến khi gặp Kiều Lan. Ngôi nhà của ba mẹ Magnus, ông Odd Bjørn và bà Borghild cũng nằm trong cuộc đất của biệt thự, được chia hai. Hàng liễu tần nối liền hai biệt thự kết hòa tuổi thơ của Magnus, hai người em gái và ông bà nội. Với lòng yêu thương ông bà nội vô vàn, Magnus không muốn thay đổi nhiều trong ngôi biệt thự, cố giữ lại không khí ngày xưa. Ngay cả người giúp việc và người làm vườn của ông bà nội, đến hai lần một tuần, Magnus cũng muốn giữ lại.

Dọn về đây, Kiều Lan không mang được nhiều vật dụng riêng tư cũng vì lý do những vật dụng đó hoặc không có chỗ đứng hoặc không thích hợp với lối cách trang trí sang trọng trong mức giản dị tối đa làm Kiều Lan đi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Mọi vật dụng trưng bày hay dùng thường ngày đều được lựa chọn thật chu đáo để hòa hợp nhau, thể hiện một nếp sống phong lưu chỉ những người trong giới phong lưu ấy mới nhận ra. Đã quen với nếp sống như đa số đàn bà Việt, tự tay thu xếp mọi sinh hoạt gia đình, tự tay mua sắm chưng bày nhà cửa, nay sống trong ngôi biệt thự to lớn vùng nổi tiếng giàu có, được nuông chiều, được thư thả ngủ lười mỗi sáng, không phải hồi hộp mỗi lần nhận biên lai điện thoại, nhưng Kiều Lan thấy thiếu thiếu, thiếu thiêng chức làm vợ. Lợi tức cho mướn căn nhà chung cư ở Majostua, Kiều Lan chỉ để dành riêng cho mình, ngân khoảng trong nhà băng mỗi năm mỗi dầy. Hàng tháng, Magnus chuyển một số tiền khá dư dã vào ngân hàng của Kiều Lan để Kiều Lan chi tiêu cho con cái nhà cửa. Magnus rộng rãi, nhưng tính toán đâu ra đó. Tiền bạc dư thừa nhưng Kiều Lan nhận ra từ từ là mình không có một chỗ đứng nào trong cái gia tài theo Kiều Lan đoán khá to lớn này.

Magnus hoàn toàn tránh không đụng chạm đến của cải riêng của Kiều Lan nên mỗi lần Kiều Lan tò mò, cự nự chuyện tiền bạc, Kiều Lan chỉ nhận được một phất tay dứt khoát từ Magnus. Ngoài miệng khoe với bạn bè về ngôi biệt thự ở Bygdøy mình đang sống, về gia thế giàu có từ ba đời của gia đình Whillamsen nhưng tự trong thâm tâm, Kiều Lan đã từ từ nhận ra chỗ đứng của mình.

Kiều Lan bực tức khi người hàng xóm phía bên kia đường, tình cờ đi chợ về chung, tò mò hỏi:
– Chị có thường về thăm gia đình ở Thái Lan không?

À há, bà này tưởng Magnus qua Thái, trả tiền cho cha mẹ mình để cưới mình như các cô từ Thái, từ Phi về làm người hầu không lương, sanh con đẻ cái cho dòng họ có cơ nối dõi. Các bà các cô Na Uy dựa vào cái thành kiến này để tự bào chữa nguyên nhân mà nhiều người đàn ông Na Uy muốn cưới vợ Thái hay vợ Phi.
Kiều Lan trả lời:
– Tôi là thuyền nhân tị nạn từ Việt Nam. Tôi ở đây hơn mười năm rồi.
– Xin lỗi, xin lỗi.
– Không có chi, có gì mà chị phải xin lỗi.

Và để đánh tan thành kiến đàn ông Na Uy cưới vợ Thái vợ Phi của người hàng xóm tò mò bất lịch sự cũng như đa số các bà các cô Na Uy, Kiều Lan hỏi lại:
– Chị biết ai giữ trẻ đáng tin cậy không? Tôi muốn tìm một cô trẻ tuổi để đưa đón các cháu, tôi định đi làm lại, ở nhà hoài chán quá.

Miệng thì nói thế, nhưng bụng lại lo lo, sợ cái bà hàng xóm này thóc mách nói chuyện với Magnus. Nhưng rồi Kiều Lan nhún vai: Đời nào Magnus đi chợ.
– Em cho Nhân, không, Lars-Erik học trường Rudolf Steiner chị ạ.
– Trường gần nhà không?
– Không chị, em và Magnus phải thay nhau đưa đón mỗi ngày.
– Sao không ghi tên Nhân học trường gần nhà cho tiện đường?
– Chắc chị không biết trường Rudolf Steiner. Đây là trường tư, cha mẹ phải đóng tiền trường mỗi tháng.
– Trường tư? Ở Na Uy này dại gì cho con học trường tư chi cho tốn kém. Con Na Uy sao thì mình vậy, có thua ai đâu. Hình như chỉ có một vài trường tư vì lý do tôn giáo thôi. Trường Steiner này của đạo nào?
– Không đạo nào cả chị. Trường có chương trình dạy khác hơn trường công.
– Từ con bộ trưởng đến con công nhân, ai cũng học trường công, cùng lớp, cùng hưởng mọi quyền lợi như nhau, không hề có sự phân chia. Con vua còn học trường công như con mình. Học chi cho xa, vừa tốn tiền, vừa mắc công, vừa không có bạn cùng lớp gần nhà cho con chơi… Mà chương trình dạy ở trường… trường Rudolf Steiner khác như thế nào?
– Thày cô được trả lương cao hơn, đa số cha mẹ thuộc giới văn nghệ sĩ…

Kiều Lan cố giấu nỗi bực tức vì chị bạn không chịu nhìn ra cái danh giá khi có con học trường Rudolf Steiner, lòng than với lòng… Hừm… mấy người Việt Nam quê mùa, không biết trường Rudolf Steiner là gì. Ở Anh, ở Pháp… chỉ những gia đình khá giả mới có khả năng cho con học trường tư… Thật ra thì Kiều Lan không cần hiểu sâu chương trình và đường lối giáo dục của trường Rudolf Steiner, chỉ cần nghe vài người bạn của Magnus nhắc tới, chỉ biết đó là trường tư phải đóng tiền, Kiều Lan chọn ngay trường này cho con.

Trong khi người bạn lớn tuổi chưa hiểu được lý do chọn trường Rudolf Steiner của Kiều Lan thì tiếng điện thoại reo to. Thoát khỏi sự tra hỏi của chị bạn, Kiều Lan mừng rỡ vói tay lấy cái điện thoại vô tuyến để trên mặt kiếng bàn salong. Tay xoa xoa lớp vải mịn bọc quanh chiếc gối dựa lưng dầy êm, ngã lưng, đặt đôi chân lên ghế đẩu bọc vải màu vàng kem, tay cầm điện thoại hờ hững cách xa miệng, trong tư thế thật trang nhã, Kiều Lan nói chuyện với Magnus:
– Em đang làm gì đó?
– Em mời chị Thanh đến chơi, tụi em đang tán dóc. Chút anh nhớ đón Lars-Erik dùm em nghen.
– Không được, hôm nay anh về trể, lại phải ghé mua thêm chai rượu vang.
– Em còn phải đi đón bé Kristine. Thôi, cũng được. Em gởi Bjørnar qua ông bà nội. Ừm không biết ông bà có nhà hay không đây. Nhà còn nhiều rượu mà anh mua thêm chi nữa?
– Anh không thích mấy hiệu rượu đó, định mua vài chai Masi Grandarella. Em nhớ làm món gì để chiều nay nướng thịt ăn chung với mấy người bạn.

Thở dài, biết không thể từ chối được, Kiều Lan hỏi:
– Ai tới
– Stephansen, Solheim và Larsplassen, có thể có cả Hagen.
– Sao không nói sớm để em lo liệu. Rồi còn phải đón cả hai đứa. Hôm nay không phải ngày Ranhild đến, ai giúp em đây?
– Thì em chỉ ướp thịt thôi, để anh về anh dọn bàn cho. À, nhớ đừng ướp nước mắm như mấy lần trước nha.
– Sao vậy?
– Nướng lên có mùi hôi lắm, khói bay sang hàng xóm.
– Mấy lần trước có ai than thở gì đâu.
– Người ta không than nhưng mình phải tự hiểu, tự nhận biết. Cũng đừng trộn ngò vô rau sống. Em làm món rau trộn ngon ai cũng thích, nhưng em không để ý là tụi bạn anh, họ lén khưi mấy cọng ngò, bỏ vô thùng rác.
– Có ngò mới thơm ngon chớ.
– Ngon thơm là theo miệng em. Em phải nhớ là khẩu vị người Na Uy khác với người Việt. Khi em làm thức ăn cho người Na Uy, em phải suy nghĩ theo người Na Uy. Họ khen, chưa chắc là họ thích thật tình. Chỉ khi nào họ ăn món đó nhiều thì mới gọi là họ thích. Em ghé chợ mua bánh mì Paris nóng luôn nghen. À, nhớ làm món hành sống cắt lát mỏng trộn với dấm đường, ngon lắm đó.
– Giờ này anh mới gọi điện thoại để báo có bạn đến ăn cơm chiều. Rồi anh không đi đón Lars-Erik dùm được, rồi còn đòi món này món kia.
– Lâu lâu mà em. Tại tụi Solheim mới từ London về, vừa gọi điện thoại cho anh.
– Lâu lâu gì mà lâu lâu. Hầu như tuần nào cũng vậy. Sao không làm ở nhà mấy người kia?
– Thì em ở nhà, em có thì giờ. Ai cũng bận rộn hết. Chịu khó chút đi cưng.

Người bạn gái lại gần khung cửa kính, nhìn ra khu vườn rộng bao quanh biệt thự được chăm sóc thật mỹ thuật, thật kỹ lưỡng. Không cố ý nghe nhưng mẫu đối thoại của Kiều Lan với Magnus vẫn đi vào tai, người bạn hiểu sơ sơ nội dung, định ra về để Kiều Lan có thì giờ vừa đón con ở vườn trẻ, vừa đón con ở trường học, vừa đi chợ, vừa lo chuẩn bị cho bữa cơm chiều.

Đặt điện thoại xuống, gương mặt không được vui, Kiều Lan than với người bạn gái lớn hơn mình năm tuổi, như than với chính mình:
– Ăn uống khó tánh, mệt.
– Bộ chút nữa có khách hả? Sao mời bạn đến nhà ngay giữa tuần?
– Khách gì chị. Mấy người bạn của Magnus, thế nào cũng có thêm vài đứa nhỏ theo, tụi con em có bạn chơi.
– Nhiều người không? Thôi mình về cho Kiều Lan đi chợ nha.
– Ba, bốn cặp vợ chồng, thêm vài đứa con. Tại vườn nhà em rộng nên thưòng kéo về đây. Những ngày nắng hè kéo dài cho đến chín, mười giờ, bạn bè Magnus thường tụ họp khi ở vườn nhà em hay Stephansen để nướng thịt ăn chiều. Mỗi gia đình tự đem theo thức ăn, thức uống. Nếu làm ở nhà người nào thì người đó chỉ nấu cơm hay luộc khoai tây nhưng em thì không quen cái kiểu mạnh của mình, mình ăn. Em thường làm thêm nhiều để mời tất cả. Chắc tại vậy nên hay thích về đây. Những người bạn từ thủa tiểu học, trung học, sau một thời gian bay nhảy ngoài đời, nay không hẹn lại trở về khu phố xưa sinh sống. Toàn là con nhà giàu có gốc không đó chị.

Câu chuyện dòn dã chuyển lưu không dứt. Từ chuyện ông họa sĩ Odd Nerdrum khùng khùng ngược đời, chuyên vẽ tranh khỏa thân cho tới quyển sách mới ra của bà văn sĩ Anne Holt chuyên viết chuyện trinh thám mà lại được mời làm bộ trưởng bộ tư pháp thời đảng Lao Động nắm chính quyền, giữ chức được vài tháng là bứt. Kiều Lan ngóng nghe chuyện này, chưa thấu hết toàn đề tài thì ai đó đã chuyển sang đề tài khác. Thỉnh thoảng có người chợt nhớ đến Kiều Lan ngồi lẻ loi ngóng chuyện, tìm cách gợi chuyện.

Nói chuyện với Kiều Lan, đề tài chỉ quanh quẩn về Việt Nam, về Á Đông. Và nhất là hình thức hỏi đáp, thiếu bàn cãi, thiếu so sánh, thiếu nhận định nên đề tài thường tắt nghẹn sau vài phút. Khả năng tiếng Na Uy của Kiều Lan đủ để mở một cửa tiệm nhỏ, giao tiếp với khách hàng. Kiều Lan không thường xuyên đọc sách báo, đọc những mục xã luận nên những câu chuyện bạn bè Magnus thường đem ra bàn thảo đi xa tầm mức suy nghĩ của Kiều Lan, Kiều Lan không theo kịp. Với Kiều Lan, những tin tức cướp dựt, tung xe, cháy nhà… mới kêu gọi trí tò mò khi lơ đãng lật nhanh tờ báo Dag Blad hay VG. Cho nên những người bạn của Magnus vô tình dáng giá tầm suy tư của Kiều Lan như mặt nước xanh mướt phủ lớp bèo non, quơ cái lưới vớt vài dạo là mặt nước trơ trơ không còn gì để tìm kếm. Chỉ năm ba phút chuyện trò, Kiều Lan trở lại vai trò ngóng chuyện, cười theo và lơ đãng ngắm nhìn cây cảnh xung quanh, mong cho mau tối, mong cho bữa cơm tàn.

Lars-Erik, Kristine và Bjørnar là cứu cánh cho mẹ. Lấy lý do bận rộn với con cái, Kiều Lan vào nhà, ngồi xem chương trình thiếu nhi với với sáu đứa trẻ, vừa con mình vừa con bạn. Không ai để ý đến sự vắng mặt lâu của người chủ nhân món rau trộn vừa miệng, món bánh mì thơm mùi bơ tỏi nóng hổi… Mắt nhìn màn ảnh TV, tay ôm bé Kristine đang say mê theo dõi phim bộ Lille Fot, đầu óc lang bang từ chuyện này sang chuyện khác… Kiều Lan thở dài….

Có với nhau hai đứa con, Magnus vẫn chưa đề cập đến vấn đề cưới hỏi. Lần này thì Kiều Lan muốn có hôn thú, muốn tình trạng vợ chồng đâu ra đó. Khó lắm, ngượng miệng lắm khi nói chuyện với mọi người, nhắc tới Magnus, biết gọi là gì đây, không thể nói “chồng tôi”. Với người Na Uy, Kiều Lan dùng chữ “sambor” để chỉ người sống chung như vợ chồng như không có giá thú và không làm đám cưới. Nhưng với người Việt thì rất khó vì tự điển Việt Nam không có từ ngữ này. Không thể dùng chữ “ông xã”, ngượng quá, chẳng lẻ dùng chữ dài thườn thượt ông-sống-chung, Kiều Lan phải dùng trống không: Magnus. Nhớ lần đầu tiên khi bé Kristine mới được một tuổi, Kiều muốn tình trạng sống chung được chính thức hóa. Gương mặt Magnus không chút thay đổi, trả lời một cách dửng dưng:
– Mình sống như thế này không là vợ chồng sao? Tờ giấy hôn thú chỉ là tờ giấy lộn, muốn xé lúc nào lại chẳng được. Anh không bao giờ muốn dự vào cái màn hứa nhau trước mặt Chúa diễn ra một lần nữa. Em biết anh không bao giờ bỏ mẹ con em, tại sao em còn nghĩ đến tờ giấy giá thú? Bộ em tưởng tờ giấy đó bảo đảm rằng mình sẽ sống đời với nhau sao?

Kiều Lan hiểu tính Magnus, rất dứt khoát, không thể dùng nước mắt để thuyết phục, Kiều Lan câm lặng ngậm nỗi ấm ức không biết kể với ai và cũng không muốn ai nhắc đền chuyện này. Đôi lúc gây nhau tưởng phải bỏ nhau, Kiều Lan lạnh người khi nghĩ đến cảnh có thể Magnus bắt con hoặc chia phần nuôi con và nhất là con trai mình không còn được sống trong nhung lụa. Magnus thương Lars-Erik, đã có lần nói chuyện muốn nhận làm con nuôi. Mặc dù hiểu tình yêu chân thật của Magnus nhưng bản tính “thủ” cố hữu của người đàn bà đã phải dùng mưu lược mới tạo được một gia tài riêng tư như ngày hôm nay, đã làm Kiều Lan nhiều đêm khó ngủ vì tự nhận thấy con đường đi chia phần trưởng giả rất chông gai.

Kiều Lan bực tức ném cái bóp lên bàn phấn, bảo với Magnus:
– Năm tới anh đi dự tiệc tất niên này một mình đi.
– Sao vậy? Toàn là hàng xóm láng giềng không mà. Bộ em không thích ai hả?
– Hàng xóm gì mà hàng xóm, em có quen ai đâu mà anh hỏi là thích người này, ghét người kia.
– Nhà Lindseth, Solheim, Hagen…mà em không quen sao? Ông bà nội cũng đến mà.
– Anh lo nói chuyện với bạn bè từ đời còn nhỏ mũi lòng thòng, có ngó ngàng gì đến em đâu. Mấy người đó quen anh chớ đâu có quen em. Ông bà nội có bạn bè của ông bà.
– Em phải cởi mở thì người ta mới dám chuyện trò với em chớ. Cả khu Bygdøy này, ai cũng biết mình sống chung với nhau, có với nhau hai mặt con, thì quen anh cũng như quen em vậy thôi.
– Anh nói nghe dễ lắm. Nếu không vì mấy đứa nhỏ, em chẳng thèm đi.

Giọng Magnus nửa an ủi, nửa đùa:
– Thôi, lần tới em kèm chặt cánh tay anh nghen, anh đi đâu thì theo đó để anh khỏi ham nói chuyện, bỏ em cưng một mình, em cưng giận lẫy, em cưng không thèm đi theo thì anh buồn lắm.

Như bao lần trước, không biết làm thế nào để giải thích cho Magnus hiểu được mình, Kiều Lan lẳng lặng sửa soạn đi ngủ. Vừa đặt lưng là Magnus ngủ mê ngay vì mấy ly cognac kèm với cà phê. Kiều Lan nằm yên lặng, nước mắt chảy dài… nhớ lại những lần tiệc tùng. Gia đình Magnus đông đảo, chức vị phó giám đốc, tiệc này tiệc kia phải lên sổ. Nhất là cứ mỗi dịp trước Giáng Sinh cả hai tháng là tiệc tùng liên miên, không bỏ sót một cuối tuần nào.

Kiều Lan nhận ra vị thế của mình ngay từ lần đầu dự tiệc chung với Magnus, mừng ba mẹ Magnus sống chung với nhau được bốn mươi năm, cũng là lần đầu Magnus giới thiệu Kiều Lan với đại gia đình. Chiếc áo dạ tiệc màu tím than bó sát thân hình thon đều nét, phủ kín đôi giày cao gần cả tấc, mái tóc bới cao, kẹp tay Magnus đi quanh phòng tiệc rộng chào mọi người. Chưa bao giờ Kiều Lan cảm thấy thiếu tự tin giữa đám đông như đêm nay. Từng nhóm đứng chuyện trò như họ đã quen nhau từ kiếp nào, đa số nói giọng miền Bắc, một số nói tiếng Anh. Thân mật bắt tay, vui vẻ hỏi thăm, được năm ba câu là Kiều Lan trở thành dự thính. Có những câu chuyện được nhắc lại mà Kiều Lan không có một chỗ đứng trong đó. Có những nơi chốn được kể tới mà Kiều Lan không biết ở đâu trên bản đồ thế giới. Có những nhân vật được đem ra làm trò cười mà Kiều Lan không hiểu nguồn gốc… Không dám góp chuyện, không dám hỏi khi không hiểu một câu nói đùa, gật đầu, lắc đầu, nghiêng người dựa vào Magnus nở nụ cười má lún đồng tiền thêm duyên dáng… và mong buổi tiệc tan nhanh.

Kín đáo ngắm nhìn những người đàn bà chung quanh, ngắm nhìn nữ trang, một ngạc nhiên cũng là một bài học trên đường đi vào thế giới trưởng giả Tây phương. Magnus rất ít khi tặng nữ trang, chỉ tặng theo đúng ước muốn của Kiều Lan trong dịp sinh nhật hay Giáng Sinh. Thế mà Kiều Lan nhận ra chỉ mình là có số hột xoàn trên người nhiều nhất, cảm giác ngường ngượng lan dần. Đa số trang điểm rất kín đáo, một dây chuyền bạch kim với viên ngọc safir ẩn sâu, chiếc lắc bạch kim lóng lánh trên cườm tay, chiếc nhẫn bạch kim châm trổ công phu… Bạch kim, Kiều Lan chưa bao giờ nghĩ đến.

Với tiệc tùng trong giới bạn bè Việt Nam, Kiều Lan vẫn thường được những ánh mắt chiêm ngưỡng từ mọi người vì cách lối trang điểm sang trọng, theo thời, vì dáng vẻ cao thon đều nét, vì giọng cười vang xa tự tin, vì lối đùa bỡn duyên dáng. Nơi đây, Kiều Lan thu mình trong vỏ ốc mỹ miều.

Nghĩ đến câu Magnus nói đùa khi nảy: “Thôi, lần tới em kèm chặt cánh tay anh nghen, anh đi đâu thì theo đó để anh khỏi ham nói chuyện, bỏ em cưng một mình, em cưng giận lẫy, em cưng không thèm đi theo thì anh buồn lắm”, Kiều Lan biết, biết rằng mình sẽ là cành lan rừng bám nhờ nhựa cây, sống nhờ bóng mát của tàn cây, suốt đời.

Tết Phan Thiết

Quê hương tôi là Phan Thiết. Cả nội và ngoại đều là gốc Đại Nẫm, không biết bao nhiêu đời. Đại Nẫm, một làng quê cách thành phố Phan Thiết mười lăm phút đi bộ cho đôi chân trẻ con vừa đi vừa chạy trong nỗi lòng náo nức về nhà nội để coi chừng trái ổi mình nhìn thấy hồi ba ngày trước đã ửng chua chưa, có bị thằng Ba Tèo con Hai Ròm hái chưa. Một làng quê không lắm người khoa bảng, không biết đói kém, hiền hòa ẩn mình dưới vườn cây trái xanh mướt quanh năm. Một làng quê sanh dưỡng những thiếu nữ đẹp nổi tiếng của Phan Thiết. Gái Đại Nẫm! Tôi hãnh diện về cái cội nguồn này của tôi, cội nguồn chín mươi chín phảy chín mươi chín phần trăm Phan Thiết. Suy đi nghĩ lại về đường ăn Tết của gia đình tôi, một cảnh Tết mang sắc thái chung chung của Tết Phan Thiết mặc dù mỗi gia đình có một cách chuẩn bị Tết riêng và cách hưởng Tết cũng khác nhau. Nhưng đó là những dị biệt rất nhỏ, rất tỉ mỉ, không thể làm mất đi cái Tết đặc biệt chung của người Phan Thiết chúng tôi. Cho nên tôi mạnh dạn chọn cái tựa: Tết Phan Thiết.

Gia đình tôi nửa quê nửa thành. Nhà ở phố Ba Mươi Căn, đường Hải Thượng Lãn Ông, đường nối từ Đại Nẫm, Phú Hội để xuống chợ Lớn, trên đường nối từ làng quê đến thị thành. Nội gốc Đại Nẫm trên, ngoại gốc Đại Nẫm dưới, ba tôi làm việc ở bên phố, cho nên cách ăn Tết của gia đình tôi cũng mang cái chất nửa quê nửa thành đó, không giống như những nhà ở Đại Nẫm mà cũng không giống như nhà mấy đứa bạn cùng lớp ở bên chợ. Thêm vào đó công việc làm ăn của má tôi đã tạo cho bà cơ hội để chuẩn bị những cái Tết cho gia đình thật chu đáo, đã cho chúng tôi những cái Tết nhớ đời. Cho đến khi gia đình vào Sài Gòn lập nghiệp, chúng tôi mới biết tiếc những cái Tết khi còn ở Phan Thiết. Mặc dù trong thời gian ở Sài Gòn, má tôi cũng kho măng khô, cũng gói bánh tét, cũng được bà ngoại đem cốm vô cho và gia đình đầy đủ nhưng những cái Tết ở Sài Gòn mang không khí chắp nối nửa nạc nửa mỡ, không thể nào so sánh được với những ngày Tết ở Phan Thiết. Các em trưởng thành ở Sài Gòn thường phân bì với anh chị lớn khi chúng tôi nhắc đi nhắc lại ngày những ngày Tết xa xưa nơi quê nhà Phan Thiết với tất cả nuối tiếc tìm kiếm. Và bây giờ, mỗi năm tôi cố gắng chuẩn bị cho các con tôi vài ngày vui xuân nơi xứ người càng làm lòng tôi quay quắc, nước mắt cứ chực rơi vì cái gượng gạo giả tạo lẩn quẩn chân tôi, vì bước chân lang thang tìm về những ngày ngập nắng xuân xưa lảo đảo chơ vơ.
*****
Bắt đầu tháng chạp, má mua chừng chục con vừa vịt vừa gà để nuôi cho mập ở sau nhà. Má tôi bắt đầu đặt bánh tráng, loại bánh tráng mè đen không dầy không mỏng để nhúng ướt ăn với măng khô kho. Sau đó là má đặt mấy mối hàng lúa của bà ở Ngã Hai hay Phú Hội rang lúa nếp thành cốm trắng, gọi là nổ. Thường khoảng hai mươi tháng chạp, người ta đã chở hai bao bố nổ trắng nhẹ tênh đến nhà. Và dĩ nhiên là chúng tôi lén lén ăn vụng, vốc từng nắm nổ trắng thơm thơm beo béo bỏ trọn vô miệng, ngốn ngáo nhai mau. Lần xay lúa cuối cùng trước khi nghỉ Tết để giao gạo cho bạn hàng, má tôi cũng cho xay chừng một xe nếp để bán và để dành gói bánh tét, làm cơm rượu.

Bắt đầu từ hai mươi tháng chạp, đường Hải Thượng Lãn Ông nhộn nhịp hẳn lên vì những nhà vườn ở Phú Hội, Đại Tài và Đại Nẫm gánh những gánh chuối sứ mập tròn, những gánh bưởi to xanh còn đủ lá cành, những gánh cam xanh hấp dẫn, những gánh rau xanh tươi xếp chất thật đẹp, những gánh rau cải nặng trĩu về chợ Lớn để họp chợ đêm. Chúng tôi ngoài giờ học là la cà ngoài đường cả ngày để như hòa nhập vào cái nhộn nhịp tưng bừng của mấy ngày trước Tết. Không làm gì hết. Ngồi đong đưa hai chân trên bậc thềm trước nhà để chiêm ngưỡng những gánh trái cây, rau cải tươi mát sặc sỡ đó, để ngắm những gánh hoa cúc trắng vàng, hoa thược dược đủ màu sắc, hoa vạn thọ vàng tươi, hoa mồng gà đỏ thắm của các chị từ quê gánh xuống. Các chị mà chúng tôi tự cho mình là dân thành phố văn minh và đặt cho các chị cái tên ”Le Nhaque”, cái từ ”Le Nhaque” chúng tôi học từ truyện ”Tuấn Chàng Trai Nước Việt” của Nguyễn Vỹ. Sở dĩ chúng tôi gọi các chị ”Le Nhaque” là vì mấy chị này chỉ mặc toàn áo bà ba màu hồng nhaque chói chang, màu xanh lá cây nhaque tươi rực rỡ, màu vàng nhaque gay gắt… Các anh, các chú đèo những cành mai nụ còn xanh non trên chiếc xe đạp cọc cạch xuống chợ bán. Nhiều người từ bên phố lên tận đường Hải Thượng Lãn Ông để chận mua những chậu bông tươi đẹp, những cành mai uốn cong cầu kỳ và trái cây xanh tươi.

Cũng trên con đường Hải Thượng Lãn Ông này là nơi cung cấp mứt me cho các hàng bánh mứt toàn Phan Thiết. Đầu tháng chạp, đi ngang mấy căn nhà gần chợ Gò, dấu hiệu mùa Tết được nhắc nhở bằng quang cảnh các dì ngồi trên ghế đẩu thấp trước nhà, tỉ mỉ dùng con dao nhỏ, nhọn, khéo léo gỡ từng mảng vỏ me xanh. Bên cạnh các dì là mấy cái thau nhôm lớn có những trái me dài, dẹp, trần trục ngà ngà nằm xếp lớp dưới nước trong vắt ngập đầy. Mứt me là loại mứt mắc tiền nhất vì đòi hỏi nhiều công phu, lắm tiểu xảo.

Thứ nhất: Phải là loại me ván chua, lớn dài, dẹp, vừa già, nghĩa là hàng hột me vừa cứng nhưng thịt me vẫn còn dòn non và lớp vỏ xanh còn dai nên phải ngâm qua đêm mới lột được.

Thứ nhì: Khi lột vỏ me, phải dùng con dao nhỏ bén nhọn, tỉ mỉ gỡ từng mảng vỏ, gỡ thật cẩn thận để có được trái me trần láng mướt và những đường dây chạy dài theo trái me cũng như cuống me vẫn nằm nguyên vị trí của nó.

Thứ ba: Cũng dùng con dao nhỏ bén nhọn đó, đôi tay khéo léo xẻ dọc phía trái me cong vào, lấy từng hột me, lấy cả lớp cưng cứng bao quanh hột me.

Thứ tư: Khi xăm me, phải xăm nhè nhẹ, đều tay để chắt bớt chất chua ra mà trái me vẫn còn nguyên vẹn.

Thứ năm: Để chất đường thấm từ từ mà trái me không bị chín nhừ, khi rim me phải trở nhè nhẹ, dùng muỗng múc nước đường rải lên từng trái và nhất là lửa riu riu, phải tính từ hai đến ba tiếng đồng hồ cho một chảo me rim.

Thứ sáu: Chất đường ngọt hòa với chất me chua nên khi chảo đường đã cạn mà trái me vẫn mềm dẻo nên phải phơi vài nắng.

Thứ bảy: Dùng giấy kiếng trắng rộng độ ba centimet, quấn quanh trái me, quấn dần từ đầu xuống tới cuống.

Năm nào hên lắm, dư dả, má tôi đặt vài ký mứt me để dành đãi khách. Nhưng chắc chắn là khách chẳng được hưởng nhiều vì khi kể thành tích thì chúng tôi, bốn đứa lớn, đứa nào cũng lén cuỗm được ít nhất vài trái, nhai ngấu nhai nghiến, mút sạch mấy cọng dây mỏng và cái cuống ngắn. Ôi… vừa chua, vừa ngọt, vừa dẻo, vừa sừn sựt.

Nhất là sau khi thi xong cái kỳ thi đệ nhất lục cá nguyệt, thường khoảng ngày rước ông Táo, sau tiệc tất niên là chúng tôi được tự do la cà cả ngày ngoài đường, ba chẳng hề la, má chẳng thèm cấm. Thỉnh thoảng ông ngoại hay bà nội gởi những người gánh hàng xuống chợ, mang cho chúng tôi rổ trái cây vụn vặt, là cả một hạnh phúc cho mấy đứa trẻ thèm ăn. Và không cần ba má cho phép, trái cây của ông ngoại, bà nội cho là đương nhiên của đám con, được chị Hai Cao chia đều, ngấu nghiến, chớp nhoáng!

Chúng tôi thường hay chấm điểm và cho giá những cành mai tươi, uốn cong thật mỹ thuật, thán phục những ông đón mua mai biết lựa mai, biết chi tiền. Chúng tôi cũng để ý là mấy ông là thường đến khu phố Ba Mươi Căn để đón mua mai, mua bông chứ không mua trái cây rau cải. Tết là cảnh hưởng thụ cho mấy ông, còn chuyện lo ăn lo uống là chuyện của mấy bà. Đương nhiên! Không ai cằn nhằn phân bì. Không! Không đúng lắm, mấy ông phải lau cặp chân chân đèn, cái lư nhang cho bóng loáng, lựa mua phong pháo cho nổ thật to và dòn vì nếu năm đó pháo nổ lẹt đẹt là bị bà vợ cằn nhằn: ”Ông mua toàn pháo lép, không biết năm nay nhà mình làm ăn có nên nổi không đây”, và canh nồi bánh tét ngày ba mươi.
*****
Nhà tôi có tục lệ là được tiền lì xì hai lần. Lần thứ nhất vào khoảng hai mươi bảy, lúc mà chợ đêm tấp nập nhất, má đã xay xong phiên lúa cuối cùng trong năm. Má lì xì cho tất cả sáu đứa con để đi chợ đêm, tự do ăn hàng, tự do mua sắm. Không nhiều lắm, tôi nhớ là chỉ đủ ăn chén chè, tô bánh canh chả cá thu, mấy bịch kẹo bòn bon chua chua ngọt ngọt, mua cái khăn thêu, mua cái bóp có hình cô đầm, mua mấy cuộn pháo tép để lấy cục đá đập nổ chét chét… Chỉ vậy đó mà làm chúng tôi chờ đợi ngày này cả tuần, chờ từ khi chợ bắt đầu nhóm ban đêm.

Mấy ngày nay đi rảo chợ đêm quanh vườn bông dưới dốc cầu gỗ lớn mà không có một đồng dính túi, thấy cái gì cũng thèm, thấy cái gì cũng ước. Cái sung sướng khi được tiền trong những ngày trước Tết này tôi không thể nào tả được, chỉ biết là má tôi rất sành tâm lý con nít, tiền trong mấy ngày Tết không có giá trị bằng tiền trong những ngày chợ đêm. Còn quần áo mới thì má tôi đã đặt may từ tháng mười một, cho rẻ! Năm nào cũng vậy, mỗi đứa một bộ để đi học, một bộ đồ bộ mặc ở nhà, một đôi dép Nhật, hai người chị lớn thì được đôi guốc trắng quai trong.

Từ khoảng ngày hai mươi tháng chạp, tối nào nhà tôi cũng rộn ràng. Cắt rễ củ kiệu, lột lớp vỏ ngoài, ngâm nước tro, để đó qua đêm. Kiệu cay, mấy chị em đứa nào cũng tránh né, chị Hai Cao lãnh đủ. Đúng là thân phận người làm! Sau đó củ kiệu được phơi một nắng rồi xếp thật đẹp trong mấy cái hủ sành đã rửa sạch, đã phơi khô, ép chặt, chế nước pha với đường, dấm, chút muối, chút hàng the. Để đó, không được dở nấp trước ngày mồng một. Cà rốt và củ cải trắng trông thêm ngon mắt nhờ bàn tay khéo léo của chị Hai chị Ba cắt tỉa hình hoa, hình thú vật. Má chờ đến khoảng hai mươi sáu làm một hủ và hai mươi tám làm thêm một hủ nữa để có ăn suốt bảy ngày Tết mà củ cải không bị chua quá.

Mứt dừa, mứt gừng, mứt gừng dẻo, mứt khế, bánh đậu xanh, bánh bột năng là phần của chị Hai, bà chị khéo léo nhất nhà và cũng kỹ nhất nhà. Đứa nào bị chị Hai sai là thường bị luôn máy cái cú đầu vì vụng về, làm không vừa ý. Trong gia đình tôi, không ai biết làm mứt me, một loại mứt rất cầu kỳ và công phu, mặc dù nhà nội tôi có cây me trái to dẹp rất thích hợp để làm mứt me. Hôm thì nhà thơm phứt mùi vani trộn trong mứt dừa. Hôm thì nhà thơm phức mùi gừng. Hôm thì nhà thơm phức mùi đậu xanh rang… Chị Hai làm mứt gừng dẻo cho ông ngoại và bà nội rất nổi tiếng. Chị không dùng chanh mà chị dùng khế chua cắt nhỏ nên mứt mềm dẻo, cay, ngọt, là món tủ cho ông ngoại uống trà. Nhưng cái sung sướng nhất của lủ em là được vét chảo đường mà trong đó còn vài miếng mứt vụn bà chị gắp không hết. Mứt phải phơi một vài nắng cho ráo rồi mới bỏ vô hũ. Mấy ngày phơi mứt là chị Hai phải canh chừng mấy đứa em thèm đường, nhưng làm gì chị canh được đám em! Má tôi có cách dạy con thật là sư phạm. Bà không khéo chuyện bánh mứt, không dạy con được, bà cho con tự do làm, muốn làm món gì thì xin tiền, tự đi mua sắm, tự bày ra mà làm lấy và bao giờ cũng được cả nhà khen thưởng không lời bằng cách ăn ngon lành, ăn sạch. Cho nên đứa nào muốn giỏi là tự nó học hỏi hàng xóm, trên trường, dì Chín… và má sẵn sàng chi tiền.

Măng khô má đã dự trữ từ mấy tháng trước, cho rẻ! Hai đêm đầu, ngâm nguyên miếng măng lớn bằng bàn tay trong nước lạnh, hai cái thau giặt đồ được trưng dụng ngâm măng. Mỗi tối phải xả nước, thay nước. Qua ngày thứ ba, xé măng ra từng miếng nhỏ, dài, cắt bỏ phần măng già, rồi ngâm một đêm nữa. Sau đó là nấu, phải nấu hai lần, xả nước, nấu lại bằng nước sạch để măng không còn mùi hăng và cái màu nâu khô trở thành màu vàng tươi hấp dẫn.

Đến cái màn làm vịt để kho măng là tôi sợ nhất, không bao giờ tôi làm quen được cảnh cắt cổ vịt, tôi nhát, không bao giờ dám theo dõi nên không biết tả như thế nào. Chỉ biết là sau khi trụn vịt bằng nước sôi là đến phiên tôi và thằng em kế lãnh phận sự nhổ lông vịt. Gọi là tôi với nó, nhưng sau khi nhổ phần bụng và lưng, vì phần đó dễ nhổ, ít lông măng, là nó chạy trốn mất tiêu. Một mình tôi ngồi loay quoay với mấy con vịt, dùng cái nhíp nhổ từng sợi lông măng, vừa réo thằng-em-trời-đánh, vừa năn nỉ chị Hai Cao phụ nhổ. Tới màn mổ bụng là hấp dẫn nhất. Chị Hai Cao lôi từng trái tim, bao tử, ruột già, ruột non, rữa sạch, mổ cái bao tử ra cho tôi coi hồi nãy còn sống nó ăn gì, thường là bắp và lúa. Con nào có một chùm trứng non là hạnh phúc ngàn đời cho tụi tôi, lủ con háo ăn. Bộ lòng thì xào với hành, cà, ngò tây cho bữa cơm ngày đó. Còn bộ trứng non, chị luộc, để chờ má về chia cho chúng tôi. Má tôi kho măng với thịt vịt, hành ta và bao giờ bà cũng để dành một thau măng đã xé nhỏ, ngâm nước lạnh chờ đó. Vì kinh nghiệm mỗi năm, cứ đến khoảng mùng hai là xoong măng hết sạch, nhưng nước lèo còn, thế là bà bỏ măng vô kho tiếp. Xoong măng đến chiều ba mươi bốc khói thơm phức, nhưng chưa đứa nào được động đũa vô, phải chờ cúng trước.

Má nấu một nồi cơm nếp để làm cơm rượu. Nếp để nguội, trải ra cái sàng, má rải một lớp men đã được giả nhuyễn. Má nhúng tay vô nước, bắt vò từng viên, viên nào viên nấy to bằng cái trứng gà. Sắp xếp từng viên vô cái thố lớn, đậy nấp lại, để chừng ba ngày là cơm lên men. Má thắng đường cát trắng đổ vô thố cơm nếp, đổ cho ngập, cho mấy viên cơm nếp nổi trôi lềnh bềnh, đậy nấp lại, chừng hai ngày là ăn được. Mỗi lần ăn hay mời khách, má dùng loại chén men nhỏ, múc một chén một viên, nước rượu đường ngập chén, dùng muỗng nhỏ, xắn từng miếng, kèm theo nước rượu đường ngọt, đưa vô miệng. Ăn xong viên cơm rượu, lúc nào cũng còn chút nước đường trong chén, bưng lên miệng húp, liếm sạch, ngon không thể nào tả nổi.

Còn rượu nếp than, màu tím đậm thật đẹp mắt thì má không tự làm. Má đặt mỗi năm chừng vài lít cho ba đãi các bác các chú. Nhưng chúng tôi nào có bỏ qua, len lén làm một ly đá cục, đổ rượu nếp than vô, làm như nước sirô, uống mát rượi, rồi mặt mày nóng bừng bừng, đỏ ngầu. Nhưng chưa lần nào đi liễng xiễng cả!
*****
Khoảng hai mươi lăm, chú Bảy Ngọng được bà nội cử xuống nhà tôi để đóng cốm. Trước ngày đó, chị em tôi phải đổ nổ trắng ra cái sàng lớn để lượm lúa nếp chưa nở, rang đậu phọng, gọt gừng, cắt gừng từng sợi nhỏ. Má thắng hai xoong đường. Một xoong lớn đường táng, trộn gừng, đậu phọng. Đây là phần cốm dành cho lủ con bảy đứa và lủ cháu từ quê cứ Tết là tập trung về nhà tôi để đánh bài, ăn uống, đi phố, đi xinê vì lúc đó tụi tôi được nghỉ học. Một xoong nhỏ là đường cát trắng, gừng, nhiều đậu phọng. Đây là phần cốm để cúng và mời khách.

Má đổ nổ trắng vô một cái thúng, trộn đường đã thắng lại cho vừa keo, dùng tay trộn đều. Đây là lúc cốm được thưởng thức với tất cả lòng thán phục và biết ơn của lủ con luôn luôn thèm ngọt. Khi bắt cốm từng nắm tay, má cho chúng tôi tham dự và làm lơ cho lủ con ăn vụng. Trên nền xi măng bóng, trước mặt má ngồi là thúng cớm đã trộn đường, lủ con ngồi quay quanh, tay áo xắn cao.

Bắt cốm từng nắm, kích thước không cần giống nhau. Bóc một nắm cốm đã trộn đường lên tay, những ngón tay mảnh dẻ nhỏ bé đầy nhiệt tình cố ép chặt, ráng ép thêm chút nữa cho nắm cốm của mình không nhỏ hơn nắm của các chị, ép chặt, xoay tròn thành như một trái banh tennis, xếp đều vô cái thúng kế bên, sung sướng nhìn ngắm thành quả mình đã đóng góp với má. Và khi hai bao nổ trắng đã được hóa phép thành những trái banh to lớn khác nhau, chất trong những cái thúng to thì bụng tôi cũng căng đầy cốm ngọt. Bộ ván gõ nâu bóng ở nhà trong đã được lau chùi sạch sẽ, mấy khung cốm, một cái đòn dài, một thau nước lạnh và một cái khăn lau tay, tất cả chờ bàn tay khéo léo của chú Bảy Ngọng.

Cái khung cốm gồm hai phần: Phần ngoài là khuôn gỗ, dài gang tay, cao cũng độ gang tay, rộng độ mười centimet. Một khối gỗ cũng có kích thước giống như khuôn gỗ nhưng nhỏ hơn chút xíu để có thể nằm lọt gọn gàng vô khuôn gỗ khi ép cốm. Cả cái khuôn và cái khối gỗ phải được nhúng vô thau nước để khi ép, cốm không dính vô khuôn, dễ lấy ra.

Chú Bảy Ngọng bỏ từng banh cốm vô khuôn, dùng tay ép đều cốm trong khuôn rồi chú đặt cái khối gỗ lên khuôn đã ép đầy cốm. Chú một đầu đòn, chị Hai Cao ở một đầu đòn, bắt đầu ép cái khối gỗ xuống. Chú xoay đều cái cái khuôn, ép ngang rồi ép dọc, ép dọc rồi ép ngang… Cho đến khi nào chú thấy cái khối gỗ đã đi sâu xuống khuôn độ năm-sáu centimet và nằm thẳng thớm đều đặn trong khuôn là chú dùng cái chày gõ nhẹ, đều lên khối gỗ và chị Hai Cao rút cái khuôn từ từ lên, nương theo nhịp gõ của chú. Một khối cớm hình chữ nhật thẳng thớp nằm trên bộ ván. Chú âu yếm nâng nhẹ hộc cốm còn ươn ướt đặt cẩn thận lên cái sàng lớn đã để sẵn trên bàn ăn.

Một bộ khuôn thứ hai đã sẵn sàng. Chú tiếp tục đóng hộc cốm thứ hai và chúng tôi mê mẩn theo dõi trong khi cái khuôn cốm thứ nhất được má nhúng vào thau nước rửa, lau bỏ những vụn cốm còn dính trong khung và chuẩn bị cho hộc cốm thứ ba. Cứ thế cho đến tối khuya, chúng tôi mê man ngắm nhìn từng cử động của chú Bảy Ngọng, mê man trong thán phục, mê man thiếp đi, ai ẵm vô giường cũng không hề biết gì cả. Ngày hôm sau, thức dậy, chú Bảy Ngọng về từ lúc nào. Trên bàn, trên ván, mấy sàng cốm nằm ngay ngắn, để chút nữa được đem lên sân thượng phơi, phải phơi một ngày cho cốm ráo khô trước khi gói.

Và từ đây là chúng tôi phải chờ đến sau khi cúng rước ông bà chiều ba mươi mới được ăn cốm. Cái phần gói cốm là tôi thích nhất. Cốm cho con nít ăn, tức cốm trộn với đường táng thì bao bằng giấy báo. Còn cốm để cúng và mời khách thì được bao bằng giấy trắng. Tôi làm hồ bằng cách trộn bột vô nước rồi bắt lên lò, quậy cho đặt lại. Sau khi cốm đã được bao bọc sạch sẽ thì lại phải phơi thêm vài ngày nữa để cốm khô ráo, giữ được lâu ngày, có khi đến tháng hai mà cốm không bị mốc. Má cho tiền mua giấy mỏng nhiều màu để tôi và chị Ba tha hồ cắt làm bông. Bông cúc, bông thược dược, bông hippie. Chúng tôi xếp, cắt, dùng kéo vuốt từng cánh bông, lúc vuốt cong lên, lúc vuốt cong xuống, dán lên hai đầu hộc cốm. Có bông được nhiều lớp, có bông chỉ được hai lớp. Tùy hứng!

Đếm đi đếm lại công trình đóng cốm năm nay của nhà mình để chị em tự hãnh diện. Thường thì khoảng bảy, tám chục hộc cốm. Đóng cốm là một công trình đòi hỏi sự sắp xếp tính toán, mà má tôi năm nào cũng tận tâm thực hiện trong sự thán phục của chồng con và hàng xóm. Chừng đến mùng ba, mùng tư là tụi tôi ngán cốm tận cổ. Má cất vô tủ, chờ ra giêng. Ra giêng, cứ mỗi tối, má mang vài hộc ra bẻ chia cho lủ con. Phải bẻ cốm chứ không ai lấy dao cắt cốm! Lúc đó cốm ngon lạ lùng. Có khi tôi xin má hộc cốm đem lên lớp chia cho tụi bạn, mấy đứa bạn cùng lớp tôi cũng mê món cốm ra giêng của má tôi. Nhất là con nhỏ Thanh Bình, Được, Thu và Mỹ Lệ, nhóm bạn ăn hàng của tôi.
***
Nếp đã được ngâm hai ngày và trộn chút muối. Ông ngoại đem xuống một bó dây sóng lá đã được chặt từng đoạn dài, đoạn ngắn, ngâm nước, tướt mỏng. Lá chuối thì ông ngoại cũng đã tướt, gom trong vườn nhà mình. Đậu xanh đãi vỏ cũng đã ngâm qua đêm, trộn thêm chút muối, nấu khô như nấu cơm. Đậu đen cũng đã được hầm chín. Mỡ được cắt thành từng miếng dài cỡ gang tay, to bằng ngón tay má.

Má dùng đậu xanh bọc, ép miếng mỡ ở giữa, thành một đòn dài cỡ gang tay, tròn to bằng cườm tay tôi. Má sắp những đòn đậu xanh nhưn mỡ đó trên một cái sàng có lót lớp lá chuối. Tôi là phụ tá đắc lực cho má trong công việc gói bánh tét này. Năm nào cũng vậy, chắc tại tôi dễ sai hay là tại tôi thích nên cứ la cà theo má trên bộ ván ở nhà trong. Không cần má sai biểu, tôi dùng một cái khăn ướt lau lá, sắp xếp ngay ngắn, lớn theo lớn, nhỏ theo nhỏ.

Má để một sợi hai sợi dây ngắn nằm thẳng thớm trước mặt, sắp lên đó một lớp lá lớn, rồi một lớp lá nhỏ hơn. Má lấy cái chén múc một chén nếp, trải đều nếp lên lá, lấy một đòn đậu xanh nhưn mỡ để nhẹ nhàng, ngay ngắn lên lớp nếp, rồi một chén nếp nữa, đổ phủ lên đòn đậu xanh. Dùng những ngón tay khéo léo, xếp lớp lá chuối nằm dưới, bao quanh nếp, rồi nhanh nhẹn nắm hai đầu dây nằm sẳn ở dưới, bắt chéo nhau, xoáy nhanh, rồi hai đầu dây thứ hai. Sau đó má dựng đứng dòn bánh tét, thổ thổ cho chắc nếp, xếp lá qua, xếp lá lại, xếp chồng lên, xong một đầu. Má nhanh tay xoay ngược đòn bánh, thổ thổ, xếp như đầu kia. Má dùng hai sợi dây dài cột dọc đòn bánh, rồi dùng hai sợi dây ngắn cột ngang đòn bánh, ở đầu đòn. Má còn làm một cái vòng để treo bánh và để làm dấu phân biệt với bánh đậu đen chay với bánh đậu xanh nhưn thịt. Đó là bánh tét nhưn đậu xanh. Còn bánh tét đậu đen thì đơn giản hơn, chỉ cần trộn đậu đen đã nấu chín với nếp đã ngâm, chút muối là gói.

Không bao giờ má quên làm cho chúng mỗi đứa một đòn bánh tét nhỏ bằng cườm tay, dài độ gang tay, chất lên lớp cao nhất trong thùng bánh, cho chúng tôi hưởng trước vào khoảng trưa ngày ba mươi trong khi nồi bánh tiếp tục nấu cho tới chiều vì bánh tét phải chín để kịp cúng rước Ông Bà cuối năm. Như vậy coi ra là nhà tôi không có cảnh ngồi quanh bếp lửa canh nồi bánh tét đêm ba mươi như sách truyện thường kể.
*****
Ngày ba mươi, ngày trọng đại đang gần kề. Một xoong lớn thịt heo kho nước dừa tươi và trứng vịt luộc được hầm nhỏ lửa từ trưa ba mươi. Thịt bò ướp sả ớt được gói thành từng đòn nhỏ trên lủng lẳng trên bếp. Hai thúng bánh tráng cao cả thước treo lên nóc nhà. Vài chục đòn bánh tét treo cho ráo nước, khiêu gợi tuyến nước miếng mỗi lần xuống bếp. Trái cây chưng bàn thờ thường là do bạn hàng lúa từ Phú Hội, Đại Nẫm, Ngã Hai cho, đã được chưng trong nhiều dĩa lớn nhỏ khác nhau, số còn lại thì để vô mấy cái rổ cho chúng tôi ăn lai rai, ăn tự do. Mấy chậu bông cúc, bông vạn thọ đã chưng bày trong phòng khách. Tôi thích bông đại cúc màu trắng kiêu sa, hơi ưng ửng màu vàng nhạt giữa những cánh hoa nuột nà. Cây mai, ba tôi đã bỏ công mấy ngày lựa chọn cũng đã nằm chễnh vệnh giữa hai ghế salong, nụ ưng ửng vàng, hứa hẹn một năm nhiều may mắn.

Chiều ba mươi là buổi chiều được mong chờ, hồi hộp nhất trong mùa Tết. Nhà tôi không cúng rước ông bà thịnh soạn như nhà mấy đứa bạn ở phố mà theo phong tục của Đại Nẫm: Bốn dĩa xôi nếp trắng, hai con gà luộc để coi cẳng gà, trái cây, cốm, bánh tét, hai chum rượu trắng, dưa hấu, được chưng trên bàn ông Nội. Năm này qua năm kia, cặp chân gà được ba ngắm nghía kỹ lắm. Ba xem xét, phân tích mấy cái móng chân quặp đều đặn vô lòng bàn chân và năm nào tôi cũng nghe ba khen cặp chân tốt, hứa hẹn một năm nhiều may mắn. Cúng xong, thịt gà xé ra, trộn chút rau húng, hành lá cắt nhuyễn, chấm nước mắm gừng đặc sền sệt, ăn với xôi trắng và mấy đòn bánh tét. Cả nhà quay quần ăn bữa cơm cúng rước Ông Bà, hả hê rộn rã, bắt đầu hưởng một cái Tết đầm ấm vui nhộn. Ly rượu nếp than làm mặt ba người đặc biệt trong gia đình là má, tôi, con em đỏ bừng bừng.

Chị Hai Cao đã về quê ăn Tết nên má và chị em tôi phải dọn dẹp, rửa chén. Cả một ngày mệt mỏi, má nằm ngủ thiếp trong cái võng treo trên bộ ván gõ dầy cả tấc. Tôi không biết mấy chị làm gì khi chờ cúng giao thừa, chắc ủi quần ủi áo đặng chút nữa giả bộ xin đi chùa hái lộc nhưng để cho mấy anh ngắm. Còn tôi, chưa biết ăn diện, thương má, tôi đi dọn dẹp mấy cái bàn thờ. Bưng bàn ra ngoài để cúng Trời Đất, bàn thờ Thổ Thần, bàn thờ Ông Táo, bàn thờ hai đứa em chết non, bàn thờ ông Nội, sắp xếp ly để chút nữa cúng trà. Xuống bếp, chuẩn bị nấu sương sa, pha màu, trộn nước cốt dừa rồi đổ vô mấy cái ly, đổ mỏng mỏng cho mau đặc cứng. Bắt nước sôi để nấu nồi chè đậu xanh mà má đã đãi vỏ hồi sáng, chờ chè sôi lên, bỏ đường vô, bỏ bột báng, nhỏ lửa cho sôi riu riu, chờ. Chừng mười một giờ rưỡi, đã chuẩn bị xong mấy món cúng, pha xong bình trà, tôi kêu má dậy để cúng giao thừa. Má tôi ít khi khen con ra mặt, nhưng nhìn gương mặt má thật tươi khi hỏi tôi: ”Con nấu chè rồi hả? Đánh thức ba dậy rồi lấy nhang cho ba má cúng” là tôi biết má tôi vui lòng lắm. Và cứ như thế, năm nào cũng vậy, tôi lục đục nấu chè, đổ sương sa, chuẩn bị cho má cúng giao thừa. Cho đến khi tôi xa quê hương, tôi vẫn thường thắc mắc là đứa em út có lo cho má cúng giao thừa chu đáo như tôi hay không.
*****
Sáng sớm mùng một Tết, chuyện đầu tiên là chị em tôi náo nức ra phòng khách xem chậu mai nở ra sao và tìm kiếm mấy hoa mai sáu cánh, có khi bảy cánh để đoán xem năm nay nhà mình có được nhiều phước lộc. Bữa ăn sáng mùng một rất long trọng. Bánh tét cắt từng khoanh, chung quanh màu xanh lá cây lợt, giữa màu vàng và trong cùng là miếng mỡ trắng, xếp ngăn ngắn lên dĩa bàn lớn. Hai dĩa bánh tét, hai tô măng kho vàng tươi, hai tô thịt kho nước dừa với hột vịt luột, nước vàng nâu lóng lánh mỡ, dĩa củ kiệu, dĩa củ cải trắng trộn với mấy khoanh cà rốt màu cam được cắt tỉa đẹp mắt, hai dĩa bánh tráng dẽo mè đen đã được cắt làm tư nhúng nước, tất cả nằm trịnh trọng trên bàn ăn. Bánh tráng cuốn măng kho và củ cải chua, chấm nước thịt kho béo ngầy ngậy. Bánh tét ăn với thịt kho mềm rụm, nửa cái trứng, củ kiệu cay cay, chua chua, ngọt ngọt, cắt chút ớt ngâm dấm chua ngọt, ngon không thể tả được! Sau bữa cơm sáng no nê, đứa nào cũng lấn cấn ở nhà trong, chờ má lì xì mà mắc cở không dám nói ra. Nhà tôi không có tục lệ chúc Tết cha mẹ, ông bà, cho nên cũng không có tục lệ cha mẹ mừng tuổi con. Ba má tôi ngồi ở bàn ăn, cười hỏi: ” Đứa nào muốn tiền lì xì?” Cả bọn, đứa nào cũng cười lẻn bẻn, đúng tim đen quá mà, lẩn quẩn chờ nãy giờ. Má chia mỗi đứa một bịch đỏ, bề dầy khác nhau tùy theo tuổi, càng lớn tuổi thì bịch càng dầy.

Ba dẫn mấy chị em về nội, về ngoại, làng Đại Nẫm. Má ở nhà nghỉ ngơi sau mấy tuần lo Tết và mùng một ít bạn bè đến thăm. Cả nhà nội và ngoại cũng không có tục lệ chúc Tết ông bà, mừng tuổi con cháu. Thấy tụi tôi lên, bác Xã, bà nội phát cho mỗi đứa một tờ, không cần bao bì gì hết. Mà chúng tôi cũng đâu cần bao bì chi cho rắc rối. Có tiền là đủ rồi! Bà ngoại cũng vậy, phát cho mỗi đứa một tờ, không cần các cháu chúc lại. Cho là cho! Không nghĩ đến sự cảm ơn đáp lại. Người Đại Nẫm chân tình là thế đó. Ông ngoại tôi thì không bao giờ lì xì cho chúng tôi, mà chúng tôi cũng không chờ tiền lì xì của ông ngoại. Hôm qua má đã sai chị Ba đem tiền lên đưa ông ngoại để ông ngoại đi đánh bài mấy ngày Tết cho vui. Lần này thì chúng tôi không chơi lâu. Được tiền lì xì, tự động rủ nhau về trước, để mặc ba một mình đi thăm mấy ông chú, ông bác của ba.

Tụi tôi lo về lẹ để làm sòng bài ở nhà hay la cà đánh tài xỉu, bầu cua. Lúc đó tôi còn nhỏ nhưng cũng cứng rắn lắm. Lúc nào đi đánh bầu cua, tài xỉu là tôi quyết định một số tiền và tự hứa là thua hết số tiền này thì về, không chơi ráng để gỡ, không chơi hết tiền sạch túi như hai thằng em kế. Ba tôi rất ghét cái tánh bài bạc, nhưng những ngày Tết là tụi tôi được chơi thả dàn.

Tội nhất là anh Tánh con trai lớn bác Năm Sang bạn của má, theo chị Hai tôi, tới nhà chơi bị tụi em dụ anh làm cái bài xì dách. Đám tụi tôi đổi bài, dấu bài, chị Hai thấy mà không dám nói, nói ra là tỏ ý cho anh Tánh biết chị bênh anh rồi anh Tánh tưởng chị “chịu” anh thì mất ”danh dự” chết luôn. Anh Tánh thua sạch túi mà không biết có được người đẹp nhìn cho chút xíu nào không. Chị Hai làm cao lắm!

Trong nhà tôi, tôi và thằng em kế là đánh bài ma giáo nhất, liên kết chặt chẽ. Hai đứa nháy mắt, đổi bài lia lịa, hai bà chị khờ khạo, mấy đứa anh em cô chú ngờ nghệch, sạch túi mà không chút nghi ngờ. Ai đời đánh bài phé, mà cứ được thùng, hay suốt hay ba xì là ngồi rung chân thỏa mãn. Tôi với thằng em nói vẩn vơ vài câu, kéo cho mấy người đó lộ tẩy rồi giả bộ tố, giả bộ rút lui, sợ thua, mấy người đó vô lưới hết. Trời hại thằng em tôi, ăn gian ở nhà, ra đường chắc bị lừa, thường đến mùng hai là thua sạch túi, về dụ tôi cho tiền đi chơi, rủ tôi đi ciné để tôi bao.

Chiều mùng ba, chị Hai Cao lên, tụi tui mừng hết lớn. Có người rửa chén. dọn dẹp nhà cửa, mặc dù sau khi cúng ông bà chiều ba mươi, không được quét nhà, có quét thì túm lại một góc nhà chứ không được đổ rác. Xoong măng thứ hai đã được kho lại. Ba ngày, ngày nào cũng bánh tráng cuốn măng kho và củ cải chua, bánh tét, tụi tôi bắt đầu ngán, nhưng có ai có thì giờ nấu cơm đâu. Có bữa ham chơi, tôi nhúng ướt một cái bánh tráng, măng kho, bánh tét, thịt kho, đồ chua, làm một cuốn lớn to bằng cườm tay ba, dài chắc cỡ hai mươi centimet, chạy ra đường vừa ăn vừa coi đánh bầu cua. Bởi vì sau bữa ăn sáng mùng một là chúng tôi không ai có thì giờ về nhà ăn cho đúng bữa. Ba má tôi cũng dễ dãi, đứa nào muốn ăn lúc nào thì ăn, hên thì về nhằm bữa, ăn chung với ba má.

Chiều mùng ba, má xào mì cúng đưa Ông Bà. Rác được đem đi đổ sau khi cúng Tất. Trưa mồng bốn, chị Hai Cao nấu cơm, mở mấy đòn thịt bò ướp sả ớt treo lủng lẳng trên bếp, cắt từng lát mỏng, chiên cho cả nhà ăn cơm, bữa cơm trắng đầu năm sao ngon lạ lùng.

Trên danh nghĩa là hết Tết nhưng đối với chúng tôi, Tết chưa hết. Còn được nghỉ học, còn được đánh bài thả dàn, nhà còn hột dưa bánh mứt là còn Tết. Chị Hai Cao mê đánh bài không thua gì chúng tôi, tối nào cũng rủ đánh bài. Với chị Hai Cao, không dễ gì qua mặt ăn gian được, bị chị cốc đầu, đòi tiền lại vì cái tội láu cá đều đều. Chị Hai Cao mê đánh bài đến độ có hôm chờ ba má đi ngủ, chị kêu nho nhỏ, chúng tôi lò mò giở mùng, chui xuống nhà bếp, thắp đèn hột vịt, thì thào đánh bài. Chắc ba má biết mà làm lơ. Dễ gì qua mặt ba má!

Tối mùng bảy, ngày mai đi học lại, ba tôi biểu chị Hai Cao đem bộ bài tứ sắc, bộ bài cắt tê bỏ vô bếp đốt. Tối đó, trong tâm trạng thơ thẩn, tôi tưởng như đời hết vui, hết thú nữa rồi vì mấy bộ bài đã ra tro than, lòng tiếc hùi hụi. Nhưng sáng hôm sau, đi học, vui thầy, vui bạn, cơn mê đánh bài cũng tan theo mây khói.

Sau năm Mậu Thân, má tôi sợ không được ăn Tết trọn vẹn như năm đó, má tôi cho gia đình ăn một cái Tết mini vào cuối tháng mười một và chúng tôi cũng như ba tôi, ai cũng ủng hộ rầm rầm. Dĩ nhiên năm đó nhà tôi ăn Tết hai lần. Không chán! Chỉ tội má tôi, phải cực nhọc hai lần.

Khi viết bài tùy bút này, sao tôi không nghe tiếng súng, tiếng bom đạn. Tôi sinh ra khi cuộc chiến chống thực dân đến hồi kết thúc. Và rồi tôi lớn theo cuộc nội chiến ngày càng quyết liệt. Thế mà tuổi thơ chúng tôi không bị chiến tranh làm vẫn đục, tuổi thơ chúng tôi vẫn đầy hoa thơm cỏ mịn.

Cảm tạ, cảm tạ “người lớn” đã ưu ái cho chúng tôi một đời sống an vui trong thời chiến

Bước Chân Lãng Tử

Sau năm ngày ngợp mắt vì cái đồ sộ, to lớn, vĩ đại, hào nhoáng, trăm vẻ, ồn ào…, còn chữ nào nữa không nhỉ, có hết những thứ đã thấy trong phim ảnh của thành phố New York, bốn người chúng tôi, những người Viking Na Uy nhỏ bé hiền hòa (xin lưu ý: không phải bốn chúng tôi nhỏ bé hiền hòa mà là nước Na Uy của chúng tôi nho nhỏ nhu mì: Na Uy được cái hân hạnh là nơi tổ chức trao giải thưởng Nobel Hoà Bình mỗi năm vì trong lịch sử thế giới,

Na Uy chưa bao giờ gây lộn, đánh lộn với bất cứ một quốc gia nào), chúng tôi đáp máy bay đến Phoenix, Arizona để chuyển máy bay đến Tucson. Ngay từ trong khuôn viên phi trường, những hình ảnh hơi là lạ đã bắt đầu gây ấn tượng nơi chúng tôi: Những hàng hóa bày bán đều mang hình ảnh đủ loại cây xương rồng xấu xí, con kỳ nhông, kỳ đà thiệt là bình thường và nhất là dáng vẻ tự nhiên của mọi người với cái nón “cao bồi” trên đầu. Lúc đầu tôi tưởng vài người nào đó làm dáng. Tôi cười thầm: Hừm…nón cao bồi có gì mà làm dáng !!! Dần dần, năm, mười phút sau tôi mới hiểu là cái sự đội nón cao bồi trên đầu ngay cả trong phi trường có máy lạnh là một chuyện tự nhiên hết sức tự nhiên của người dân Arizona, xứ nắng khô đồng cháy đã mời chúng tôi đến thử làm cao bồi ở cái “ranch” trong một tuần lễ. Tôi quan sát các kiểu nón và gật đầu công nhận là cũng có vài kiểu phù hợp với cái tính hay làm điệu làm dáng bề ngoài của tôi. Tôi thầm chấm một kiểu: Kiểu nón vẫn mang dáng vẻ cao bồi nhưng được đan bằng những cọng lát mỏng trắng ngà, cánh nón rộng, mịn màn, vừa ngầu vừa mỹ miều. Sẽ mua kiểu này!

Lạ lùng! Cái xứ gì mà 150 km đường xa lộ, từ phi trường Tucson đến Grapevine Canyon Ranch không một tàn cây bóng mát, chỉ toàn loe hoe năm ba cây xương rồng to tướng khô khan. Cứ theo bản đồ, lần đầu tiên lái xe ở Mỹ, thế mà chúng tôi đến nơi trúng phóc, không cần de xe, không cần thắng lại, không cần quay lui một lần nào (Là do người đọc bản đồ giỏi, tôi đó! Và người lái xe nghe lời tôi, biết thân, không bàn lui bàn ngược như thường ngày, lỡ tôi bàn không lại rồi tôi dở chứng ngậm miệng, giả bộ ngủ, thì chỉ có nước vừa đọc bản đồ vừa lái xe.) Đường xá thẳng tắp, thẳng góc, phẳng trơn, phân minh, rõ ràng như một bàn cờ tướng, dễ chạy xe nên cũng dễ chán. Và cái nắng, cái nóng của Arizona cũng lạ nữa. Cùng một độ nóng vào tháng này ở nhưng nóng ở đây là nóng khô, nóng cháy da chứ không nóng âm ẩm làm cho mình có cảm tưởng người luôn luôn ươn ướt ri rỉ mồ hôi như ở Việt Nam thương yêu của mình.

Chúng tôi bốn người đều mê phim cao bồi, theo phe mọi da đỏ, bực cái chuyện người da trắng ăn hiếm, ăn gian, lợi dụng… những giống dân da đỏ cách đây 500, 400 năm nên đã chọn một tuần lễ được sống như những chàng cao bồi ở quê hương của Apache, một ranch cách xa đường tráng nhựa 20 phút xe hơi, chung quanh chỉ toàn là rừng xương rồng thưa thớt đủ mọi hình dạng, thỉnh thoảng mới có vài bóng mát rộng lớn của những cây oak lão làng hay một vài cây đầy gai nhọn, những cây gai dài 6, 7 cm. Cả khu vực ranch được bao bọc bởi những đồi, những núi nhìn từ xa tưởng chừng như những cái đầu trọc với vô số mụt nhọt. Cảm giác hãnh diện vì bỗng nhiên mình được thấy tận mắt, được hít thở không khí nắng khô của những phim cao bồi, được lang thang trên vùng đất chính một trong những nơi trú ẩn của bộ lạc Apache. Hạnh phúc!

Tôi tự chọn mình vào nhóm đi ngựa dở nhất vì tôi chỉ là một kỵ sĩ thiệt là tơ lơ mơ, còn ba người kia thì phi như gió. Người bạn hiền chung thủy của tôi, không bỏ bạn lúc bạn chưa ngã ngựa nên mặc dù đi ngựa giỏi nhưng cũng ghi tên vô nhóm đi dở cho tôi có bạn và chắc cũng để thông dịch cho tôi khi cần vì cái khả năng tiếng Mỹ hạn hẹp của tôi, lỡ tôi hiểu lầm, tôi đi đường tôi, một Apache nào đó dụ dỗ… Na Uy có giòng họ với hoàng tộc Anh (vua Harald là người thứ tám trong danh sách sẽ thừa hưởng ngôi vua sau nữ hoàng Elisabeth đệ nhị) nên tiếng Anh người Viking chúng tôi nói thuộc loại tiếng Anh Orford Street. Hơn nữa âm hưởng trong giọng người Việt nói tiếng Anh cũng không bay bướm mấy nên tôi đâu dám hỏi tới hỏi lui, cái gì cũng gật đầu cho xong chuyện (Kinh nghiệm cho thấy cứ mỗi lần tôi mở miệng ra nói được một vài câu là bị hỏi: Where are you from! Quê lắm!). Ấy cho nên tôi không cảm thấy an toàn trong nhóm này, thầm cám ơn bạn hiền biết điều. Và đương nhiên cách thế cưỡi ngựa của chúng tôi cũng thuộc cách thức cổ điển của nước Anh. Từ quần áo, giày nón, yên ngựa, tư thế ngồi, cho đến cách cầm dây cương… nhất nhất đều cứng nhắc, gò bó so với cái giản dị phóng khoáng từ quần áo, giày nón (có gì dùng đó) đến phong thế cưỡi ngựa Western, yên ngựa Western và khung trời nắng khô đồng trống toàn sỏi đá Western, sống hòa mình với những tâm hồn lãng tử của những anh chàng cao bồi Western ngày xưa. Hãy tưởng tượng đi, ngày xưa tù trưởng Cochise, Geronimo… tướng George Crook, Nilson A. Miles, John Butterfield… đã từng hít thở không khí này, đã từng dong dã chân ngựa trên khoảng đất này, đã từng dừng chân đốt lửa trại qua đêm bên con suối này… làm sao chúng tôi không cảm thấy mình may mắn? Những Vikings từ miền Bắc Âu hoang sơ. Diễm phúc!

Hai ngày đầu, mỗi sáng, mỗi nhóm đi theo tuyến đường của mình, tùy sở thích và tùy khả năng chịu đựng. Mỗi ngày một tuyến đường, một cảnh vật nhưng khí hậu thì vẫn gay gắt như nhau. Trong khoảng ba hay bốn tiếng đồng hồ người trưởng đoàn hướng dẫn cả nhóm băng rừng leo núi, lúc thông thả, lúc bặm môi tưởng như bị hất khỏi lưng ngựa, hết hồn hết vía, lúc cắn môi vì thương cho đôi chân ngựa mảnh khảnh ráng gượng đi từ bước xuống dốc đá lởm chởm. Người dẫn đường giải thích từng cảnh vật trên lộ trình: Mưu cách của những con chim diều hâu lượn bắt mồi, đời sống những cây xương rồng khổng lồ, lịch sử con đường mòn… và tôi cảm thấy tôi thông thái ra chút xíu sau một ngày trên lưng ngựa. Sự thông thái này có còn lưu lại trong đầu tôi lâu hay không là một chuyện khác. Nếu những kiến thức này còn lại chừng 5% trong đầu óc càng lúc càng lười biếng của tôi là tôi hài lòng lắm rồi. Thật đấy!

Buổi chiều sau cơm chiều là chuyến đi chừng hai giờ. Cũng băng rừng leo núi nhưng lộ trình hiền lành hơn, chắc vì bụng ai cũng no căng, hay chủ ranch sợ mệt ngựa(?) Đây là khoảng thời gian thoải mái nhất. Nắng dịu dần, đường núi cũng không mấy chông gai, thấy được nhiều thú rừng ra tìm thức ăn. Những con nai xinh xắn dừng chân ngoái cổ nhìn đoàn thú lạ lùng hai đầu sáu chân, làm những con thỏ cụt đuôi chạy nhanh vô bụi cây… Và nhất là ngắm được cảnh mặt trời lặn, cảnh cuối trời ửng đỏ, lặn nhanh, không ngày nào giống ngày nào làm cho lòng người viễn du lâng lâng cảm nhận cái hạnh phúc muôn màu muôn vẻ, lúc gần lúc xa, chỉ cần dừng chân ngựa năm ba phút, vói tay là tới, quay lưng là mất. Lúc này ai muốn cho ngựa mình phi lóc thóc thì cứ thử thời vận. Nhưng giống ngựa là giống sống theo đàn, ngồi lưng ngựa nhắm mắt, ngựa cũng theo đàn anh đi trước. Đàn anh chạy, đàn anh phi, thì mấy đàn em cũng chạy cũng phi. Nếu lỡ người trên lưng ngựa (như tôi chẳng hạn!) hăng máu cao bồi, thúc cho ngựa chạy qua mặt ngựa người đi trước là cả một sự khiêu khích cả người lẫn ngựa, bị ngựa ta co giò, tai vểnh tai cụp tỏ ý bất mãn và bị người rủa thầm: “Bất lịch sự!”

Qua ngày thứ ba là tôi chọn tuyến đường hiểm trở chông gai 8 tiếng đồng hồ vừa đi vừa về, cả mấy người giỏi cũng đi chung. Tôi hãnh diện lắm! Chuẩn bị thức ăn trưa, hai bi-đong nước đã được để vô tủ đá từ tối hôm qua, lòng tôi hơi lo lo vì được biết là tôi phải đổi ngựa để chịu đựng dẻo dai hơn. Như thế là tôi phải bỏ thì giờ dỗ ngon dỗ ngọt con ngựa mới này, vuốt ve, nói chuyện với nó, làm thân với nó… và nhất là phải học những thói hư tật xấu của nó để dễ khiển nó đi theo ý tôi.

cứ điểm của người Apache
Chúng tôi sẽ lên Stronghold, nơi ngày xưa giống người da đỏ Apache làm căn cứ để chống lại quân đội da trắng vì địa thế hiểm trở, địa thế du kích. Xe chở cả người và ngựa đến chân núi. Từ đó chúng tôi sẽ lên Stronghold. Gọi là đi lên nhưng đường lúc lên lúc xuống , ngoằn nghèo, có những lúc tưởng ngựa chịu hết nổi cái thân không mấy nhẹ nhàng lắm của chúng tôi mà quỵ xuống. Nhiều khúc đường toàn là đá cục tròn nằm lỏng lẻo, chỉ cần ngựa trật chân một cái là lọt xống vực sâu bên đường. Nhiều lúc ngựa ta lóc thóc chạy lách lõi dưới những tàn cây thấp đầy gai nhọn, không màng gì tới người ngồi trên lưng mình, kỵ sĩ phải lanh lẹ cúi đầu nằm sát lưng ngựa, nghiêng lách người, nếu không là tróc nón, gai móc rách áo, xướt tay… Lúc thúc, lúc kèm vì con Mooni của tôi hay nổi hứng bất tử lắm (Đúng ra là tại tôi không biết khiển nó!) và cũng mơ mộng như chủ nữa. Đang đi, thấy bụi cỏ xanh là ngừng lại nhâm nhi, mặc cho tôi dựt dây, thúc bụng, đôi lúc tức quá, tôi phải quất cho một cái đau điếng, Mooni ta mới chịu tiếp tục. Có khi tự nhiên Mooni rẻ ra hướng khác, và trên lưng ngựa, tôi đang mơ mơ màng màng nghĩ đến một nhân vật trong cuốn tiểu thuyết nào đó, không để ý ” ngựa nản chân bon”… Đến chừng người sau kêu, nhắc chừng, tôi mới bừng tỉnh, kéo, thúc cho Mooni đưa tôi về lối cũ. Ông trưởng đoàn bao giờ cũng sắp xếp một vài người đi phía sau tôi. Ma lanh!

Lộ trình quả thật chông gai nhưng bù lại được ngắm nhìn phong cảnh hùng vĩ , bên kia núi xa xa là New Mexico và nhất là đến được nơi ngày xưa bộ tộc Apache ẩn trú kiên trì chống lại đội quân U.S. Ngồi nghỉ ăn trưa, dở gói bánh mì tôi tự làm hồi sáng với thật nhiều thịt và phô mai (Nghệ thật ăn giữ eo: ít bột, nhiều protein), một dòng kem vàng vàng chảy ròng rả từ miếng sandwich duy nhất của tôi, phô mai đó, làm sao chịu nổi cái nóng 40 độ C này trong bốn tiếng đồng hồ. Đoản vị! Phải nhắm mắt mà nhai mà nuốt (Ước chi có tô mì gói con tôm nhỉ! Không cần thêm hành, tôm thịt, rau gì hết!). Đã vậy, ông trưởng đoàn không tâm lý chút nào hết. Hồi sáng chúng tôi được xe chở đến tận chân núi, bây giờ, sau giờ ăn trưa, mệt mõi, thì lại phải lóc thóc cưỡi ngựa về. Đường đi lên ba tiếng đồng hồ, đường đi về năm tiếng đồng hồ, cả một sự tính toán sai lầm!!! Dầu cho trên đường đi về chúng tôi được dừng chân ngựa ngắm cảnh núi non hùng vĩ xa xa dưới bầu trời trong thanh không một cợn mây, cũng không bù lại cái tính toán thiếu sư phạm này đã làm chúng tôi rã rời tê mông khi nhảy xuống khỏi lưng ngựa, đi thẳng một mạch về cái hut của mình, ngã lăn ra gường, làm một giấc tới khi kẻng cơm chiều gióng kêu leng keng. Cái mệt mõi hài lòng!

Kinh nghiệm chuyến đi lên Stronghold, hôm nay đi lên Fort Bowie, tôi chỉ chuẩn bị vài cái trứng luột, trái cây và dĩ nhiên hai bi-đong nước đong lạnh, mặc dù tôi biết rằng chỉ đến trưa trên đường về là nước trở nên âm ấm nóng, uống đến lợm giọng, nhưng phải uống. Tuyến đường hôm nay tương đối hiền lành, một phần của tuyến đường Butterfiel Overland Mail. Sau cuộc chiến hơn hai mươi năm giữa U.S Army và bộ lạc Chiricahua Apaches, Fort Bowie và Apache Pass trở thành trọng điểm cai quản khu vực. Tất cả những chiếc wagons của đoàn người di dân vào thế kỷ thứ mưới chín, từ St. Louis đến Los Angeles và San Francisco đều phải qua Fort Bowie. Bây giờ khung cảnh toàn trại chỉ còn vài bức tường đã bị đập vở nửa chừng và trạm đón du khách mới được xây sau.

Đứng trên ngọn đồi ngày xưa là trạm canh, tôi mới hiểu tại sao quân đội dùng điểm cứ này. Trên đỉnh đồi không cao mấy nhưng ta có thể phóng tầm mắt quan sát, theo dõi được tất cả những gì đang diễn ra trên những con đường mòn xa xa, trên những cánh đồng cỏ cây thưa thớt, trên những đồi núi trọc thâm thấp lững lơ. Nếu đường đi lên Stronghold hôm qua là để du khách được nhìn tận mắt, được cảm tận lòng cái khó khăn hiểm trở cửa địa thế thì đường lên Fort Bowie là ba giờ học trên lộ trình mang đầy di tích lịch sử. Chừng mười lăm, hai mươi phút là có bia đá được khắc những hàng chữ tường thuật lại một vài sự kiện lịch sử, túp lều Apaches, nghĩa địa những người tử vì… tìm đường sống còn. Và thác nước Apache Spring rơi êm đềm xuống dòng suối lững lờ trôi trong cái mát dịu người của cây cối chung quanh. Một nguồn vui bất ngờ của kẻ lãng tử trên con đường ngập nắng khô cằn. Xuống ngựa, quì gối, cúi vóc một ngụm nước suối trong mát, làm trôi đi lớp bụi “phong trần”, tôi mới hiểu cái giá trị cuộc chiến đấu mất còn của bộ lạc Apache ngày xưa để bảo vệ nguồn nước. Apach Spring đã từng là cứu tinh của người Da Đỏ, của những đoàn lính viễn chinh, của những đoàn xe ngựa đi tìm quê hương lập nghiệp nơi miền biển Tây màu mở, nhiều hứa hẹn.

Bảy ngày dong duỗi trên lưng ngựa. Bảy ngày được sống trong lòng đất Apache, chúng tôi đáp máy bay xuống miền biển Key West Florida, một làng quê nghe nói vẫn còn giữ được nét thô sơ của làng chài ngày xưa và cũng để kịp chứng kiến (chứ không tham gia!) ngày Henningway. Rời bỏ quê hương Apache với lòng lưu luyến người dân Arizona thành thực, phóng khoáng từ ngôn ngữ đến cái cười. Sống trong lòng người Mỹ chính thực, chúng tôi những người châu Âu thường tỏ ý coi thường nền văn hóa không quá năm trăm năm, vẫn thường có thành kiến về cái hào nhoáng bề ngoài của đất nước Mỹ, luôn người Mỹ, chúng tôi đã học một bài học quí giá trong đời: Hãy sống hòa đồng và tìm hiểu tường tận trước khi đánh giá. Tiếc là ruột tượng đã cạn, chương trình đã được ấn định, chúng tôi đành chia tay Arizona một buổi sáng còn mờ tối, lên đường trở lại phi trường Tucson với nổi lòng bùi ngùi.

Có một điều tôi tiếc hoài, tiếc hoài. Tôi không sắm cho tôi được cái nón cao bồi đan bằng dây lát trắng mảnh, vừa ngầu vừa mỹ miều mà tôi đã âm thầm chọn khi ở phi trường Phoenix. Phải chọn mua cái nón cao bồi nỉ nâu, tuy cũng đẹp và bảo vệ đầu tốt hơn, tôi vẫn còn ấm ức lắm. Muốn có cái nón như tôi ao ước thì thợ phải đan theo đúng dạng đầu của từng người, phải chờ cả tuần mới xong. Tôi vở mộng làm nữ cao bồi điệu. Thôi vậy, chờ kiếp sau!

Võ Thị Điềm Đạm

1 11 12 13 14 15 58